Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

cải cách bộ máy hành chính nhà nước thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.42 KB, 13 trang )

MỤC LỤC
1
Đề tài :cải cách bộ máy hành chính nhà nước thực trạng và
giải pháp.
I. Lí luận chung:
Ngày nay,cùng với sự phát triển chung của xã hội nói chung và ngành
luật nói riêng cần có những cải cách nhất định tạo điều kiên thuận lợi cho các
hoạt động xã hội.Một trong đó là cải cách cải tổ bộ máy hành chính nhà nước.
Trong gần 20 năm qua Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã có nhiều nghị
quyết về đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà trọng tâm là cải cách nền hành chính nhà
nước, bắt đầu từ Nghị quyết Trung ương 8 (Khoá VII) năm 1995, rồi Nghị
quyết Trung ương 3, 7 (Khoá VIII), Đại hội IX và X tiếp tục khẳng định cải
cách nền hành chính nhà nước là nhiệm vụ trọng tâm của xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, của chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế. Có nhiều nghị quyết ra nhiều
chủ trương, quan điểm về cải cách bộ máy nhà nước, cải cách nền hành chính
nhà nước nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, dân chủ hoá đời
sống xã hội, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hội nhập
kinh tế quốc tế.
1.1 Định nghĩa và một số chế định trong luật hành chính:
A1.Bộ máy hành chính nhà nước:
Các cơ quan hành chính của nước ta bao gồm:
Cơ quan hành chính Nhà nước ở cấp trung ương bao gồm các Bộ, cơ
quan ngang Bộ, cơ quan trực thuộc Chính phủ.
Ủy ban Nhân dân tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương.
Ủy ban Nhân dân huyện, quận, thành phố trực thuộc tỉnh, thị xã.
Ủy ban Nhân dân xã, phường, thị trấn.
Các cơ quan hành chính theo ngành tại địa phương bao gồm các cơ quan
chuyên môn của Ủy ban Nhân dân và cơ quan đại diện của các bộ tại địa phương:
Tại tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương: các sở, ban, cục.


Tại huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh: các phòng, chi cục.
Tại các xã, phường, thị trấn: các đội.
2
Bộ máy nhà nước là một chỉnh thể thống nhất, được tạo thành bởi các
cơ quan nhà nước. Bộ máy nhà nước Việt nam gồm bốn hệ thống cơ quan chính:
cơ quan lập pháp, cơ quan hành chính, cơ quan toà án và cơ quan kiểm sát.
Luật Việt nam đặt vai trò của cơ quan lập pháp rất lớn, không chỉ thiết
lập ra các hệ thống cơ quan khác mà còn là cơ quan chỉ đạo, giám sát
chung. Tuy nhiên, cơ quan chấp hành của Quốc hội là Chính phủ (cơ quan
hành chính nhà nước cao nhất), có vai trò rất quan trọng trong việc quản lý
nhà nước và thực thi các văn bản mà Quốc hội ban hành. Hệ thống cơ quan
đứng đầu là Chính phủ, thực hiện chức năng hành pháp là cơ quan hành
chính nhà nước.
Như vậy, cơ quan hành chính nhà nước là một loại cơ quan trong bộ
máy nhà nước được thành lập theo hiến pháp và pháp luật, để thực hiện
quyền lực nhà nước, có chức năng quản lý hành chính nhà nước trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Một là, Cơ quan hành chính nhà nước hoạt động mang tính quyền lực
nhà nước, được tổ chức và hoạt động trên nguyên tắc tập trung dân chủ. Tính
quyền lực nhà nước thể hiện ở chổ: Cơ quan hành chính nhà nước là một bộ
phận của bộ máy nhà nước; Cơ quan hành chính nhà nước nhân danh nhà
nước khi tham gia vào các quan hệ pháp luật nhằm thực hiện các quyền và
nghĩa vụ pháp lý.
Hai là, Mỗi cơ quan hành chính nhà nước đều hoạt động dựa trên những
quy định của pháp luật, có chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền nhất định và có
những mối quan hệ phối hợp trong thực thi công việc được giao.
Hệ thống cơ quan hành chính nhà nước có cơ cấu, tổ chức phù hợp với
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định.
Chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của cơ quan hành chính nhà nước do
pháp luật quy định, đó là tổng thể những quyền và nghĩa vụ cụ thể mang tính

quyền lực, được nhà nước trao cho để thực hiện nhiệm vụ, chức năng của
mình, cụ thể: Các cơ quan nhà nước tổ chức và hoạt động trên cơ sở pháp luật
và để thực hiện pháp luật; Trong quá trình hoạt động có quyền ban hành các
quyết định hành chính thể hiện dưới hình thức là các văn bản pháp quy và các
văn bản cá biệt; được thành lập theo quy định của Hiến pháp, Luật, Pháp lệnh
3
hoặc theo quyết định của cơ quan hành chính nhà nước cấp trên; được đặt
dưới sự kiểm tra, giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp và báo
cáo hoạt động trước cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp; Có tính độc lập và
sáng tạo trong tác nghiệp điều hành nhưng theo nguyên tắc tập trung dân chủ,
nguyên tắc quyền lực phục tùng.
Ba là, Về mặt thẩm quyền thì cơ quan hành chính nhà nước được quyền
đơn phương ban hành văn bản quy phạm pháp luật hành chính và văn bản đó
có hiệu lực bắt buộc đối với các đối tượng có liên quan; cơ quan hành chính
nhà nước có quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế đối với các đối tượng
chịu sự tác động, quản lý của cơ quan hành chính nhà nước
Cơ quan hành chính nhà nước là một loại cơ quan nhà nước, là một bộ
phận cấu thành bộ máy nhà nước. Do vậy, cơ quan hành chính nhà nước cũng
mang đầy đủ các đặc điểm chung của các cơ quan nhà nước.
Ngoài những đặc điểm chung nói trên, cơ quan hành chính nhà nước còn
có những đặc điểm riêng như sau:
Một là, Cơ quan hành chính nhà nước có chức năng quản lý hành chính
nhà nước, thực hiện hoạt động chấp hành và điều hành trên mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội, trong khi đó các cơ quan nhà nước khác chỉ tham gia vào
hoạt động quản lý trong phạm vi, lĩnh vực nhất định.
Hai là, Cơ quan hành chính nhà nước nói chung là cơ quan chấp hành,
điều hành của cơ quan quyền lực nhà nước.
Thẩm quyền của các cơ quan hành chính nhà nước chỉ giới hạn trong
phạm vi hoạt động chấp hành, điều hành. Hoạt động chấp hành - điều hành
hay còn gọi là hoạt động quản lý hành chính nhà nước là phương diện hoạt

động chủ yếu của cơ quan hành chính nhà nước. Điều đó có nghĩa là cơ quan
hành chính nhà nước chỉ tiến hành các hoạt động để chấp hành Hiến pháp,
luật, pháp lệnh, nghị quyết của cơ quan quyền lực nhà nước trong phạm vi
hoạt động chấp hành, điều hành của nhà nước.
Các cơ quan hành chính nhà nước đều trực tiếp hoặc gián tiếp phụ thuộc
vào cơ quan quyền lực nhà nước, chịu sự lãnh đạo, giám sát, kiểm tra của các
cơ quan quyền lực nhà nước cấp tương ứng và chịu trách nhiệm báo cáo trước
cơ quan đó.
Các cơ quan hành chính nhà nước có quyền thành lập ra các cơ quan
chuyên môn để giúp cho cơ quan hành chính nhà nước hoàn thành nhiệm vụ.
Ba là, Cơ quan hành chính nhà nước là hệ thống cơ quan có mối liên hệ
chặt chẽ, thống nhất.
4
Cơ quan hành chính nhà nước là một hệ thống cơ quan được thành lập từ
trung ương đến cơ sở, đứng đầu là chính phủ, tạo thành một chỉnh thể thống nhất,
được tổ chức theo hệ thống thứ bậc, có mối quan hệ mật thiết phụ thuộc nhau về
tổ chức và hoạt động nhằm thực thi quyền quản lý hành chính nhà nước.
Hầu hết các cơ quan hành chính nhà nước đều có hệ thống các đơn vị cơ
sở trực thuộc. Các đơn vị, cơ sở của bộ máy hành chính nhà nước là nơi trực
tiếp tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội. Ví dụ Bộ Công an có các
đơn vị, Bộ Giáo dục- đào tạo có các đơn vị, các trường Đại học trực thuộc,
Bốn là, Hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước mang tính thường
xuyên, liên tục và tương đối ổn định, là cầu nối đưa đường lối, chính sách
pháp luật vào cuộc sống.
Tất cả các cơ quan hành chính nhà nước có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau, đó là mối quan hệ trực thuộc trên-dưới, trực thuộc ngang-dọc, quan hệ
chéo tạo thành một hệ thống thống nhất mà trung tâm chỉ đạo là Chính phủ.
Năm là, Cơ quan hành chính nhà nước có chức năng quản lý nhà nước
dưới hai hình thức là ban hành các văn bản quy phạm và văn bản cá biệt trên
cơ sở hiến pháp, luật, pháp lệnh và các văn bản của các cơ quan hành chính

nhà nước cấp trên nhằm chấp hành, thực hiện các văn bản đó. Mặt khác trực
tiếp chỉ đạo, điều hành, kiểm tra hoạt động của các cơ quan hành chính nhà
nước dưới quyền và các đơn vị cơ sở trực thuộc của mình.
Cơ quan hành chính nhà nước là chủ thể cơ bản, quan trọng nhất của
Luật hành chính.
Tóm lại, cơ quan hành chính nhà nước là bộ phận cấu thành của bộ máy
nhà nước, trực thuộc cơ quan quyền lực nhà nước một cách trực tiếp hoặc
gián tiếp, trong phạm vi thẩm quyền của mình thưc hiện hoạt động chấp hành
- điều hành và tham gia chính yếu vào hoạt động quản lý nhà nước, có cơ cấu
tổ chức và phạm vi theo luật định.
1.2. Địa vị pháp lí bộ máy hành chính nhà nước và thủ tục hành chính
nhà nước:
Địa vị pháp lí của các cơ quan hành pháp được thể hiện qua một số văn
bản pháp luật cơ bản quy định về chức năng,nhiệm vụ quyền han của các cơ
quan thuộc bộ máy hành chính nhà nước:
5
Hiến pháp 1992 (trích chương về Chính phủ)
Luật tổ chức chính phủ Quy chế làm việc của Chính phủ
Quy chế làm việc mẫu của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ
Chức năng, nhiệm vụ của Bộ - Cơ quan ngang Bộ
Chức năng, nhiệm vụ của Cơ quan thuộc Chính phủ
Quy chế làm việc mẫu của Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương
Quy chế làm việc mẫu của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn
Khi các cơ quan hành chính nhà nước ban hành ra các văn bản hành
chính nhà nước,các văn bản hước dẫn pháp luật lddax tạo ra sự pong phú đa
dạng trong các văn bản pháp luật.
II.Thực trạng :
Cải cách hệ thống bộ máy hành chính nhà nước trong những năm vừa qua:

Đã có sự đổi mới quan trọng về vai trò, chức năng,trách nhiệm của tổ
chức bộ máy chính phủ,các bộ và các cơ quan hành chính địa phương cho phù
hợp với nền kinh tế thị trường và hội nhập toàn cầu của nước ta.
1,Trên thực tế vai trò và chức năng của bộ má hành chính có những
đổi mới tích cực:
-Các cơ quan trong bộ máy hành chính nhà nước được xác định chức
năng nhiệm vụ,thẩm quyền và trách nhiệm rõ ràng:chuyển được một số công
việc,dịch vụ không cần thiết phải do cơ quan hành chính nhà nước thực hiện
cho doanh nghiệp, tổ chức xã hội,tổ chức phi chính phủ đảm nhận,ví dụ như
có các văn phòng công chứng tư
-Cơ cấu tổ chức chính phủ thu gọn hợp lí theo nguyên tắc bộ quản lí đa
ngành,đa lĩnh vực thực hiện chức năng chủ yếu là quản lí quy mô trên toàn xã
hội bằng pháp luật chính sánh ,hướng dẫn và kiểm tra thực hiện.
1.2. Chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan trong hệ thống hành chính
nhà nước được điều chỉnh từng bước phù hợp với yêu cầu quản lý nhà
nước trong kinh tế thị trường
Chính phủ, các bộ đã tập trung nhiều hơn vào thực hiện chức năng quản
6
lý nhà nước vĩ mô trong phạm vi cả nước, trên các lĩnh vực của đời sống kinh
tế - xã hội; tập trung thời gian và nguồn lực vào việc thực hiện chức năng đích
thực của mình là xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, xây dựng và ban
hành cơ chế, chính sách, thanh tra, kiểm tra việc tổ chức thực hiện.
Đã thực hiện điều chỉnh chức năng quản lý nhà nước giữa các cấp hành
chính cho phù hợp với tình hình thực tiễn, trên nguyên tắc mỗi việc chỉ do
một cơ quan phụ trách, khắc phục sự trùng lắp, chồng chéo về chức năng,
nhiệm vụ. Chính quyền địa phương được phân cấp nhiều hơn, nhất là trong
các lĩnh vực ngân sách, tài chính, biên chế, đầu tư, đất đai, y tế, giáo dục
v.v… Trên cơ sở điều chỉnh lại phạm vi, đối tượng quản lý của các cơ quan
hành chính nhà nước, phân biệt và tách chức năng quản lý nhà nước của các
bộ, ngành và chính quyền địa phương với quản lý sản xuất kinh doanh và

quản lý hoạt động sự nghiệp dịch vụ công, từng bước xoá bỏ chế độ chủ quản
đối với doanh nghiệp.
-Bộ của các bộ được điều chỉnh về cơ cấu trên cơ sở phân biệt rõ chức
năng,phương hướng hoạt động của các bộ phận tham mưu thực thi chính sách
cung cấp dịch vụ công.
-Đến năm 2005 về cơ bản xác định xong và thực hiện được các quy định
mới về phân cấp quản lí hành chính nhà nước giữa trung ương và địa
phương,giữa các cấp chính quyền địa phương,định rõ chức năng nhiệm vụ:
1.3. Cơ cấu tổ chức bộ máy hành chính nhà nước từ trung ương đến
địa phương được điều chỉnh, sắp xếp tinh gọn, hợp lý hơn:
Đồng thời với quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế, từng bước làm rõ
phạm vi và nội dung chức năng quản lý nhà nước trên các lĩnh vực, trong
những năm qua, đã tiến hành nhiều đợt sắp xếp, điều chỉnh lại tổ chức bộ máy
các cơ quan hành chính nhà nước.
Trên cơ sở quán triệt nguyên tắc tổ chức bộ đa ngành, đa lĩnh vực, cơ
cấu tổ chức Chính phủ được điều chỉnh, thu gọn. Bước vào thời kỳ đổi mới
(1986), số đầu mối các cơ quan của Chính phủ là 70 đến Đại hội IX còn 48,
vào thời điểm hiện nay còn 38 (26 bộ, cơ quan ngang bộ, 12 cơ quan thuộc
Chính phủ). Ở cấp tỉnh, số cơ quan chuyên môn từ 35 đến 40 đầu mối nay
giảm còn từ 20-25; cấp huyện từ 20 -25 nay giảm còn 10 -15 đầu mối các
7
phòng ban chức năng.
Cơ cấu bên trong các cơ quan của Chính phủ và chính quyền địa phương
cũng có bước điều chỉnh theo hướng phân biệt rõ các đơn vị thực hiện chức
năng quản lý nhà nước với các tổ chức sự nghiệp cung cấp dịch vụ công.
1.4. Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức trong bộ máy hành chính
nhà nước được nâng lên
Công tác xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ, công chức thời gian qua
được quan tâm triển khai trên diện rộng, kết hợp huy động nhiều giải pháp và đã
đạt được một số kết quả tích cực. Năm 1986, số lượng cán bộ, công chức hành

chính, sự nghiệp là 1,2 triệu người, hiện tại là hơn 1,7 triệu người, bằng 2% dân
số cả nước, trong đó biên chế trong khối sự nghiệp nhà nước khoảng 1,4 triệu
người, và nếu so với nhiều nước trên thế giới, đây là một tỷ lệ không cao.
Pháp lệnh cán bộ, công chức năm 1998 qua 2 lần sửa đổi vào các năm
2001 và 2003, đã có sự phân loại tương đối rõ đối tượng cán bộ, công chức, tạo
căn cứ pháp lý để định ra yêu cầu, tiêu chuẩn về trình độ, năng lực chuyên môn,
phẩm chất và chế độ, chính sách đãi ngộ tương ứng (cán bộ qua bầu cử, công
chức hành chính, viên chức sự nghiệp, cán bộ giữ chức vụ lãnh đạo trong doanh
nghiệp nhà nước, cán bộ chuyên trách và công chức cơ sở cấp xã).
Có thể khẳng định, thực hiện những đổi mới, cải cách chế độ công vụ,
công chức 5 năm qua đội ngũ cán bộ công chức đã có bước trưởng thành đáng
kể. Một bộ phận công chức hành chính đã có năng lực, trình độ, kỹ năng đáp
ứng đòi hỏi của một nền hành chính chuyên nghiệp, hiện đại.
1.5. Phương thức hoạt động của Chính phủ, các bộ ngành trung ương
và Uỷ ban nhân dân (UBND) các cấp có bước đổi mới
Tinh thần xuyên suốt quá trình đổi mới phương thức hoạt động của các
cơ quan hành chính nhà nước là giảm tối đa sự can thiệp hành chính vào hoạt
động của thị trường và doanh nghiệp. Các cơ quan nhà nước tập trung làm tốt
chức năng định hướng phát triển, tạo lập môi trường pháp lý, cơ chế, chính
sách thuận lợi để phát huy các nguồn lực, tăng cường quản lý nhà nước bằng
pháp luật.
Những nỗ lực cải cách, đơn giản hoá thủ tục hành chính, áp dụng
phương thức quản lý theo cơ chế “một cửa” cả ở ba cấp chính quyền địa
8
phương (kết qủa ở cấp tỉnh 100%, cấp huyện 98%, cấp xã 92% tính tới tháng
5/2007), từ năm 2007 tiếp tục thí điểm tổ chức “một cửa” ở 8 bộ, ngành trung
ương, nhằm tạo ra sự thống nhất trong hệ thống hành chính. Việc triển khai
quy chế công khai tài chính, quy chế dân chủ ở cơ sở và trong cơ quan hành
chính nhà nước v.v… đã có tác dụng tích cực góp phần đổi mới mối quan hệ
giữa cơ quan hành chính nhà nước với dân, quan hệ giữa cơ quan hành chính

nhà nước với nhau trong quá trình tổ chức thực hiên công việc và thực thi
công vụ.
2.Những mặt hạn chế trong quá trình cải cách:
Tuy đã đạt được những kết quả quan trọng, nhưng so với yêu cầu của
công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội và chủ động hội nhập quốc tế thì
cải cách hành chính còn chậm, hiệu quả thấp. Nền hành chính còn bộc lộ một
số tồn tại, yếu kém sau:
2.1. Hệ thống thể chế pháp luật vẫn còn chưa đồng bộ, thiếu nhất
quán và trong một số lĩnh vực chưa bám sát quá trình chuyển đổi khó khăn
và phức tạp.
Sự chưa đồng bộ của hệ thống thể chế một mặt thể hiện ở chỗ một số
luật, pháp lệnh đã ban hành nhưng các nghị định và thông tư hướng dẫn triển
khai chậm được ban hành. Sự thiếu nhất quán trong hệ thống thể chế biểu
hiện rõ trong việc chậm chuẩn bị và ban hành các văn bản dưới luật, pháp
lệnh để hướng dẫn thi hành. Nhiều cơ quan nhà nước vẫn có xu hướng giữ
thuận lợi cho hoạt động quản lý của mình nhiều hơn là đáp ứng nhu cầu tạo
thuận lợi cho doanh nghiệp và người dân.
Thủ tục hành chính vẫn chưa được cải cách đơn giản hoá triệt để, tính công
khai minh bạch còn thấp. Sau một thời gian có những kết quả bước đầu trong cải
cách thủ tục hành chính, thời gian gần đây vẫn còn nhiều thủ tục hành chính
không hợp lý, phức tạp, tiếp tục gây phiền hà cho dân và doanh nghiệp.
2.2. Chậm xác định rõ chức năng, nhiệm vụ quản lý hành chính nhà
nước vĩ mô của các cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước, nhất là
ở cấp Chính phủ và các bộ.
Chính phủ làm gì và làm đến đâu trong cơ chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, tương tự như vậy là các bộ và chính quyền các cấp,
9
đây vẫn là vấn đề còn chưa hoàn toàn được làm sáng tỏ. Mặc dù hiện tại
Chính phủ đã không còn làm một số việc giống như 20 năm trước đây, nhưng
trong thực tế những việc Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ phải quyết vẫn quá

nhiều chưa xứng tầm Chính phủ. Nhìn tổng thể thì mối quan hệ giữa nhà nước
với thị trường, giữa nhà nước với doanh nghiệp, trong đó có doanh nghiệp
nhà nước vẫn chưa đủ rõ.
2.3. Tổ chức bộ máy hành chính nhà nước vẫn cồng kềnh, nhiều tầng
nấc với 26 bộ, cơ quan ngang bộ và 13 cơ quan thuộc Chính phủ.
Bộ máy hành chính ở cấp Trung ương còn quá lớn, số lượng tổ chức bên
trong các bộ, ngành còn nhiều và có xu hướng phình ra. Việc thực hiện phân cấp
về ngành và lĩnh vực giữa trung ương và địa phương, giữa các cấp chính quyền
địa phương còn chậm, vẫn chưa có sự phân biệt rõ về chức năng, nhiệm vụ và tổ
chức bộ máy của chính quyền đô thị với chính quyền nông thôn.
2.4. Chế độ công vụ mới chậm hình thành đầy đủ, chất lượng cán bộ,
công chức chưa đáp ứng với yêu cầu đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội.
Đội ngũ cán bộ, công chức còn bất cập về kỹ năng quản lý mới, thiếu
tính nhạy bén thị trường, trách nhiệm thực thi công vụ chưa cao. Một bộ phận
cán bộ, công chức suy thoái phẩm chất, đạo đức, tham nhũng. Rõ ràng, chất
lượng đội ngũ cán bộ, công chức đang là vấn đề có ý nghĩa sống còn không
chỉ riêng của công cuộc cải cách hành chính mà của cả sự nghiệp đổi mới, xây
dựng và bảo vệ đất nước.
2.5. Phương thức, lề lối làm việc còn thủ công, lạc hậu chưa đáp ứng
yêu cầu chuyên nghiệp, hiện đại
Hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước từ trung ương đến địa
phương chưa thực sự thống nhất, thông suốt.
Quy trình làm việc của cán bộ, công chức nhìn chung còn thủ công, thiếu
tính chuyên nghiệp. Dấu ấn của cơ chế tập trung quan liêu còn khá đậm nét
trong điều hành và tổ chức công việc của các cơ quan và đội ngũ cán bộ, công
chức ở tất cả các cấp. Họp hành nhiều, giấy tờ hành chính gia tăng, thẩm
quyền và trách nhiệm giải quyết công việc của từng cán bộ, công chức không
rõ; đặc biệt khâu phối hợp giữa các cơ quan hành chính nhà nước trong quá
trình giải quyết công việc còn yếu.
10

Trang bị thiết bị, điều kiện làm việc của cơ quan hành chính nhà nước
nói chung còn nhiều hạn chế. Sau hơn một nửa thế kỷ xây dựng và củng cố
chính quyền vẫn còn tới 10% chính quyền cấp xã chưa có trụ sở làm việc,
khoảng 30% trụ sở cấp xã là nhà cấp 4, không bảo đảm điều kiện làm việc và
giải quyết công việc của dân.
Việc triển khai áp dụng các giải pháp kỹ thuật và nhất là công nghệ tin
học vào hoạt động quản lý nhà nước còn chậm, đạt hiệu quả thấp. Chủ trương
hiện đại hoá nền hành chính, thu hẹp khoảng cách tụt hậu so với các nước
trong khu vực như Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai
đoạn 2010-2020 đã đề ra vẫn là một thách thức lớn.
III,Giải pháp:
Các giải pháp nhà nước đang thực hiện gặt hái được những thành công
cần phải được nâng cao và nhân rộng.
Từ năm 2005 nhà nước ta đã thực hiện thí điểm không tổ chức Hội đồng
nhân dân cấp huyện,quận,phường.Và có những kết quả đáng kể,bên cạnh đó
thu lại được rất nhiều những ý kiến đóng góp của người dân,mong muốn xây
dựng bộ máy chính quyền thực sự do dân và vì dân.
- Xây dựng và ban hành luật, bổ sung và hoàn thiện các quy định pháp luật
làm nền tảng pháp lý cho cải cách bộ máy nhà nước. Để các cơ quan hành chính
hoạt động có hiệu quả cần xác định đúng vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ,
thẩm quyền, trách nhiệm phù hợp tình hình thực tiễn trong điều kiện phát triển
kinh tế thị trường định hướng XHCN, thúc đẩy CNH, HĐH đất nước.
-Tiếp tục kiện toàn tinh gảm bộ máy hành chính nhà nước,trở nên gọn
nhẹ cân đối phù hợp với yêu cầu thực tiễn trong việc đảm nhiệm giải quyết
các công việc hành chính.
-Hoàn thiện thể chế nền hành chính nhà nước dân chủ - pháp quyền các
cấp có sự tham gia tích cực của người dân.Nhà nước ta là nhà nước pháp
quyền của dân do dân vì dân và vì vậy cần một thể chế hoạt động toàn tâm
toàn ý vì dân.
-Tiến hành rà soát, làm thật rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, trách

nhiệm của các cơ quan hành chính từ trung ương đến địa phương để loại bỏ
11
những chồng chéo trùng lặp giữa các cơ quan hành chính với nhau và phân
cấp rõ ràng, cụ thể hơn về thẩm quyền và trách nhiệm giữa các cấp trong hệ
thống bộ máy hành chính.
-Phân biệt rõ chức năng, trách nhiệm, thẩm quyền của các cơ quan hành
chính nhà nước trong hệ thống hành chính theo chiều dọc và theo chiều
ngang. Xác định lại vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ; từ
đó xây dựng mô hình Chính phủ văn minh, Chính phủ điện tử; Sửa Luật Tổ
chức Chính phủ cho phù hợp. Cần làm rõ chức năng, nhiệm vụ của các cơ
quan, tổ chức; tổng rà soát, đánh giá các Nghị định về chức năng, nhiệm vụ,
tổ chức bộ máy của các Bộ, ngành Trung ương. Giải quyết các chồng chéo về
chức năng, nhiệm vụ giữa các Bộ, ngành trung ương. Quy định một cách
khách quan, khoa học, hợp lý, chặt chẽ các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
của các bộ, cơ quan ngang bộ. Tinh giảm đến mức thấp nhất các cơ quan
thuộc Chính phủ, thành lập các bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực nhằm thu
gọn đầu mối cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chuyên môn.
-Chuyển đổi chức năng của hệ thống hành chính sang tập trung vào quản
lý hành chính nhà nước vĩ mô, tách chức năng này với chức năng quản lý các
hoạt động sản xuất, kinh doanh và sự nghiệp.
-Ổn định địa giới hành chính, thiết lập các căn cứ phân tách tỉnh phù
hợp, để các cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chung ở địa phương
có thể chủ động trong quản lý nhà nước. Xây dựng Nghị định của Chính phủ
về tiêu chí phân loại các đơn vị hành chính.
-Đổi mới hoàn thiện đội ngũ cán bộ, công chức. Chỉ tuyển dụng những
công dân có trình độ chuyên môn, có phẩm chất đạo đức vào ngạch công
chức, viên chức nhà nước. Xác lập quy chế công vụ phù hợp, hiện đại nhằm
thiết lập trật tự, kỷ cương, kỷ luật chặt chẽ đối với đội ngũ cán bộ, công
chức. Không ngừng trau dồi rèn luyện đội ngũ cán bộ công chức.
-Đổi mới tổ chức các cơ quan thanh tra từ chính phủ đến các Bộ, ngành

đảm bảo hoạt động hiệu quả, và có tính độc lập tương đối.
12
13

×