Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

Nâng cao khả năng thanh toán và tạo ra lợi nhuận tại Công ty TNHH Hoàng Gia

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (368.96 KB, 60 trang )

Chuyên đề thực tập Khoa: Ngân hàng – Tài
chính
LỜI NÓI ĐẦU
Chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Hơn nữa chúng ta đã gia
nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) và cùng với xu thế “khu vực hoá, toàn
cầu hoá” diễn ra mạnh mẽ, tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế phát triển năng
động hơn. Cùng với các cơ hội để phát triển kinh tế xã hội thì bên cạnh đó cũng có
rất nhiều khó khăn và thách thức. Các doanh nghiệp Việt Nam đang trải mình trong
nền kinh tế thị trường cạnh tranh công bằng và bình đẳng. Hơn ai hết, chính các
doanh nghiệp phải tự khẳng định năng lực của mình để tồn tại và phát triển. Nhà
nước Việt Nam cũng ban hành các chế độ, chính sách, tạo điều kiện để các doanh
nghiệp chủ động sáng tạo, tự chịu trách nhiệm lãi lỗ về các hoạt động kinh doanh
của mình. Hơn nữa còn tạo điều kiện mở rộng và phát triển sản xuất, tăng thu nhập
cho người lao động, giải quyết công ăn việc làm cho xã hội. Các doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật và tự chủ trong hạch
toán kinh doanh. Do vậy vấn đề tài chính luôn được các nhà quản lý quan tâm bởi
vì đây là yếu tố đánh giá về nguồn vốn, khả năng thanh toán, khả năng thực hiện
các nghĩa vụ đối với Nhà nước… Thông qua việc phân tích tình hình tài chính, các
doanh nghiệp sẽ thấy được mặt mạnh, mặt yếu của mình để làm cơ sở cho việc lập
kế hoạch kinh doanh cho các giai đoạn tiếp theo. Trong nền kinh tế thị trường, mỗi
doanh nghiệp là một tế bào kinh tế, một đơn vị hạch toán độc lập, tiến hành sản xuất
kinh doanh để tạo ra các sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu ngày
càng cao của xã hội nhằm thực hiện các mục tiêu về lợi nhuận. Tối đa hoá lợi nhuận
là kim chỉ nam cho mọi hoạt động của doanh nghiệp. Muốn vậy doanh nghiệp cần
phải có những quyết sách, chiến lược phù hợp, kịp thời đối với các hoạt động kinh
tế của mình. Tuy nhiên trong nền kinh tế thị trường đa thành phần, nếu chỉ dựa vào
khả năng của mình và bỏ qua sự hỗ trợ của các nguồn lực bên ngoài, doanh nghiệp
khó có thể đứng vững và phát triển được. Phân tích tình hình tài chính là một công
việc thường xuyên và vô cùng cần thiết không những đối với chủ sở hữu doanh
nghiệp mà còn cần thiết đối với tất cả các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp có


quan hệ về kinh tế và pháp lý đối với doanh nghiệp.
Đánh giá được đúng thực trạng tài chính, chủ doanh nghiệp sẽ đưa ra được
các quyết định kinh tế thích hợp, sử dụng một cách tiết kiệm và có hiệu quả vốn và
các nguồn lực. Nhà đầu tư có quyết định đúng đắn với sự lựa chọn đầu tư của mình,
các chủ nợ được đảm bảo về khả năng thanh toán của doanh nghiệp đối với các
Phạm Trung Sơn
1
Chuyên đề thực tập Khoa: Ngân hàng – Tài
chính
khoản cho vay; Nhà cung cấp và khách hàng đảm bảo được việc doanh nghiệp sẽ
thực hiện các cam kết đặt ra; các cơ quan Nhà nước có được các chính sách để tạo
điều kiện thuận lợi cũng như hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và
đồng thời kiểm soát được hoạt động của doanh nghiệp bằng pháp luật.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc phân tích tình hình tài chính và
đánh giá thực trạng tài chính của một doanh nghiệp, trong thời gian thực tập tại
Công ty TNHH Hoàng Gia, nhờ có sự giúp đỡ của giáo viên hướng dẫn Th.s
Hoàng Thị Lan Hương và các cán bộ phòng kế toán, anh chị của công ty, em đã
chọn đề tài “Phân tích khả năng thanh toán và khả năng sinh lời tại Công ty
TNHH Hoàng Gia ”
Ngoài phần mở đầu và kết luận, chuyên đề của em được trình bày với nội dung
sau:
Chương 1 : Những vấn đề cơ bản về khả năng thanh toán và khả năng sinh
lời của doanh nghiệp
Chương 2 : Thực trang khả năng thanh toán và khả năng sinh lời của công ty
TNHH Hoàng Gia
Chương 3 : Một số giải pháp nâng cao hiệu quả phân tích tài chính, khả
năng thanh toán và khả năng sinh lời của công ty TNHH Hoàng Gia
Phạm Trung Sơn
2
Chuyên đề thực tập Khoa: Ngân hàng – Tài

chính
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ KHẢ NĂNG THANH TOÁN
VÀ KHẢ NĂNG SINH LỜI CỦA DOANH NGHIỆP
1.1 Tầm quan trọng của tài chính doanh nghiệp
1.1.1 Tổng quan về tài chính doanh nghiệp
Hoạt động tài chính doanh nghiệp là một trong những nội dung cơ bản của
hoạt động sản xuất kinh doanh. Hoạt động này nhằm thực hiện mục tiêu của doanh
nghiệp: tối đa hoá giá trị tài sản sở hữu của chủ doanh nghiệp cụ thể thành những
mục tiêu khác như: tối đa hoá lợi nhuận, thị phần mở rộng, tăng trưởng ổn định. Tài
chính doanh nghiệp được hiểu là những quan hệ giá trị giữa doanh nghiệp và các
chủ thể trong nền kinh tế. Các quan hệ tài chính doanh nghiệp chủ yếu bao gồm:
- Quan hệ giữa doanh nghiệp với Nhà nước: Đây là mối quan hệ phát sinh khi
doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ thuế và các nghĩa vụ khác đối với Nhà
nước, khi Nhà nước góp vốn vào doanh nghiệp(đối với doanh nghiệp nhà
nước). Hay khi nhà nước thực hiện các nghĩa vụ đối với doanh nghiệp( hỗ trợ
lãi suất, hỗ trợ xuất khẩu hay ổn định tỉ giá…)
- Quan hệ doanh nghiệp với thị trường tài chính: Quan hệ này được thể hiện
thông qua việc doanh nghiệp tìm kiếm các nguồn tài trợ. Trên thị trường tài
chính, doanh nghiệp có thể vay ngắn hạn để đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn,
có thể phát hành cổ phiếu và trái phiếu để đáp ứng nhu cầu vốn dài hạn.
Ngược lại, doanh nghiệp phải trả lãi vay và vốn vay, trả lãi cổ phần cho các
nhà tài trợ. Doanh nghiệp cũng có thể gửi tiền vào ngân hàng, đầu tư chứng
khoán bằng số tiền tạm thời chưa sử dụng.
- Quan hệ giữa doanh nghiệp với các thị trường khác: Trong nền kinh tế,
doanh nghiệp có quan hệ chặt chẽ với nhiều doanh nghiệp khác trên thị
trường hàng hoá, dịch vụ, thị trường sức lao động . Đây là những thị trường
mà tại đó doanh nghiệp tiến hành mua sắm máy móc thiết bị, nhà xưởng, tìm
kiếm lao động Điều quan trọng là thông qua thị trường, doanh nghiệp có
thể xác định nhu cầu hàng hoá và dịch vụ cần thiết cung ứng. Trên cơ sở đó,
doanh nghiệp hoạch định ngân sách đầu tư, kế hoạch sản xuất, tiếp thị nhằm

thoả mãn nhu cầu của thị trường.
- Quan hệ trong nội bộ doanh nghiệp: Đây là quan hệ giữa các bộ phận sản
xuất kinh doanh, giữa cổ đông và người quản lý, giữa cổ đông và chủ nợ,
giữa quyền sở hữu vốn và quyền sử dụng vốn. Các mối quan hệ này được
thể hiện thông qua hàng loạt các chính sách của doanh nghiệp như: chính
Phạm Trung Sơn
3
Chuyên đề thực tập Khoa: Ngân hàng – Tài
chính
sách phân phối thu nhập, chính sách đầu tư chính sách về cơ cấu vốn và
chi phí vốn.
Một doanh nghiệp muốn tiến hành hoạt động sản xuất-kinh doanh, cần phải có một
lượng tài sản nhất định ( phản ánh bên tài sản của Bảng cân đối kế toán). Nếu như
toàn bộ tài sản do doanh nghiệp nắm giữ được đánh giá tại một thời điểm nhất định
thì sự vận động của chúng là kết quả của quá trình trao đổi và được phản ánh trên
báo cáo kết quả kinh doanh. Quá trình hoạt động của doanh nghiệp có sự khác biệt
đáng kể về quy trình công nghệ và tính chất hoạt động. Sự khác biệt này phần lớn
do đặc điểm kinh tế, kỹ thuật của từng doanh nghiệp quyết định. Cho dù vậy, người
ta vẫn có thể khái quát những nét chung nhất của các doanh nghiệp bằng hàng hoá
dịch vụ đầu ra và hàng hoá dịch vụ đầu vào. Một hàng hoá dịch vụ đầu vào hay một
yếu tố sản xuất là hàng hoá hay dịch vụ mà các nhà doanh nghiệp mua sắm để sử
dụng trong quá trình sản xuất-kinh doanh. Các hàng hoá dịch vụ đầu vào kết hợp
với nhau tạo ra hàng hoá dịch vụ đầu ra - đó là hàng loạt các hàng hoá dịch vụ có
ích được tiêu dùng hoặc được sử dụng trong quá trình sản xuất-kinh doanh khá.
Như vậy trong một thời kỳ nhất định, các doanh nghiệp đã chuyển hoà hàng hoá
dịch vụ đầu vào thành hàng hoá dịch vụ đầu ra để trao đổi. Mối quan hệ giữa tài sản
hiện có và hàng hoá dịch vụ đầu vào, hàng hoá dịch vụ đầu ra (tức quan hệ giữa
bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả kinh doanh) có thể mô tả như sau:
Hàng hoá dịch vụ - sản xuất - chuyển hoá - Hàng hoá dịch vụ
(mua vào) (bán ra)

Trong số các tài sản mà doanh nghiệp nắm giữ có một loại tài sản đặc biệt -
đó là tiền. Chính dự trữ tiền cho phép các doanh nghiệp mua các hang hoá dịch vụ
cần thiết để tạo ra những hàng hoá dịch vụ để phục vụ cho mục đích trao đổi. Mọi
quá trình trao đổi đều được thực hện qua trung gian là tiền và khái niệm dòng vật
chất và dóng tiền phất sinh từ đó, tức sự dịch chuyển hàng hoá, dịch vụ và sự dịch
chuyển tiền giữa các đơn vị và tổ chức kinh tế. Như vậy ứng với dòng vật chất đi
vào (hàng hoá, dịch vụ đầu vào) là dòng tiền đi ra; ngược lại, tương ứng với dòng
vật chất đi ra (hàng hoá, dịch vụ đầu ra) là dòng tiền đi vào. Quy trình này được mô
tả theo sơ đồ sau:
Dòng vật chất đi vào - Dòng tiền đi ra (xuất quỹ)
Dòng vật chất đi ra - Dòng tiền đi vào (xuất quỹ)
Sản xuất, chuyển hoá là một quá trình công nghệ. Một mặt, nó được đặc
trưng bởi thời gian chuyển hoá hàng hoá và dịch vụ, mặt khác nó đặc trung bởi yếu
Phạm Trung Sơn
4
Chuyên đề thực tập Khoa: Ngân hàng – Tài
chính
tố cần thiết cho sự vận hành - đó là tư liệu lao động và sức lao động. Quá trình công
nghệ này có tác dụng quyết định đến cơ cấu vốn và hoạt động trao đổi của doanh
nghiệp. Doanh nghiệp thực hiện trao đổi hoặc với thị trường cung cấp hàng hoá
dịch vụ đầu vào hoặc với thị trường phân phối, tiêu thụ hàng hoá dịch vụ đầu ra và
tuỳ thuộc vào tính chất hoạt động sản xuất-kinh doanh của doanh nghiệp. Các quan
hệ tài chính của doanh nghiệp được phát sinh từ chính quá trình trao đổi đó. Quá
trình này quyết định đến sự vận hành của sản xuất làm thay đổi cơ cấu vốn của
doanh nghiệp. Phân tích các quan hệ tài chính của doanh nghiệp cần dựa trên hai
khái niệm căn bản là dòng và dự trữ. Dòng chỉ xuất hiện trên cơ sở tích luỹ ban đầu
mỗi hàng hoá, dịch vụ hoặc tiền trong mỗi doanh nghiệp và nó sẽ làm thay đổi khối
lượng tài sản tích luỹ của doanh nghiệp. Một khối lượng tài sản, hàng hoá, hoặc tiền
được đo tại một thời điểm là một khoản dự trữ. Quan hệ giữa dòng và dự trữ là cơ
sở nền tảng của tài chính doanh nghiệp. Tuỳ thuộc vào bản chất khác nhau của các

dòng dự trữ mà người ta phân biệt dòng tiền đối trọng và dòng tiền độc lập. Hoạt
động tài chính doanh nghiệp trả lời các câu hỏi chính sau đây:
- Đầu tư vào đâu như thế nào cho phù hợp với hình thức kinh doanh đã
chọn, nhằm đạt tới mục tiêu của doanh nghiệp? Từ đó đưa ra tổng tiền cần đầu tư.
- Nguồn vốn tài trợ được huy động ở đâu, vào thời điểm nào để đạt được cơ
cấu vốn tối ưu và chi phí vốn thấp nhất?
- Quản lý dòng tiền vào, dòng tiền ra sao cho đảm bảo mức ngân quỹ tối ưu
thông qua việc trả lời câu hỏi: lợi nhuận doanh nghiệp được sử dụng như thế nào.
Phân tích đánh giá kiểm tra các hoạt động tài chính như thế nào, để thường xuyên
đảm bảo trạng thái cân bằng tài chính?, và quản lý các hoạt động tài chính ngắn hạn
như thế nào để đưa ra quyết định thu, chi phù hợp?
Nghiên cứu tài chính doanh nghiệp thực chất trả lời ba câu hỏi trên.
1.1.2 Khái niệm, ý nghĩa của phân tích tài chính doanh nghiệp
Phân tích hoạt động tài chính doanh nghiệp là việc vận dụng tổng thể các
phương pháp phân tích khoa học để đánh giá chính xác tình hình tài chính của
doanh nghiệp, giúp cho các đối tượng quan tâm nắm được thực trạng tài chính và an
ninh tài chính của doanh nghiệp, dự đoán được chính xác các chỉ tiêu tài chính
trong tương lai cũng như rủi ro tài chính mà doanh nghiệp có thể gặp phải; qua đó,
đề ra các quyết định phù hợp với lợi ích của họ.
Có rất nhiều đối tượng quan tâm và sử dụng thông tin kinh tế, tài chính của
doanh nghiệp. Mỗi đối tượng quan tâm theo giác độ và với mục tiêu khác nhau. Do
Phạm Trung Sơn
5
Chuyên đề thực tập Khoa: Ngân hàng – Tài
chính
nhu cầu về thông tin tài chính doanh nghiệp rất đa dạng, đòi hỏi phân tích hoạt động
tài chính phải được tiến hành bằng nhiều phương pháp khác nhau để đáp ứng các
nhu cầu khác nhau của từng đối tượng. Điều đó, một mặt tạo điều kiện thuận lợi cho
phân tích hoạt động tài chính ra đời, ngày càng hoàn thiện và phát triển; mặt khác,
cũng tạo ra sự phức tạp trong nội dung và phương pháp của phân tích hoạt động tài

chính.
Các đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp bao gồm:
- Các nhà quản lý;
- Các cổ đông hiện tại và tương lai;
- Những người tham gia vào “đời sống” kinh tế của doanh nghiệp;
- Những người cho doanh nghiệp vay tiền như: Ngân hàng, tổ chức tài chính,
người mua trái phiếu của doanh nghiệp, các doanh nghiệp khác
- Nhà nước;
- Nhà phân tích tài chính;
-
Các đối tượng sử dụng thông tin tài chính khác nhau sẽ đưa ra các quyết định
với mục đích khác nhau. Vì vậy, phân tích hoạt động tài chính đối với mỗi đối
tượng sẽ đáp ứng các mục tiêu khác nhau và có vai trò khác nhau. Cụ thể:
+ Phân tích hoạt động tài chính đối với nhà quản lý:
Là người trực tiếp quản lý, điều hành doanh nghiệp, nhà quản lý hiểu rõ nhất
tài chính doanh nghiệp, do đó họ có nhiều thông tin phục vụ cho việc phân tích.
Phân tích hoạt động tài chính doanh nghiệp đối với nhà quản lý nhằm đáp ứng
những mục tiêu sau:
- Tạo ra những chu kỳ đều đặn để đánh giá hoạt động quản lý trong giai đoạn
đã qua, việc thực hiện cân bằng tài chính, khả năng sinh lời, khả năng thanh toán và
rủi ro tài chính trong hoạt động của doanh nghiệp ;
- Đảm bảo cho các quyết định của Ban giám đốc phù hợp với tình hình thực
tế của doanh nghiệp, như quyết định về đầu tư, tài trợ, phân phối lợi nhuận ;
- Cung cấp thông tin cơ sở cho những dự đoán tài chính;
- Căn cứ để kiểm tra, kiểm soát hoạt động, quản lý trong doanh nghiệp.
Phân tích hoạt động tài chính làm rõ điều quan trọng của dự đoán tài chính,
mà dự đoán là nền tảng của hoạt động quản lý, làm sáng tỏ, không chỉ chính sách tài
chính mà còn làm rõ các chính sách chung trong doanh nghiệp.
Phạm Trung Sơn
6

Chuyên đề thực tập Khoa: Ngân hàng – Tài
chính
+ Phân tích hoạt động tài chính đối với các nhà đầu tư:
Các nhà đầu tư là những người giao vốn của mình cho doanh nghiệp quản lý
sử dụng, được hưởng lợi và cũng chịu rủi ro. Đó là những cổ đông, các cá nhân
hoặc các đơn vị, doanh nghiệp khác. Các đối tượng này quan tâm trực tiếp đến
những tính toán về giá trị của doanh nghiệp. Thu nhập của các nhà đầu tư là tiền lời
được chia và thặng dư giá trị của vốn. Hai yếu tố này phần lớn chịu ảnh hưởng của
lợi nhuận thu được của doanh nghiệp. Trong thực tế, các nhà đầu tư thường tiến
hành đánh giá khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Câu hỏi chủ yếu phải làm rõ là:
Tiền lời bình quân cổ phiếu của doanh nghiệp là bao nhiêu? Các nhà đầu tư thường
không hài lòng trước món lời được tính toán trên sổ sách kế toán và cho rằng món
lời này chênh lệch rất xa so với tiền lời thực tế.
Các nhà đầu tư phải dựa vào những nhà chuyên nghiệp trung gian (chuyên
gia phân tích tài chính) nghiên cứu các thông tin kinh tế, tài chính, có những cuộc
tiếp xúc trực tiếp với ban quản lý doanh nghiệp, làm rõ triển vọng phát triển của
doanh nghiệp và đánh giá các cổ phiếu trên thị trường tài chính.
Phân tích hoạt động tài chính đối với nhà đầu tư là để đánh giá doanh nghiệp
và ước đoán giá trị cổ phiếu, dựa vào việc nghiên cứu các báo cáo tài chính, khả
năng sinh lời, phân tích rủi ro trong kinh doanh
+ Phân tích hoạt động tài chính đối với các nhà đầu tư tín dụng:
Các nhà đầu tư tín dụng là những người cho doanh nghiệp vay vốn để đáp
ứng nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất - kinh doanh. Khi cho vay, họ phải biết
chắc được khả năng hoàn trả tiền vay. Thu nhập của họ là lãi suất tiền cho vay. Do
đó, phân tích hoạt động tài chính đối với người cho vay là xác định khả năng hoàn
trả nợ của khách hàng. Tuy nhiên, phân tích đối với những khoản cho vay dài hạn
và những khoản cho vay ngắn hạn có những nét khác nhau.
Đối với những khoản cho vay ngắn hạn, nhà cung cấp tín dụng ngắn hạn đặc
biệt quan tâm đến khả năng thanh toán ngay của doanh nghiệp. Nói khác đi là khả
năng ứng phó của doanh nghiệp khi nợ vay đến hạn trả. Đối với các khoản cho vay

dài hạn, nhà cung cấp tín dụng dài hạn phải tin chắc khả năng hoàn trả và khả năng
sinh lời của doanh nghiệp mà việc hoàn trả vốn và lãi lại tuỳ thuộc vào khả năng
sinh lời này.
+ Phân tích hoạt động tài chính đối với những người hưởng lương trong
doanh nghiệp:
Phạm Trung Sơn
7
Chuyên đề thực tập Khoa: Ngân hàng – Tài
chính
Người hưởng lương trong doanh nghiệp là người lao động của doanh nghiệp,
có nguồn thu nhập chính từ tiền lương được trả. Bên cạnh thu nhập từ tiền lương,
một số lao động còn có một phần vốn góp nhất định trong doanh nghiệp. Vì vậy,
ngoài phần thu nhập từ tiền lương được trả họ còn có tiền lời được chia. Cả hai
khoản thu nhập này phụ thuộc vào kết quả hoạt động sản xuất - kinh doanh của
doanh nghiệp. Do vậy, phân tích tình hình tài chính giúp họ định hướng việc làm ổn
định và yên tâm dốc sức vào hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp tuỳ
theo công việc được phân công.
Từ những vấn đề nêu trên, cho thấy: Phân tích hoạt động tài chính doanh nghiệp là
công cụ hữu ích được dùng để xác định giá trị kinh tế, để đánh giá mặt mạnh, mặt
yếu của doanh nghiệp, tìm ra nguyên nhân khách quan và chủ quan, giúp cho từng
đối tượng lựa chọn và đưa ra được những quyết định phù hợp với mục đích mà họ
quan tâm.
1.2 Mục tiêu của phân tích tài chính
Phân tích tài chính là sử dụng tập hợp các khái niệm, phương pháp và các
công cụ cho phép xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác về quản lý nhằm
đánh giá tình hình tài chính của một doanh nghiệp, đánh giá rủi ro, mức độ và chất
lượng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Quy trình phân tích tài chính hiện nay
ngày càng được áp dụng rộng rãi ở các đơn vị tự chủ nhất định về tài chính, các tổ
chức xã hội, tập thể, các cơ quan quản lý, tổ chức công cộng. Đặc biệt, sự phát triển
của các doanh nghiệp,của ngân hàng và của thị trường vốn đã tạo nhiều cơ hội để

chứng tỏ phân tích tài chính thực sự có ích và cần thiết. Những người phân tích tài
chính ở những cương vị khác nhau thì nhằm những mục tiêu khác nhau.
+ Đối với nhà quản trị
Nhà quản trị phân tích tài chính nhằm đánh giá hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp, xác định điểm mạnh, điểm yếu của doanh nghiệp. Đó là cơ sở để
định hướng ra quyết định của ban tổng giám đốc, giám đốc tài chính như quyết định
đầu tư, tài trợ, phân chia cổ tức dự thảo tài chính: kế hoạch đầu tư, ngân quỹ, kiểm
soát các hoạt động quản lý. Mặt khác, tạo thành các chu kỳ đánh giá đều đặn hoạt
động kinh doanh tronh quá khứ, tiến hành cân đối tài chính, khả năng sinh lời, khả
năng thanh toán trả nợ, rủi ro tài chính của doanh nghiệp.
+ Đối với nhà đầu tư
Phạm Trung Sơn
8
Chuyên đề thực tập Khoa: Ngân hàng – Tài
chính
Các cổ đông là các cá nhân hoặc doanh nghiệp, quan tâm trực tiếp đến tính
toán các giá trị của doanh nghiệp vì họ bỏ vốn cho doanh nghiệp thực hiện hoạt
động kinh doanh sản xuất và họ có thể chịu rủi ro từ khoản vốn đó. Do vậy, các cổ
đông cần biết tình hình thu nhập của mình có tương xứng với mức rủi ro của khoản
đầu tư mà họ chịu. Nhà đầu tư phân tích tài chính để nhận biết khả năng sinh lãi của
doanh nghiệp , đây là một trong những căn cứ giúp nhà đầu tư ra quyết có bỏ vốn
vào doanh nghiệp hay không? Thu nhập của các cổ đông tiền chia lợi tức cổ phần
và giá trị tăng them của vốn đầu tư. Hai yếu tố này ảnh hưởng đén lợi nhuận kỳ
vọng của doanh nghiệp. Các nhà đầu tư thường tiến hành đánh giá khả năng sinh lợi
của doanh nghiệp với câu hỏi trọng tâm: lợi nhuận bình quân cổ phiếu của công ty
sẽ là bao nhiêu? Dự kiến lợi nhuận sẽ được nghiên cứu đầy đủ trong chính sách
phân chia lợi tức cổ phần và trong nghiên cứu rủi ro hướng các lựa chọn vào những
cổ phiếu phù hợp nhất.
+ Đối với người cho vay
Người cho vay phân tích tài chính để nhận biết khả năng vay và trả nợ của

khách hàng phân tích. Để đưa ra quyết định cho vay, thì một trong những vấn đề mà
người cho vay cần phải xem xét là doanh nghiệp thật sự có nhu cầu vay hay không?
Khả năng trả nợ của doanh nghiệp như thế nào?Bởi nhiều khi một quyết định cho
vay có ảnh hưởng nặng nề đến tình hình tài chính của người cho vay, có thể dẫn đến
tình trạng phá sản của người cho vay, hay đơn vị cho vay. Phân tích tài chính đối
với những khoản nợ dài hạn hay khoản nợ ngắn hạn cũng có sự khác nhau. Nếu là
những khoản nợ ngắn hạn, người cho vay đặc biệt quan tâm đến khả năng thanh
toán nhanh của doanh nghiệp. Nghĩa là khả năng ứng phó của doanh nghiệp khi
khoản nợ tới hạn trả nợ. Nếu là những khoản cho vay dài hạn, ngưòi cho vay phải
tin chắc khả năng hoàn trả và khả năng sinh lời của doanh nghiệp vì việc hoàn trả
vốn và lãi phụ thuộc vào khả năng sinh lời này. Kỹ thuật phân tích thay đổi theo bản
chất và theo thời hạn của khoản vay, nhưng cho đó là khoản vay dài hạn hay nhắn
hạn thì người cho vay đều quan tâm đến cơ cấu tài chính biểu hiện mức độ mạo
hiểm của doanh nghiệp đi vay.
Ngoài ra, phân tích tài chính cũng rất cần thiết đối với người hưởng lương trong
doanh nghiệp, đối với cán bộ thuế, thanh tra, cảnh sát kinh tế, luật sư, Dù họ công
tác ở các lĩnh vực khác nhau nhưng đều muốn hiểu biết về doanh nghiệp để thực
hiện tốt hơn công việc của họ.
Phạm Trung Sơn
9
Chuyên đề thực tập Khoa: Ngân hàng – Tài
chính
1.3 Thông tin sử dụng trong phân tích tài chính
Trong phân tích tài chính, nhà phân tích phải thu thập, sử dụng mọi nguồn
thông tin: từ những thông tin nội bộ doanh nghiệp dến những thong tin bên ngoài
doanh nghiệp, từ thông tin số lượng đến thông tin giá trị. Những thông tin đó đều
giúp nhà phân tích có thể dưa ra được những nhận xét kết luận tinh tế và thích đáng.
Những thông tin bên ngoài, cần lưu ý thu thập thông tin chung như các thông tin
liên quan đến cơ hội kinh doanh nghĩa là tình hình chung về kinh tế tại một thời
điểm cho trước. Trạng thái kinh tế: sự suy thoái hay tăng trưởng có tác động mạnh

mẽ đến kết quả kinh doanh. Khi cơ hội thuận lợi, các hoạt động của doanh nghiệp
được mở rộng, lợi nhuận của công ty, giá trị của công ty cũng tăng lên, và ngược
lại. Khi phân tích tài chính doanh nghiệp, điều quan trọng phải nhận thấy sự xuất
hiện mang tính chu kỳ:qua thời kỳ tăng trưởng thì sẽ đến thời kỳ suy thoái và ngược
lại. Đồng thời thu thập thông tin về chính sách thuế, lãi suất, các thông tin về ngành
kinh doanh như thông tin liên quan đến vị trí của ngành trong nền kinh tế, cơ cấu
ngành, và các sản phẩm của ngành, tình trạng công nghệ, thị phần và các thông tin
về pháp lý, kinh tế đối với doanh nghiệp: các thông tin mà các doanh nghiệp phải
báo cáo cho các cơ quan quản lý như: tình hình quản lý, kiểm toán, kế hoạch sử
dụng kết quả kinh doanh của doanh nghiệp Tuy nhiên để đánh giá một cách cơ bản
tình hình tài chính của doanh nghiệp, có thể sử dụng thông tin kế toán trong nội bộ
doanh nghiệp như là một nguồn thông tin quan trọng bậc nhất. Với những đặc trưng
hệ thống, đồng nhất và phong phú, kế toán hoạt động như một nhà cung cấp quan
trọng nhưng thông tin đánh giá cho phân tích tài chính.Vả lại các doanh nghiệp có
nghĩa vụ cung cấp các thông tin kế toán cho đối tác bên trong và bên ngoài doanh
nghiệp.thông tin kế toán được phản ánh khá đầy đủ trong các báo cáo kế toán. Phân
tích tài chính được thực hiện trên cơ sở các báo cáo tài chính được hình thành thông
qua việc xử lý các báo cáo kế toán chủ yếu: đó là bảng cân đối kế toán, báo cáo kết
quả kinh doanh, ngân quỹ (báo cáo lưu chuyển tiền tệ).
+ Bảng cân đối kế toán
Bảng cân đối kế toán là báo cáo tài chính mô tả tìng trạng tài chính của một
doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định nào đó. Đây là báo cáo tài chính có ý
nghĩa quan trọng đối với mọi đối tượng có quan hệ sở hữu, quan hệ kinh doanh và
quan hệ quản lý với doanh nghiệp. Thông thường bảng cân đối kế toán dược trình
bày dưới dạng bảng cân đối các số dư tài khoản kế toán: một bên phản ánh tài sản,
một bên phản ánh nguồn vốn của doanh nghiệp.
Phạm Trung Sơn
10
Chuyên đề thực tập Khoa: Ngân hàng – Tài
chính

Bên tài sản của bảng cân đối kế toán phản ánh giá trị của toàn bộ tài sản hiện
có đến thời điểm lập báo cáo thuộc quyền quản lý và sử dụng của doanh nghiệp: đó
là tài sản lưu động, tài sản cố định. Bên nguồn vốn phản ánh số vốn để hình thành
các loại tài sản của doanh nghiệp đến thời điểm lập báo cáo: đó là vốn chủ và các
khoản nợ. Các khoản mục trên bảng cân đối kế toán dược sắp xếp theo khả năng
chuyển hoá thành tiền giảm dần từ trên xuống.
Bên tài sản:
Tài sản lưu động: tiền chứng khoán ngắn hạn dễ bán, khoản phải thu, dự
trữ .Tài sản cố định hữu hình và tài sản cố định vô hình.
Bên nguồn vốn:
Nợ ngắn hạn bao gồm nợ pahỉ trả nhà cung cấp, các khoản phải nộp,phải trả
khác nợ ngắn hạn ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác. Nợ dài hạn
bao gồm nợ dài hạn vay ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác, vay
bằng cách phát hành trái phiếu. Vốn chủ sở hữu bao gồm vốn góp ban đầu, lợi
nhuận không chia, phát hành cổ phiếu mới.
Về mặt kinh tế, bên tài sản phản ánh quy mô và kết cấu các loại tài sản; bên
nguồn vốn phản ánh cơ cấu tài trợ,cơ cấu vốn cũng có khả năng độc lập về tài chính
của doanh nghiệp. Bên tài sản và bên nguồn vốn của bảng cân đối kế toán đều có
các cột chỉ tiêu: số đầu kỳ, số cuối kỳ. Ngoài các khoản mục có trong tài khoản nội
bảng còn có một số khoản mục ngoài bảng cân đối kế toán như: một số tài khoản
thuê ngoài, vật tư, hàng hoá nhận giữ hộ, nhận gia công, hàng hoá nhận bán hộ,
ngoại tệ các loại Dựa vào bảng cân đối kế toán, nhà phân tích có thể nhận biết
được loại hình doanh nghiệp, quy mô, mức độ tự chủ tài chính của doanh
nghiệp.Bảng cân đối kế toán là một tư liệu quan trọngbậc nhất giúp các nhà phân
tích đánh giá được khả năng cân bằng tài chính, khả năng thanh toán, khả năng cân
đối vốn của doanh nghiệp.
+ Báo cáo kết quả kinh doanh
Một thông tin không kém phần quan trọng được sử dụng trong phân tích tài
chính là thông tin phản ánh trong báo cáo kết quả kinh doanh. Khác với bảng cân
đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh cho biết sự dịch chuyển tiền trong quá trình

sản xuất-kinh doanh của doanh nghiệp và cho phép dự tính khả năng hoạt động của
doanh nghiệp trong tương lai. Báo cáo kết quả kinh doanh giúp nhà phân tích so
sánh doanh thu với số tiền thực nhập quỹ để vận hành doanh nghiệp. Trên cơ sở
doanh thu và chi phí, có thể xác định được kết quả sản xuất-kinh doanh: lãi hay lỗ
Phạm Trung Sơn
11
Chuyên đề thực tập Khoa: Ngân hàng – Tài
chính
trong năm. Như vậy báo cáo kết quả kinh doanh phản ánh kết quả hoạt động sản
xuất-kinh doanh, phản ánh tình hình tài chính của một doanh nghiệp trong một thời
kỳ nhất định. Nó cung cấp những thông tin tổng hợp về tình hình và kết quả sử
dụng tiềm năng về vốn, lao động, kĩ thuật và trình độ quản lý sản xuất-kinh doanh
của doanh nghiệp.
Những khoản mục chủ yếu được phản ánh trên báo cáo kết quả kinh doanh:
doanh thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh thu từ hoạt động tài chính,
doanh thu từ hoạt động bất thường và chi phí tương ứng từ các hoạt động đó.
Những loại thuế như: VAT, thuế tiêu thụ đặc biệt, về bản chất không phải là doanh
thu cũng không phải là chi phí của doanh nghiệp nên không phản ánh trên báo cáo
kết quả kinh doanh. Toàn bộ các khoản thuế đối với doanh nghiệp và các khoản
phải nộp khác được phản ánh trong phần: Tình hình thực hiện nghĩa vụ với Nhà
nước.
+ Báo cáo lưu chuyển tiền tệ
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là một báo cáo tài chính. Nếu bảng cân đối kế
toán là những nguồn lực của cải (tài sản) và nguồn gốc của những tài sản đó và báo
cáo kết quả kinh doanh cho ta biết chi phí và thu nhập phát sinh để tính được kết
quả lãi, lỗ trong một kỳ kinh doanh, thì báo cáo lưu chuyển tiền tệ được lập để trả
lời những vấn đề liên quan đến luồng tiền vào, ra trong doanh nghiệp, tình hình tài
trợ, đầu tư bằng tiền của doanh nghiệp trong từng thời kỳ. Để đánh giá một doanh
nghiệp có đảm bảo được khả năng chi trả hay không cần tìm hiểu tình hình ngân
quỹ của doanh nghiệp. Ngân quỹ thường được xác định trong thời gian ngắn hạn

(thường là từng tháng). Xác định hoặc dự báo dòng tiền thực nhập (thu ngân quỹ),
bao gồm: dòng tiền nhập quỹ từ hoạt động kinh doanh (từ bán hàng hoá hoặc dịch
vụ); dòng tiền nhập quỹ từ hoạt động đầu tư tài chính; dòng tiền nhập quỹ từ hoạt
động bất thường. Xác định hoặc dự báo dòng tiền thực xuất quỹ (chi ngân quỹ), bao
gồm: dòng tiền xuất thực hiện sản xuất kinh doanh, dòng tiền xuất quỹ thực hiện
hoạt động đầu tư tài chính; dòng tiền xuất thực hiện hoạt động bất thường. Trên cơ
sở dòng tiền nhập quỹ và dòng tiền xuất quỹ, nhà phân tích thực hiện cân đối ngân
quỹ với số dư ngân quỹ đầu kỳ để xác định số dư ngân quỹ cuối kỳ. Từ đó có thể
thiết lập mức ngân quỹ dự phòng tối thiểu cho doanh nghiệp nhằm mục tiêu đảm
bảo chi trả.
+ Thuyết minh báo cáo tài chính
Phạm Trung Sơn
12
Chuyên đề thực tập Khoa: Ngân hàng – Tài
chính
Thuyết minh báo cáo tài chính được lập nhằm cung cấp các thông tin về tình
hình sản xuất, kinh doanh chưa có trong hệ thống các báo cáo tài chính, đồng thời
giải thích thêm một số chỉ tiêu mà các báo cáo tài chính chưa được trình bày, giải
thích một cách rõ ràng và cụ thể. Thuyết minh báo cáo tài chính bao gồm các nội
dung sau:
- Đặc diểm hoạt động của doanh nghiệp: Hình thức sở hữu , hoạt động, lĩnh
vực kinh doanh, tổng số nhân viên những ảnh hưởng quan trọng đến tình
hình tài chính trong năm báo cáo.
- Chế độ kế toán áp dụng tại doanh nghiệp: Niên độ kế toán, đơn vị tiền tệ
trong ghi chép kế toán, nguyên tắc, phương pháp chuyển đổi các đồng tiền
khác, hình thức sổ kế toán, phương pháp kế toán tài sản cố định, phương
pháp kế toán hàng tồn kho, phương pháp tính toán các khoản dự phòng, tình
hình trích lập và hoàn nhập dự phòng.
- Chi tiết một số chỉ tiêu trong báo cáo tài chính: Yếu tố chi phí sản xuất, kinh
doanh, tình hình tăng giảm tài sản cố định, tình hình tăng giảm các khoản

đầu tư vào doanh nghiệp, lý do tăng, giảm, các khoản phải thu và nợ phải trả.
- Giải thích và thuyết minh một số tình hình và kết quả hoạt động sản xuất,
kinh doanh.
- Một số chỉ tiêu đánh giá khái quát tình hình hoạt động của doanh nghiệp.
- Phương hướng sản xuất kinh doanh trong kỳ tới.
- Các kiến nghị.
+ Cơ sở dữ liệu khác
Sự tồn tại, phát triển cũng như quá trình suy thoái của doanh nghiệp phụ
thuộc vào nhiều yếu tố: Có yếu tố bên trong và yếu tố bên ngoài; Có yếu tố chủ
quan và yếu tố khách quan. Điều đó tuỳ thuộc vào tiêu thức phân loại các yếu tố ảnh
hưởng.
- Các yếu tố bên trong:
Các yếu tố bên trong là những yếu tố thuộc về tổ chức doanh nghiệp; trình độ
quản lý; ngành nghề, sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ mà doanh nghiệp kinh doanh;
quy trình công nghệ; năng lực của lao động
- Các yếu tố bên ngoài:
Các yếu tố bên ngoài là những yếu tố mang tính khách quan như: chế độ
chính trị xã hội; tăng trưởng kinh tế của nền kinh tế; tiến bộ khoa học kỹ thuật;
chính sách tài chính tiền tệ; chính sách thuế
Phạm Trung Sơn
13
Chuyên đề thực tập Khoa: Ngân hàng – Tài
chính
Phân tích tài chính nhằm phục vụ cho những dự đoán tài chính, dự đoán kết
quả tương lai của doanh nghiệp, trên cơ sở đó mà đưa ra được những quyết định
phù hợp. Như vậy, không chỉ giới hạn ở việc nghiên cứu những báo biểu tài chính
mà phải tập hợp đầy đủ các thông tin liên quan đến tình hình tài chính của doanh
nghiệp, như các thông tin chung về kinh tế, tiền tệ, thuế khoá, các thông tin về
ngành kinh tế của doanh nghiệp, các thông tin về pháp lý, về kinh tế đối với doanh
nghiệp. Cụ thể là:

+ Các thông tin chung:
Thông tin chung là những thông tin về tình hình kinh tế chính trị, môi trường
pháp lý, kinh tế có liên quan đến cơ hội kinh tế, cơ hội đầu tư, cơ hội về kỹ thuật
công nghệ Sự suy thoái hoặc tăng trưởng của nền kinh tế có tác động mạnh mẽ
đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Những thông tin về các cuộc thăm dò thị
trường, triển vọng phát triển trong sản xuất, kinh doanh và dịch vụ thương mại
ảnh hưởng lớn đến chiến lược và sách lược kinh doanh trong từng thời kỳ.
+ Các thông tin theo ngành kinh tế:
Thông tin theo ngành kinh tế là những thông tin mà kết quả hoạt động của
doanh nghiệp mang tính chất của ngành kinh tế như đặc điểm của ngành kinh tế liên
quan đến thực thể của sản phẩm, tiến trình kỹ thuật cần tiến hành, cơ cấu sản xuất
có tác động đến khả năng sinh lời, vòng quay vốn, nhịp độ phát triển của các chu kỳ
kinh tế, độ lớn của thị trường và triển vọng phát triển
+ Các thông tin của bản thân doanh nghiệp:
Thông tin về bản thân doanh nghiệp là những thông tin về chiến lược, sách
lược kinh doanh của doanh nghiệp trong từng thời kỳ, thông tin về tình hình và kết
quả kinh doanh của doanh nghiệp, tình hình tạo lập, phân phối và sử dụng vốn, tình
hình và khả năng thanh toán Những thông tin này được thể hiện qua những giải
trình của các nhà quản lý, qua Báo cáo tài chính, báo cáo kế toán quản trị, báo cáo
thống kê, hạch toán nghiệp vụ
Bên cạnh hệ thống báo cáo tài chính, khi Phân tích tài chính doanh nghiệp,
các nhà phân tích còn kết hợp sử dụng nhiều nguồn dữ liệu khác nhau như: Báo cáo
quản trị, báo cáo chi tiết, các tài liệu kế toán, tài liệu thống kê, bảng công khai một
số chỉ tiêu tài chính Đây là những nguồn dữ liệu quan trọng giúp cho các nhà
phân tích xem xét, đánh giá được các mặt khác nhau trong hoạt động tài chính một
cách đầy đủ, chính xác. Tuy nhiên, phần lớn nguồn dữ liệu này chỉ được sử dụng
trong nội bộ (trừ các chỉ tiêu tài chính công khai).
Phạm Trung Sơn
14
Chuyên đề thực tập Khoa: Ngân hàng – Tài

chính
Trong các dữ liệu khác sử dụng để phân tích hoạt động tài chính, có thể nói,
hệ thống báo cáo kế toán quản trị được sử dụng nhiều nhất. Không giống như hệ
thống báo cáo tài chính, báo cáo kế toán quản trị là những báo cáo nhằm phản ánh
chi tiết hơn tình hình tài sản, nguồn hình thành tài sản theo từng đối tượng cụ thể,
tình hình và kết quả từng hoạt động sản xuất, kinh doanh Báo cáo kế toán quản trị
cung cấp thông tin chi tiết theo từng đối tượng quản lý cụ thể phục vụ cho nhu cầu
quản lý, chỉ đạo, điều hành hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.
Đối với việc công khai tài chính, theo Điều 32, Điều 33 Luật Kế toán năm
2003, các doanh nghiệp có trách nhiệm phải công khai báo cáo tài chính năm trong
thời hạn một trăm hai mươi ngày, kể từ ngày kết thúc kỳ kế toán năm. Nội dung
công khai báo cáo tài chính của đơn vị kế toán trong hoạt động kinh doanh bao gồm
các thông tin liên quan đến tình hình tài sản, nợ phải trả và vốn chủ sở hữu; kết quả
hoạt động kinh doanh; tình hình trích lập và sử dụng các quỹ; tình hình thu nhập
của người lao động. Việc công khai báo cáo tài chính được thực hiện theo các hình
thức như: Phát hành ấn phẩm; thông báo bằng văn bản; niêm yết và các hình thức
khác theo quy định của pháp luật. Căn cứ vào Bảng công khai một số chỉ tiêu tài
chính theo quy định, các nhà phân tích sẽ tiến hành phân tích, xem xét và đưa ra
nhận định về tình hình tài chính, kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Các thông tin khác liên quan cần thu thập phục vụ phân tích tài chính của
doanh nghiệp rất phong phú và đa dạng. Một số thông tin được công khai, một số
thông tin chỉ dành cho những người có lợi ích gắn liền với sự sống còn của doanh
nghiệp. Có những thông tin được báo chí hoặc các tổ chức tài chính công bố, có
những thông tin chỉ trong nội bộ doanh nghiệp được biết.
Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng: Những thông tin thu thập được không phải tất cả
đều được lượng hóa cụ thể, mà có những tài liệu không thể biểu hiện bằng số lượng cụ
thể, nó chỉ được thể hiện thông qua sự miêu tả đời sống kinh tế của doanh nghiệp.
Do vậy, để có những thông tin cần thiết phục vụ cho quá trình phân tích tài
chính, người làm công tác phân tích phải sưu tầm đầy đủ những thông tin thích hợp
liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp. Tính đầy đủ thể hiện thước đo số lượng

của thông tin. Sự thích hợp phản ánh chất lượng thông tin.
1.4 Trình tự phân tích tài chính doanh nghiệp
+ Thu thập thông tin
Phân tích tài chính sử dụng mọi nguồn thông tin có khả năng lý giảivà thuyết
minh thực trạng sử dụng tình hình tài chính của doanh nghiệp, phục vụ cho quá trình
Phạm Trung Sơn
15
Chuyên đề thực tập Khoa: Ngân hàng – Tài
chính
dự đoán tài chính. Nó bao gồm những thông tin nội bộ đến những thông tin bên ngoài,
những thông tin kế toán và những thông tin quản lý khác, những thông tin về số lượng
và giá trị trong đó các thông tin kế toán phản ánh tập trung trong các báo cáo tài
chính doanh nghiệp, là những nguồn thông tin đặc biệt quan trọng. Do vậy, phân tích
tài chính trên thực tế là phân tích các báo cáo tài chính doanh nghiệp.
+ Xử lý thông tin
Giai đoạn tiếp theo của phân tích tài chính là quá trình xử lý thông tin đã thu
thập được. Trong giai đoạn này, người sử dụng thông tin ở các góc độ nghiên cứu,
ứng dụng khác nhau, có phương pháp xử lý thông tin khác nhau phục vụ mục tiêu
phân tích đã đặt ra: xử lý thông tin là quá trình sắp xếp các thông tin theo những
mục tiêu nhất định nhằm tính toán so sánh, giải thích, đánh giá, xác định nguyên
nhân các kết quả đã đạt được phục vụ cho quá trình dự đoán và quyết định.
+ Dự đoán và quyết định
Thu thập và xử lý thông tin nhằm chuẩn bị những tiền đề và điều kiện cần
thiết để người sử dụng thông tin dụ đoán nhu cầu và dưa ra quyết định tài chính. Có
thể nói, mục tiêu của phân tích tài chính là đưa ra quyết định tài chính. Đối với chủ
doanh nghiệp phân tích tài chính nhằm dưa ra các quyết định liên quan tới mục tiêu
hoạt động của doanh nghiệp là tối đa hoá giá trị tài sản của doanh nghiệp, tăng
trưởng, phát triển, tối đa hoá lợi nhuận. Đối với người cho vay và đầu tư vào xí
nghiệp thì đưa ra các quyết định về tài trợ và đầu tư; đối với nhà quản lý thì dưa ra
các quyết định về quản lý doanh nghiệp.

1.5 Phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp
Phương pháp phân tích tài chính bao gồm một hệ thống các công cụ biện
pháp nhằm tiếp cận, nghiên cứu các sự kiện, hiện tượng, các mối quan hệ bên trong
và bên ngoài, các luồng dịch chuyển và biến đổi tài chính, các chỉ tiêu tài chính
tổng hợp và chi tiết, nhằm đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp.Về lý thuyết,
có nhiều phương pháp phân tích tài chính, nhưng trên thực tế người ta thường sử
dụng phương pháp so sánh và phương pháp phân tích tỷ lệ.
+ Phương pháp so sánh
Điều kiện để áp dụng phương pháp so sánh là các chỉ tiêu tài chính phải
thống nhất về không gian, thời gian, nội dung, tính chất và đơn vị tính toán, và
theo mục đích phân tích mà xác định số gốc so sánh. Gốc so sánh được chọn là gốc
về mặt thời gian hoặc không gian, kỳ phân tích được lựa chọn là kỳ báo cáo hoặc kỳ
Phạm Trung Sơn
16
Chuyên đề thực tập Khoa: Ngân hàng – Tài
chính
kế hoạch, giá trị so sánh có thể lựa chọn bằng số tuyệt đối, số tương đối hoặc số
bình quân; nông dân so sánh bao gồm:
- So sánh giữa số thực hiện trong kỳ này với số thực hiện kỳ trước để thấy rõ
xu hướng thay đổi về tài chính doanh nghiệp. Đánh giá sự tăng trưởng hay
thụt lùi trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
- So sánh giữa số thực hiện với số kế hoạc để thấy rõ mức độ phấn đấu của
doanh nghiệp.
- So sánh giữa số liệu của doanh nghiệp với số liệu trung bình ngành của các
doanh nghiệp khác để đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp mình tốt
hay xấu, được hay chưa được.
- So sánh theo chiều dọc để xem xét tỷ trọng của từng chỉ tiêu so với tổng thể,
so sánh chiều ngang của nhiều kỳ để thấy được sự biến đổi cả về số lượng
tương đối và tuyệt đối của một chỉ tiêu nào đó qua các niên độ kế toán liên
tiếp.

+ Phương pháp phân tích tỷ số
Tỷ số là công cụ phân tích tài chính phổ thông nhất. một tỷ số là mối quan hệ
tỷ lệ giữa hai dòng hoặc hai nhóm dòng của bảng cân đối tài sản. Phương pháp phân
tích tỷ số dựa trên ý nghĩa chuẩn mực các tỷ lệ của đại lượng tài chính trong các
quan hệ tài chính. Sự biến đổi các tỷ là sự biến đổi các đại lượng tài chính. Về
nguyên tắc, phương pháp tỷ lệ yêu cầu phải xác định các ngưỡng, các định mức, để
nhận xét, đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp, trên cơ sở so sánh các tỷ lệ của
doanh nghiệp với giá trị các tỷ lệ tham chiếu. Trong phân tích tài chính doanh
nghiệp, các tỷ lệ tài chính được phân thành các nhóm tỷ lệ đặc trưng, phản ánh
những nội dung cơ bản theo các mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp. Đó là các
nhóm tỷ lệ về khả năng thanh toán, nhóm tỷ lệ về cơ cấu vốn và nguồn vốn, nhóm
tỷ lệ về năng lực hoạt động kinh doanh, nhóm tỷ lệ về khả năng sinh lời. Mỗi nhóm
tỷ lệ lại bao gồm nhiều tỷ lệ phản ánh riêng lẻ, từng bộ phận của hoạt động tài chính
trong mỗi trường hợp khác nhau, tuỳ theo giác độ phân tích, người phân tích lựa
chọn các nhpms chỉ tiêu khác nhau để phục vụ mục tiêu phân tích của mình. Chọn
đúng các tỷ số và tiến hành phân tích chúng, chắc chắn ta sẽ phát hiện được tình
hình tài chính. Phân tích tỷ số cho phép phân tích đầy đủ khuynh hướng vì một số
dấu hiệu có thể được kết luận thông qua quan sát số lớn các hiện tượng nghiên cứu
riêng rẽ.
+ Phương pháp phân tích Dupont
Phạm Trung Sơn
17
Chuyên đề thực tập Khoa: Ngân hàng – Tài
chính
Công ty Dupont là công ty đầu tiên ở Mỹ sử dụng các mối quan hệ tương hỗ
giữa các tỷ lệ tài chính chủ yếu để phân tích các tỷ số tài chính. Vì vậy, nó được gọi
là phương pháp Dupont. Với phương pháp này, các nhà phân tích sẽ nhận biết được
các nguyên nhân dẫn đến các hiện tượng tốt, xấu trong hoạt động của doanh nghiệp.
Bản chất của phương pháp này là tách một tỷ số tổng hợp phản ánh sức sinh lợi của
doanh nghiệp như thu nhập trên tài sản (ROA), thu nhập sau thuế trên vốn chủ sở

hữu (ROE) thành tích số của chuỗi các tỷ số có mối quan hệ nhân quả với nhau.
Điều đó cho phép phân tích ảnh hưởng của các tỷ số đối với các tỷ số tổng hợp.
Đây là phương pháp phân tích dựa trên mối quan hệ tương hỗ giữa các chỉ
tiêu tài chính, từ đó biến đổi một chỉ tiêu tổng hợp thành một hàm số của một loạt
các biến số. Chẳng hạn: tách hệ số khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu (ROE) hay
hệ số khả năng sinh lời của tài sản (ROA), thành tích số của chuỗi các hệ số có
mối quan hệ mật thiết với nhau.
Sơ đồ: Vận dụng phương pháp Dupont để phân tích ROE
Từ đây ta thấy sử dụng nợ có tác dụng khuyếch đại doanh lợi vốn chủ sở hữu
nếu doanh nghiệp có lợi nhuận trong kỳ, hệ số nợ càng lớn thì lợi nhuận càng cao
và ngược lại, nếu doanh nghiệp đang bị lỗ thì sử dụng nợ càng tăng số lỗ. Phương
pháp phân tích Dupont có ưu điểm lớn là giúp nhà phân tích phát hiện và tập trung
vào các yếu điểm của doanh nghiệp. Nếu doanh lợi vốn chủ sở hữu của doanh
nghiệp thấp hơn các doanh nghiệp khác trong cùng ngành thì nhà phân tích có thể
Phạm Trung Sơn
18
SUẤT
SINH
LỢI
CỦA
VỐN
CHỦ
SỞ
HỮU
(ROE
)
Lợi nhuận sau thuế
Vốn chủ sở hữu
=
Lợi nhuận sau thuế

Tổng tài sản
Vốn chủ sở hữu
Tổng tài sản
Doanh thu thuần
Tổng tài sản
Vốn chủ sở hữu
Doanh thu thuần
x
Doanh thu thuần
Lợi nhuận sau thuế
Tổng tài sản
Doanh thu thuần
=
x
x
Chuyên đề thực tập Khoa: Ngân hàng – Tài
chính
dựa vào hệ thống các chỉ tiêu theo phương pháp phân tích Dupont để tìm ra nguyên
nhân chính xác. Ngoài việc được sử dụng để so sánh với các doanh nghiệp khác
trong cùng ngành, các chỉ tiêu đó có thể được dùng để xác định xu hướng hoạt động
của doanh nghiệp trong một thời kỳ, từ đó phát hiện ra những khó khăn doanh
nghiệp có thể sẽ gặp phải. Nhà phân tích nếu biết kết hợp phương pháp phân tích tỷ
lệ và phương pháp phân tích Dupont sẽ góp phần nâng cao hiệu quả phân tích tài
chính doanh nghiệp. Ngoài các phương pháp phân tích chủ yếu trên, người ta còn sử
dụng một số phương pháp khác: phương pháp đồ thị, phương pháp biểu đồ, phương
pháp toán tài chính, kể cả phương pháp phân tích các tình huống giả định. Trong
quá trình phân tích tổng thể thì việc áp dụng linh hoạt, xen kẽ các phương pháp sẽ
đem lại kết quả cao hơn khi phân tích đơn thuần, vì trong phân tích tài chính kết quả
mà mỗi chỉ tiêu đem lại chỉ thực sự có ý nghĩa khi xem xét nó trong mối quan hệ
với các chỉ tiêu khác. Do vậy, phương pháp phân tích hữu hiệu cần đi từ tổng quát

đánh giá chung cho đến các phần chi tiết, hay nói cách khác là lúc đầu ta nhìn nhận
tình hình tài chính trên một bình diện rộng, sau đó đi vào phân tích đánh giá các chỉ
số tổng quát về tình hình tài chính và để hiểu rõ hơn ta sẽ phân tích các chỉ tiêu tài
chính đặc trưng của doanh nghiệp, so sánh với những năm trước đó, đồng thời so
sánh với tỷ lệ tham chiếu để cho thấy được xu hướng biến động cũng như khả năng
hoạt động của doanh nghiệp so với mức trung bình ngành ra sao.
1.6 Nội dung của phân tích khả năng thanh toán và khả năng sinh lời
1.6.1. Phân tích khả năng thanh toán qua nhóm chỉ tiêu
1.6.1.1 Phân tích khả năng thanh toán
Khả năng thanh toán của doanh nghiệp cho biết năng lực tài chính trước mắt
và lâu dài của doanh nghiệp. Khả năng thanh toán của doanh nghiệp càng cao, năng
lực tài chính càng lớn, an ninh tài chính càng vững chắc và ngược lại, khả năng
thanh toán của doanh nghiệp càng thấp, năng lực tài chính càng nhỏ và an ninh tài
chính sẽ kém bền vững.
Khi phân tích khả năng thanh toán của doanh nghiệp, ngoài việc tính toán và
so sánh một số chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán đã được đề cập ở các nội
dung trước (Hệ số thanh toán tổng quát, Hệ số thanh toán hiện hành, Hệ số thanh
toán nợ ngắn hạn, Hệ số thanh toán nhanh ), các nhà phân tích còn sử dụng chỉ tiêu
"Hệ số khả năng thanh toán" sau đây:
Hệ số khả năng
thanh toán
=
Khả năng thanh toán
Phạm Trung Sơn
19
Chuyên đề thực tập Khoa: Ngân hàng – Tài
chính
Nhu cầu thanh toán
Hệ số khả năng thanh toán được tính cho cả thời kỳ hoặc cho từng giai đoạn
(khả năng thanh toán ngắn hạn, khả năng thanh toán dài hạn, khả năng thanh toán

tháng tới, khả năng thanh toán quí tới ). Nếu trị số của chỉ tiêu > 1, chứng tỏ doanh
nghiệp bảo đảm khả năng thanh toán và tình hình tài chính là bình thường hoặc khả
quan. Trị số của chỉ tiêu "Hệ số khả năng thanh toán" càng lớn hơn 1 thì khả năng
thanh toán của doanh nghiệp càng dồi dào và an ninh tài chính càng vững chắc.
Ngược lại, khi trị số của chỉ tiêu này < 1, doanh nghiệp sẽ không bảo đảm khả năng
thanh toán. Trị số của chỉ tiêu càng nhỏ hơn 1, doanh nghiệp càng mất dần khả năng
thanh toán. Khi "Hệ số khả năng thanh toán" ≈ 0 thì doanh nghiệp bị phá sản, không
còn khả năng thanh toán.
Tiếp theo, dựa vào các tài liệu hạch toán liên quan, tiến hành thu thập số liệu
liên quan đến các khoản có thể dùng để thanh toán (khả năng thanh toán) với các
khoản phải thanh toán (nhu cầu thanh toán) của doanh nghiệp. Sau đó, sắp xếp các
chỉ tiêu này vào một bảng phân tích theo một trình tự nhất định. Với nhu cầu thanh
toán, các chỉ tiêu được xếp theo mức độ khẩn trương của việc thanh toán (thanh
toán ngay, chưa cần thanh toán ngay); còn với khả năng thanh toán, các chỉ tiêu lại
được xếp theo khả năng huy động (huy động ngay, huy động trong thời gian tới ),
trong đó có thể chi tiết theo tháng, quí, 6 tháng, năm
Để thuận tiện cho việc phân tích, các nhà phân tích có thể lập Bảng phân tích
nhu cầu và khả năng thanh toán. Trên cơ sở bảng phân tích này, nhà quản lý sẽ tiến
hành so sánh giữa khả năng thanh toán với nhu cầu thanh toán trong từng giai đoạn
(thanh toán ngay, thanh toán trong tháng tới, thanh toán trong quý tới, thanh toán
trong 6 tháng tới ). Việc so sánh này sẽ cho các nhà quản lý biết được liệu doanh
nghiệp có bảo đảm được khả năng thanh toán trong từng giai đoạn hay không để đề
ra các chính sách phù hợp. Trường hợp doanh nghiệp không bảo đảm khả năng
thanh toán (khi các khoản có thể dùng để thanh toán nhỏ hơn các khoản phải thanh
toán hay trị số của chỉ tiêu "Hệ số khả năng thanh toán" < 1), các nhà quản lý phải
tìm kế sách để huy động nguồn tài chính kịp thời bảo đảm cho việc thanh toán nếu
không muốn rơi vào tình trạng phá sản.
1.6.1.2. Nhóm chỉ tiêu về khả năng thanh toán
Khả năng thanh toán là khả năng bảo đảm trả được các khoản nợ đến hạn
bất cứ lúc nào. Khả năng thanh toán là kết quả của sự cân bằng giữa các luồng thu

và chi hay giữa nguồn vốn kinh tế (capital) và nguồn lực sẵn có (resource).
Phạm Trung Sơn
20
Chuyên đề thực tập Khoa: Ngân hàng – Tài
chính
Investopedia định nghĩa khả năng thanh toán “là khả năng đáp ứng các chi tiêu cố
định trong dài hạn và có đủ lượng tiền cần thiết để mở rộng và phát triển”.
a. Cân bằng tài chính (financial equilibrium) có thể được xác định từ các luồng tài
chính. Mọi luồng tài chính đều làm tăng hay giảm số tiền trong quỹ. Cân bằng tài
chính đạt được tại thời điểm tiền mặt và các tài sản có tính thanh khoản như tiền
mặt (gọi tắt là tiền mặt) vẫn “dương” sau khi đã đủ bù trả cho tất cả các khoản nợ
đến hạn. Ba luồng tài chính chủ yếu quyết định cân bằng tài chính bao gồm:
- Chi phí đầu tư, chủ yếu là chi phí tạo vốn cho sản xuất,
- Số dư từ các hoạt động tài chính (vay, cho vay, hoàn trả),
- Thặng dư từ sản xuất kinh doanh.
Ngoài ra, phải tính thêm:
- Biến đổi tài sản có (kho và các khoản phải thu) và các khoản phải trả,
- Chi phí phân bổ giá trị thặng dư cho nhà nước, cho người lao động và cho các cổ đông.
- Các khoản nợ ngắn hạn, chủ yếu là tín dụng ngân hàng khi giá trị quỹ không đủ để
duy trì cân bằng, tức là đảm bảo khả năng thanh toán các khoản chi bắt buộc.
Ngân quỹ được coi là “dương” nếu lớn hơn giá trị nợ và lớn hơn 0 (>0). Đây là một
công cụ điều chỉnh các luồng thu và chi trong ngắn hạn. Sự mất cân bằng giữa tài
sản có (actifs) và nguồn lực sẵn có tạo ra nhu cầu về tiền cần đáp ứng.
b. Mức độ tự chủ (autonomy) thể hiện khả năng duy trì tính độc lập của doanh
nghiệp, Nếu nhu cầu về tiền của doanh nghiệp không thể được đáp ứng bằng hình
thức vốn vay, nguy cơ mất cân bằng tài chính đòi hỏi phải được tài trợ dưới hình
thức vốn góp. Rõ ràng lúc này, quyền quyết định sẽ được chia lại theo tỷ lệ góp
vốn, doanh nghiệp mất quyền tự chủ. Khả năng mất cân bằng tài chính là yếu tố đo
lường mức độ tự chủ của doanh nghiệp. Việc nắm giữ một lượng tiền mặt lớn có thể
tăng mức độ tự chủ của doanh nghiệp nhưng số tiền này lại không tham gia vào quá

trình sản xuất và không có khả năng sinh lợi.
Để đảm bảo tăng trưởng, doanh nghiệp có thể phải giảm tiền mặt nắm giữ và
tăng lượng vốn vay, thậm chí chấp nhận giảm mức độ tự chủ. Nhiệm vụ của chức
năng tài chính là dàn xếp vấn đề này bằng cách duy trì khả năng thanh toán. Vì vậy,
chức năng tài chính phải kiểm soát được các quyết định sản xuất và thương mại làm
thay đổi cấu trúc tài sản có (rủi ro kinh tế) và làm nảy sinh nhu cầu vốn mới (rủi ro
tài chính).
Phạm Trung Sơn
21
Chuyên đề thực tập Khoa: Ngân hàng – Tài
chính
Tình hình tài chính được thể hiện khá rõ nét qua các chỉ tiêu tài chính về khả
năng thanh toán của doanh nghiệp. Khả năng thanh toán của doanh nghiệp phản ánh
mối quan hệ tài chính các khoản có khả năng thanh toán trong kỳ với khoản phải
thanh toán trong kỳ. Sự thiếu hụt về khả năng thanh khoản có thể đưa doanh nghiệp
tới tình trạng không hoàn thành nghĩa vụ trả nợ ngắn hạn của doanh nghiệp đúng
hạn và có thể phải ngừng hoạt động. Do đó cần chú ý đến khả năng thanh toán của
doanh nghiệp. Nhóm chỉ tiêu này bao gồm các chỉ tiêu chủ yếu sau đây:
Hệ số khả năng thanh toán tổng quát: “Hệ số khả năng thanh toán tổng quát”
là chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán chung của doanh nghiệp trong kỳ báo cáo.
Chỉ tiêu này cho biết: với tổng số tài sản hiện có, doanh nghiệp có bảo đảm trang
trải được các khoản nợ phải trả hay không. Nếu trị số chỉ tiêu "Hệ số khả năng
thanh toán tổng quát" của doanh nghiệp luôn ≥ 1, doanh nghiệp bảo đảm được khả
năng thanh toán tổng quát và ngược lại; trị số này < 1, doanh nghiệp không bảo đảm
được khả năng trang trải các khoản nợ. Trị số của “Hệ số khả năng thanh toán tổng
quát” càng nhỏ hơn 1, doanh nghiệp càng mất dần khả năng thanh toán.
Hệ số khả năng thanh
toán tổng quát
=
Tổng số tài sản

Tổng số nợ phải trả
"Tổng số tài sản" được phản ánh ở chỉ tiêu "Tổng cộng tài sản" (Mã số 270)
và "Tổng số nợ phải trả" phản ánh ở chỉ tiêu "Nợ phải trả" (Mã số 300) trên Bảng
cân đối kế toán. Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, chỉ tiêu "Tổng số tài sản"
được phản ánh ở chỉ tiêu "Tổng cộng tài sản" (Mã số 250) và "Tổng số nợ phải trả"
được phản ánh ở chỉ tiêu "Nợ phải trả" (Mã số 300) trên Bảng cân đối kế toán.
Hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn: "Hệ số khả năng thanh toán nợ
ngắn hạn" là chỉ tiêu cho thấy khả năng đáp ứng các khoản nợ ngắn hạn của doanh
nghiệp là cao hay thấp. Nợ ngắn hạn là những khoản nợ mà doanh nghiệp phải
thanh toán trong vòng một năm hay một chu kỳ kinh doanh. Nếu trị số của chỉ tiêu
này xấp xỉ bằng 1, doanh nghiệp có đủ khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn
và tình hình tài chính là bình thường hoặc khả quan. Ngược lại, nếu “Hệ số khả
năng thanh toán nợ ngắn hạn” < 1, doanh nghiệp không bảo đảm đáp ứng được các
khoản nợ ngắn hạn. Trị số của chỉ tiêu này càng nhỏ hơn 1, khả năng thanh toán nợ
ngắn hạn của doanh nghiệp càng thấp.
Phạm Trung Sơn
22
Chuyên đề thực tập Khoa: Ngân hàng – Tài
chính
Hệ số thanh toán
nợ ngắn hạn
= Tài sản ngắn hạn
Tổng số nợ ngắn hạn
Giá trị "Tài sản ngắn hạn" được phản ánh ở chỉ tiêu A "Tài sản ngắn hạn"
(Mã số 100) và "Tổng số nợ ngắn hạn" được phản ánh ở chỉ tiêu I "Nợ ngắn hạn"
(Mã số 310) trên Bảng cân đối kế toán.
Hệ số khả năng thanh toán nhanh: Tỷ số khả năng thanh toán nhanh là tỷ số
giữa các tài sản quay vòng nhanh với nợ ngắn hạn. Tài sản quay vòng nhanh là
những tài sản có thể nhanh chóng chuyển đổi thành tiền, bao gồm: Tiền mặt, chứng
khoán ngắn hạn, các khoản phải thu. Tài sản dự trữ (tồn kho) là các tài sản khó

chuyển thành tiền hơn so với tổng tài sản lưu động và dễ bị lỗ nhất nếu được bán.
Do vậy, tỷ số khả năng thanh toán nhanh cho biết khả năng hoàn trả các khoản nợ
ngắn hạn không phụ thuộc vào việc bán tài sản dự trữ (tồn kho) và được xác định
bằng cách lấy tài sản lưu động trừ phần dự trữ (tồn kho) chia cho nợ ngắn hạn hay
nói cách khác, hệ số khả năng thanh toán nhanh cho biết doanh nghiệp có bao nhiêu
đồng vốn bằng tiền hoặc các khoản tương đương tiền để thanh toán ngay cho một
đồng nợ ngắn hạn.
Hệ số khả năng
thanh toán nhanh
=
Tài sản ngắn hạn – Hàng tồn kho
Tổng số nợ ngắn hạn
Hệ số khả năng thanh toán tức thời:
Hệ số khả năng thanh toán tức thời" là chỉ tiêu được dùng để đánh giá khả
năng thanh toán tức thời (thanh toán ngay) các khoản nợ ngắn hạn của doanh
nghiệp bằng tiền (tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, tiền đang chuyển) và các khoản
tương đương tiền. Chỉ tiêu này được tính như sau:
Hệ số khả năng
thanh toán tức thời
=
Tiền và các khoản tương đương tiền
Tổng số nợ ngắn hạn
Tùy thuộc vào tính chất và chu kỳ kinh doanh của từng doanh nghiệp mà
chỉ tiêu “Hệ số khả năng thanh toán nhanh” có trị số khác nhau. Tuy nhiên, thực
tế cho thấy, trị số của chỉ tiêu “Hệ số khả năng thanh toán tức thời” không nhất
thiết phải bằng 1 doanh nghiệp mới bảo đảm khả năng thanh toán nhanh; bởi vì,
trị số của tử số trong công thức xác định chỉ tiêu “Hệ số khả năng thanh toán tức
Phạm Trung Sơn
23
Chuyên đề thực tập Khoa: Ngân hàng – Tài

chính
thời” được xác định trong khoảng thời gian tối đa 3 tháng trong khi trị số của
mẫu số lại được xác định trong khoảng 1 năm hoặc một chu kỳ kinh doanh. Một
điều có thể khẳng định chắc chắn rằng: nếu trị số của chỉ tiêu “Hệ số khả năng
thanh toán tức thời” quá nhỏ, doanh nghiệp có thể gặp khó khăn trong việc thanh
toán công nợ - nhất là nợ đến hạn - vì không đủ tiền và tương đương tiền và do
vậy, doanh nghiệp có thể phải bán gấp, bán rẻ hàng hóa, sản phẩm, dịch vụ để trả
nợ. Khi trị số của chỉ tiêu “Hệ số khả năng thanh toán tức thời” lớn hơn hoặc
bằng 1, mặc dầu doanh nghiệp bảo đảm thừa khả năng thanh toán nhanh song do
lượng tiền và tương đương tiền quá nhiều nên sẽ phần nào làm giảm hiệu quả sử
dụng vốn; từ đó, làm giảm hiệu quả kinh doanh.
"Tiền, các khoản tương đương tiền bao gồm các khoản đầu tư ngắn hạn có
thời gian thu hồi hoặc đáo hạn không quá 3 tháng, dễ dàng chuyển đổi thành một
lượng tiền xác định mà không có rủi ro khi chuyển đổi thành tiền kể từ ngày mua
khoản đầu tư đó tại thời điểm báo cáo như kỳ phiếu ngân hàng, tín phiếu kho bạc,
chứng chỉ tiền gửi
Hệ số khả năng chi trả: Do các chỉ tiêu như: "Hệ số khả năng thanh toán nợ
ngắn hạn" và "Hệ số khả năng thanh toán nhanh" mang tính thời điểm (đầu kỳ, cuối
kỳ) vì cơ sở tính toán dựa trên số liệu của Bảng cân đối kế toán nên trong nhiều
trường hợp, các chỉ tiêu này phản ánh không đúng tình hình thực tế. Điều này rất dễ
xẩy ra vì 2 nguyên nhân chủ yếu sau:
Thứ nhất, do các nhà quản lý muốn ngụy tạo tình hình, tạo ra một bức tranh
tài chính khả quan cho doanh nghiệp tại ngày báo cáo. Chẳng hạn, muốn nâng cao
trị số của các chỉ tiêu trên, các nhà quản lý tìm cách ngụy tạo sao cho các khoản tiền
và tương đương tiền tăng lên, trị giá hàng tồn kho giảm xuống. Công việc này thực
sự không hề khó khăn với các nhà quản lý và kế toán; chẳng hạn, những ngày cuối
kỳ (cuối quí, cuối năm), mặc dầu hàng đã về, đã nhập kho nhưng kế toán tạm để
ngoài sổ sách hoặc các khoản nợ chưa thu nhưng kế toán lại ghi nhận như đã thu,
nếu bị phát hiện thì coi như ghi nhầm. Tương tự, kế toán có thể ghi các bút toán bù
trừ giữa nợ phải thu dài hạn với nợ phải trả dài hạn

Thứ hai, do tính thời vụ của hoạt động kinh doanh mà tại thời điểm báo cáo,
lượng hàng tồn kho rất lớn, lượng tiền và tương đương tiền rất nhỏ. Tình hình này
thường xẩy ra với các doanh nghiệp kinh doanh mang tính thời vụ. Tại những doanh
nghiệp này, có những thời điểm mà buộc phải dự trữ hàng tồn kho lớn (dự trữ hàng
hóa phục vụ các dịp lễ, tết, khai trường, khai hội; thu mua nông sản, lâm sản, hải
Phạm Trung Sơn
24
Chuyên đề thực tập Khoa: Ngân hàng – Tài
chính
sản, thổ sản theo mùa…).
Để khắc phục tình hình trên, khi đánh giá khái quát tình hình tài chính, cần
kết hợp với chỉ tiêu "Hệ số khả năng chi trả". Hệ số này sẽ khắc phục được nhược
điểm của 2 chỉ tiêu trên vì nó được xác định cho cả kỳ kinh doanh và không phụ
thuộc vào yếu tố thời vụ.
Hệ số khả
năng chi trả
= Số tiền thuần lưu chuyển trong kỳ
Nợ ngắn hạn
Số tiền thuần
Số tiền thuần


lưu chuyển
lưu chuyển


trong kỳ
trong kỳ
=
Lượng tiền tăng

Lượng tiền tăng


(thu vào) trong kỳ
(thu vào) trong kỳ
-
Lượng tiền giảm
Lượng tiền giảm


(chi ra) trong kỳ
(chi ra) trong kỳ
Chỉ tiêu này cho biết, với dòng tiền thuần tạo ra từ các hoạt động của mình
trong kỳ, doanh nghiệp có đủ khả năng bảo đảm được khả năng thanh toán các
khoản nợ ngắn hạn hay không. Số liệu tử số của công thức trên được lấy từ Báo cáo
lưu chuyển tiền tệ.
1.6.2 Phân tích về khả năng sinh lời qua các tỷ số
1.6.2.1 Phân tích khả năng sinh lời
Khả năng sinh lời là thước đo hiệu quả bằng tiền, là điều kiện cần nhưng
chưa đủ để duy trì cân bằng tài chính. Việc đánh giá khả năng sinh lợi phải dựa trên
một khoảng thời gian tham chiếu. Khái niệm khả năng sinh lợi được áp dụng trong
mọi hoạt động kinh tế sử dụng các phương tiện vật chất, con người và tài chính, thể
hiện bằng kết quả trên phương tiện. Khả năng sinh lợi có thể áp dụng cho một hoặc
một tập hợp tài sản.
Ở cấp độ doanh nghiệp, khả năng sinh lợi là kết quả của việc sử dụng tập
hợp các tài sản vật chất và tài sản tài chính, tức là vốn kinh tế mà doanh nghiệp nắm
giữ. Nhìn chung, khả năng sinh lợi cần ít nhất đủ để đáp ứng được hai đòi hỏi cấp
bách:
- Đảm bảo duy trì vốn cho doanh nghiệp (đầu tư).
- Trả được các khoản lãi vay và đảm bảo hoàn trả khoản vay.

Lãi thu được từ các hoạt động sinh lợi trong năm tài khoá có thể được trích
chia cho cổ đông hoặc vẫn duy trì dưới dạng vốn dự trữ (reserve). Nếu không tính
tới thuế và lãi, khả năng sinh lợi của tài sản phải cho phép tích luỹ đủ tiền để đảm
Phạm Trung Sơn
25

×