Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Vân đề dân tộc trong tư tưởng hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124 KB, 16 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Hồ Chí Minh con người vĩ đai của dân tộc Việt Nam. Suốt cuộc đời
mình Người đã cống hiến cho dân tộc và đất nước. Cả cuộc đời Người là cuộc
hành trình để tìm ra con đường giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước. Sinh
ra và lớn lên trong một gia đình nho giáo giàu truyền thống yêu nước, bên
cạnh đó trong hoàn cảnh đất nước đầy biến động đã nuôi dậy trong Người
lòng yêu nước dồi dào. Năm 1911 tại bến Nhà Rồng cậu bé Nguyễn Tất
Thành với lòng yêu nước của mình đã ra đi tìm đường cứu nước. Suốt nhiều
năm bôn ba tìm đường cứu nước người đã tiếp thu được nhiều tinh hoa nhân
loại. Được tiếp cận với chủ nghĩa Mác – LêNin, chủ nghĩa này đã ảnh hưởng
rất lớn đến tư tưởng của Người. Sau này khi đã ra đi Người vẫn để lại cho
nhân loại một di sản quí giá đó chính là tư tưởng của Người – Tư Tưởng Hồ
Chí Minh. Nội dung vấn đề dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh có những nét
độc đáo, sáng tạo. Đã có nhiều công trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh
về vấn đề dân tộc, nhấn mạnh sự kết hợp vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp,
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế,
đấu tranh cho độc lập của dân tộc mình, đồng thời tôn trọng độc lập của các
dân tộc khác. Nhưng trong tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc có những
nội dung cần được làm sáng tỏ thêm, nhất là thực chất của vấn đề dân tộc ở
thuộc địa, quyền dân tộc tự quyết, đặc biệt là mối quan hệ không thể tách rời
giữa độc lập dân tộc và thống nhất đất nước. Trong giai đoạn hiện nay vấn đề
dân tộc và giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn được quan tâm và đang
được đảng và nhà nước ta vận dụng. Trong bài tiểu luận này, em xin trình bày
những vấn đề về dân tôc và giai cấp của tưởng Hồ Chí Minh và vận dụng của
nó trong giai đoạn hiện nay.
CHƯƠNG I:
VÂN ĐỀ DÂN TỘC TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Dân tộc là một vấn đề rộng lớn. C.Mác, Ph._nghen không đi sâu giải
quyết vấn đề dân tộc, vì thời đó ở Tây Âu vấn đề dân tộc đã được giải quyết
trong cách mạng tư sản; hơn nữa, các ông chưa có điều kiện nghiên cứu sâu
về vấn đề dân tộc thuộc địa.


Trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, cách mạng giải phóng dân tộc trở
thành một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới, V.I. Lênin có cơ sở thực
tiễn để phát triển vấn đề dân tộc thuộc địa thành một hệ thống lý luận. Tuy cả
C. Mác, Ph. _nghen và V.I. Lênin đã nêu lên những quan điểm cơ bản về mối
quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, tạo cơ sở lý luận
và phương pháp luận cho việc xác định chiến lược, sách lược của các Đảng
Cộng sản về vấn đề dân tộc và thuộc địa, nhưng từ thực tiễn cách mạng vô
sản ở châu Âu, các ông vẫn tập trung nhiều hơn vào vấn đề giai cấp.
Điều kiện những năm đầu thế kỷ XX trở đi đặt ra yêu cầu cần vận dụng và
phát triển sáng tạo lý luận Mác - Lênin cho phù hợp với thực tiễn ở các nước
thuộc địa; chính Hồ Chí Minh là người đã đáp ứng yêu cầu đó.
Vấn đề dân tộc mà Hồ Chí Minh đề cập đến trong tư tưởng của mình
được thể hiện tập trung chủ yếu ở các nội dung về quyền dân tộc, quan hệ
giữa dân tộc và giai cấp, và quan hệ giữa Việt Nam với các quốc gia, dân tộc
trên thế giới.
Về quyền dân tộc, Hồ Chí Minh cho rằng tất cả các dân tộc trên thế
giới đều bình đẳng; tức độc lập tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm
của tất cả các dân tộc. Sinh ra trong cảnh nước mất nhà tan, tận mắt chứng
kiến sự chà đạp của ngoại bang lên tự do độc lập của đất nước, được kết tinh,
hun đúc từ tinh thần nồng nàn yêu nước của người dân nước Việt, Hồ Chí
Minh cho rằng: đối với một người dân mất nước, cái quí nhất trên đời là độc
lập của tổ quốc, tự do của nhân dân. Trên đường tiếp cận chân lý cứu nước,
Hồ Chí Minh đã tiếp nhận những tư tưởng bất hủ trong Tuyên ngôn độc lập
1776 của Mỹ và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền 1791 của cách mạng
Pháp. Từ những tinh hoa của dân tộc và thế giới, Người đã khái quát nên chân
lý bất di bất dịch, lẽ phải không ai có thể chối cãi được: Tất cả các dân tộc
trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền
sung sướng và quyền tự do. Đây là một tư tưởng vĩ đại, chẳng những mang
tính quốc tế, tính thời đại rộng lớn mà còn mang tính nhân văn sâu sắc.
Độc lập dân tộc, theo Hồ Chí Minh, phải là độc lập thật sự và độc lập

hoàn toàn. Tức là, dân tộc đó phải có đầy đủ chủ quyền (về chính trị, kinh tế,
an ninh, v.v.) và toàn vẹn lãnh thổ, chứ không phải là chiếc bánh vẽ mà người
khác (bọn thực dân, đế quốc) bố thí. Độc lập thật sự, độc lập hoàn toàn, theo
Người, phải được hiểu một cách đơn giản: nước Việt Nam là của người Việt
Nam, mọi vấn đề thuộc chủ quyền quốc gia Việt Nam phải do người Việt
Nam tự giải quyết. Và giá trị đích thực của độc lập dân tộc phải được thể hiện
bằng quyền tự do hạnh phúc của nhân dân, mà theo Người, độc lập dân tộc là
đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Tư tưởng độc lập
dân tộc, khát vọng độc lập dân tộc của Người được thể hiện ở tinh thần “thà
hy sinh tất cả”, “dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn” và vượt lên tất cả là
tinh thần “không có gì quí hơn độc lập tự do.”
Hồ Chí Minh luôn giương cao ngọn cờ đấu tranh vì độc lập dân tộc,
song người cũng là hiện thân của khát vọng hoà bình. Đó là tư tưởng độc lập
dân tộc trong hoà bình chân chính của Người. Tinh thần “chúng ta muốn hoà
bình” đã dẫn dắt nhân dân ta chiến đấu và chiến thắng mọi thế lực xâm lược
ngoại bang.
Có thể nói, tinh thần “không có gì quí hơn độc lập tự do” là tư tưởng
và lẽ sống của Hồ Chí Minh. Nó là nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng
không chỉ của dân tộc Việt Nam mà còn của các dân tộc bị áp bức trên thế
giới. Vì lẽ đó, Người không chỉ được tôn vinh là “Anh hùng giải phóng dân
tộc” của Việt Nam mà còn là “Người khởi xướng cuộc đấu tranh giải phóng
của các dân tộc thuộc địa trong thế kỷ 20”
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc thể hiện sự kết hợp nhuần
nhuyễn giữa dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, và chủ
nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế.
Trên cơ sở những quan điểm cơ bản của Mác-Lenin về mối quan hệ
biện chứng giữa dân tộc với giai cấp, Hồ Chí Minh đã đưa ra những luận
điểm mới và sáng tạo, góp phần bổ sung và phát triển lý luận của chủ nghĩa
Mác Lenin. Theo Người, ở các nước thuộc địa “chủ nghĩa dân tộc là một động
lực lớn của đất nước”. Người phân tích, do kinh tế còn lạc hậu, chưa phát

triển nên sự phân hoá giai cấp ở nước ta và nhiều nước thuộc địa khác chưa
triệt để, mâu thuẫn chưa đến mức đối kháng quyết liệt. Ở những nước thuộc
địa như nước ta, mâu thuẫn giữa dân tộc với chủ nghĩa đế quốc quyết liệt hơn
mâu thuẫn giữa giai cấp nông dân với địa chủ, giữa công nhân với tư sản. Do
đó, trong bối cảnh này không thể giải quyết vấn đề giai cấp rồi mới giải quyết
vấn đề dân tộc như ở các nước tư bản phương Tây được, mà chỉ có thể giải
phóng Dân tộc mới giải phóng được giai cấp, quyền lợi dân tộc, đất nước phải
đặt lên trên quyền lợi giai cấp. Xuất phát từ luận điểm trên, Hồ Chí Minh từng
kiến nghị Cương lĩnh hành động của Quốc tế Cộng sản theo hướng phát động
chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân danh Quốc tế Cộng sản, khi chủ nghĩa dân tộc
của họ thắng, nhất định nó sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế. Nguyễn Ái Quốc
đã đánh giá cao sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc với chủ nghĩa yêu nước và
tinh thần dân tộc chân chính, coi đó là một động lực lớn mà những người
cộng sản phải nắm lấy và phát huy, không để ngọn cờ dân tộc rơi vào tay giai
cấp nào khác, phải nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc trên lập trường của
giai cấp vô sản, kết hợp chủ nghĩa dân tộc với chủ nghĩa quốc tế.
Độc lập dân tộc, theo Hồ Chí Minh, là phải gắn liền với chủ nghĩa xã
hội. Ngay từ khi tiếp cận Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của
Lênin, Hồ Chí Minh đã hình thành đường lối cứu nước: giải phóng dân tộc
theo con đường cách mạng vô sản, gắn bó thống nhất giữa dân tộc và giai cấp,
dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc và CNXH. Người nói: “ Cả hai cuộc giải
phóng này (dân tộc và giai cấp) chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng
sản và của cách mạng thế giới.” Tiếp đó, ngay trong Chánh cương, Sách lược
vắn tắt được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng cộng sảnViệt Nam tháng
2/1930, Hồ Chí Minh đã xác định Cách mạng Việt Nam trải qua hai giai
đoạn: Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng (tức cách mạng
dân tộc-dân chủ) để đi tới xã hội cộng sản. Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự gắn
bó thống nhất giữa độc lập dân tộc và CNXH vừa phản ảnh quy luật khách
quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc trong thời đại cách mạng vô sản, vừa
phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với mục

tiêu giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Xoá bỏ ách áp bức dân tộc
mà không xoá bỏ tình trạng bóc lột và áp bức giai cấp thì nhân dân lao động
vẫn chưa được giải phóng. Người nói: “Nếu nước độc lập mà dân không được
hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì.” Do đó giành được
độc lập rồi, thì phải tiến lên CNXH, vì mục tiêu của CNXH là dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Như vậy, ở Hồ Chí Minh, chủ
nghĩa yêu nước truyền thống đã phát triển thành chủ nghĩa yêu nước hiện đại,
độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.
Là một chiến sỹ quốc tế chân chính, xuất phát từ quan điểm độc lập
tự do là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc, Hồ Chí
Minh không chỉ đấu tranh cho độc lập của dân tộc mình mà còn đấu tranh cho
độc lập dân tộc của tất cả các dân tộc bị áp bức. Ở Người, chủ nghĩa yêu nước
chân chính luôn gắn liền với chủ nghĩa quốc tế cao cả, trong sáng. Người nói:
“ Chúng ta phải tranh đấu cho tự do độc lập của các dân tộc khác như là tranh
đấu cho dân tộc ta vậy.” Chủ trương “ giúp bạn là tự giúp mình”, Hồ Chí
Minh luôn nêu cao tinh thần dân tộc tự quyết song không quên nghĩa vụ quốc
tế cao cả của mình. Với Người, phải thông qua thắng lợi của Cách mạng mỗi
nước mà đóng góp vào thắng lợi chung của Cách mạng thế giới. Về quan hệ
quốc tế, Người tuyên bố với thế giới: “ Căn cứ trên quyền lợi chung, Chính
phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòasắn sàng đặt quan hệ ngoại giao với chính
phủ nước nào trọng quyền bình đẳng, chủ quyền lãnh thổ và chủ quyền quốc
gia của nước Việt Nam, để cùng nhau bảo vệ hoà bình và xây đắp dân chủ thế
giới.”
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc vừa mang tính khoa học
đúng đắn, vừa có tính chất cách mạng, mang đậm tính nhân văn sâu sắc, thể
hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa dân tộc và giai cấp, chủ nghĩa yêu nước
với chủ nghĩa quốc tế trong sáng, độc lập dân tộc cho mình đồng thời độc lập
cho tất cả các dân tộc.
CHƯƠNG II
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ GIAI CẤP

Hồ Chí Minh là một nhà yêu nước chân chính, một nhà cách mạng sáng
tạo, vị anh hùng giải phóng dân tộc, không dính dáng gì đến chủ nghĩa dân
tộc. C.Mác từ một nhà dân chủ trở thành một nhà cách mạng. Hồ Chí Minh từ
một nhà yêu nước trở thành nhà cách mạng. Con đường đến với cách mạng
của các ông có khác nhau, nhưng đều gặp nhau ở sự nghiệp giải phóng xã hội,
giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
"Giai cấp" là những tập đoàn người đông đảo, khác nhau về địa vị của
họ trong mối quan hệ sản xuất và quan hệ xã hội. Giai cấp là một phạm trù
lịch sử, chỉ tồn tại trong những giai đoạn lịch sử nhất định của sự phát triển
của xã hội. Giai cấp sinh ra khi sự phân công trong xã hội xuất hiện và phát
triển, khi quyền tư hữu tư liệu sản xuất xuất hiện. Từ đó hình thành giai cấp
bóc lột và giai cấp bị bóc lột: giai cấp tư sản (giai cấp tư bản), giai cấp công
nhân, giai cấp nông dân, Đối với trí thức, không phải là giai cấp, mà là
"tầng lớp", vì theo cách giải thích của các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa
học, thì những người này thường phụ thuộc vào một giai cấp nhất định, bản
thân họ không có hệ tư tưởng riêng.
"Đấu tranh giai cấp", khái niệm xuất hiện từ khi hình thành chủ nghĩa
Mác. Đấu tranh giai cấp dưới chủ nghĩa tư bản là cuộc đấu tranh của giai cấp
công nhân, của nhân dân lao động, chống lại sự thống trị về kinh tế và chính
trị của giai cấp tư sản. Đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa xã hội là cuộc đấu tranh giữa một bên là giai cấp công
nhân, liên minh với nhân dân lao động và một bên là các giai cấp bóc lột vừa
bị lật đổ. Đấu tranh giữa hai hệ thống xã hội là cuộc đấu tranh giai cấp giữa
hai hệ thống xã hội đối lập trên thế giới là hệ thống xã hội chủ nghĩa và hệ
thống tư bản chủ nghĩa.
Khi nghiên cứu các vấn đề trên, có người đề nghị trong tình hình hiện
nay, không nói đến vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp, cho rằng, nói như
vậy là đã lỗi thời. Có điều là lịch sử đã diễn ra như thế nào, thì nhà khoa học
lịch sử phải nghiên cứu như thế đó. Lịch sử và lôgích ( luận lý) là hai phạm
trù triết học, phản ánh mối quan hệ giữa một bên là quá trình của nhận thức

lôgích và một bên là sự phát triển lịch sử của xã hội nói chung, của lịch sử
nhận thức nói riêng. Lôgích chính là lịch sử nhận thức. Nhận thức khoa học
chân chính phản ánh lịch sử của tự nhiên và của xã hội. Vì vậy, xét về nguyên
tắc, lôgích phù hợp với lịch sử.
Hồ Chí Minh không phải là người không tính đến đấu tranh giai cấp,
trái lại, Người luôn luôn đặt vấn đề đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp.
Ngay từ năm 1922, Người đã sử dụng khái niệm "đấu tranh giai cấp" của
C.Mác và Ph.Ăngghen đã nêu trong "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản". Đến
năm 1924, Người nói: Trường Đại học Phương Đông "đã dạy chúng tôi
nguyên lý đấu tranh giai cấp". Và cũng ngay từ năm 1924, Người còn nói:
"Các dân tộc ở đó

không bao giờ có thể ngẩng đầu lên được nếu không gắn
bó với giai cấp vô sản thế giới".
Để giải quyết vấn đề dân tộc và giai cấp, dân tộc và dân chủ, về lý luận,
Hồ Chí Minh đi từ vấn đề giải phóng dân tộc đến vấn đề giải phóng giai cấp,
từ vấn đề dân tộc đến vấn đề dân chủ, nhưng trong thực tế phương pháp của
Người lại đi từ vấn đề giai cấp đến vấn đề dân tộc, từ vấn đề dân chủ đến vấn
đề dân tộc. Theo Người, để giải quyết vấn đề dân tộc, thì phải giải quyết vấn
đề giai cấp và vấn đề dân chủ.
Những cuộc đấu tranh đầu tiên trên nghị trường quốc tế, Hồ Chí
Minh thẳng thắn nêu vấn đề đòi quyền dân chủ cho nhân dân Việt Nam. Sức
hấp dẫn trong lúc ban đầu đi tìm đường cứu nước của Nguyễn Tất Thành
chính là lá cờ cách mạng dân chủ tư sản ở phương Tây. Ngay từ năm 1923,
Người trả lời phỏng vấn của một nhà báo Liên Xô Ôxíp Manđenxtam, rằng:
"Khi tôi độ mười ba tuổi, lần đầu tiên, tôi được nghe ba chữ Pháp: Tự do,
Bình đẳng, Bác ái. Đối với chúng tôi, người da trắng nào cũng là người Pháp.
Người Pháp đã nói thế. Và từ thuở ấy, tôi rất muốn làm quen với nền văn
minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn đàng sau những chữ ấy"
6

. Như vậy,
ngày từ tuổi thiếu niên, Người đã được nghe những từ mang sắc thái dân chủ
phương Tây. Vấn đề đặt ra là Người muốn tìm hiểu xem đàng sau những từ
ngữ dân chủ ấy ẩn chứa những gì? Có phải là dân chủ với nhân dân không,
hay là dân chủ trong khuôn khổ cách mạng dân chủ tư sản? Từ năm 1917 đến
năm 1923, Người ở Pari, thủ đô nước Pháp, đã nhìn thấy thực chất của "Tự
do, Bình đẳng, Bác ái" của một nền dân chủ tư sản phương Tây, một nền dân
chủ do cách mạng tư sản dân chủ mang lại. Nguyễn Ái Quốc nhìn rõ cách
mạng tư sản dân chủ thực chất là cuộc cách mạng tư sản, trong đó, nhân dân
đưa ra những yêu sách về kinh tế và chính trị của mình, và do đó, gây ảnh
hưởng đến cách mạng, làm cho cách mạng phát triển vượt ra khỏi giới hạn
chính trị chật hẹp mà giai cấp tư sản đã nêu ra trước khi nổ ra cách mạng. Đó
là những mặt tiến bộ, tích cực của cách mạng tư sản dân chủ. Nhưng bên cạnh
đó, cách mạng tư sản dân chủ cũng còn những hạn chế nhất định ở chỗ cách
mạng không nêu ra mục đích trực tiếp là tiêu diệt phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa, mà chỉ nêu việc tiêu diệt một cách kiên quyết nhất mọi tàn dư của
chế độ phong kiến. Vì vậy, nếu cách mạng tư sản dân chủ có giành được
thắng lợi, thì chế độ của nó vẫn nằm trong khuôn khổ của chế độ tư sản, trong
khi đó, Nguyễn Ái Quốc lại chủ trương lật đổ chế độ tư sản, thực dân ở Đông
Dương. Người thấy sau vụ đàn áp dã man của chính quyền Đông Pháp, nhiều
người dân Việt Nam, phần lớn là nhà nho, đã bị bỏ tù và sát hại. Người viết:
"Tự do, Bình đẳng, Bác ái. Chao ôi! Nực cười thay"
10
. Vì vậy, Người kêu gọi
các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc phải tiến hành cách mạng giải phóng dân
tộc, thì mới có thể giải phóng được nhân dân lao động.
Năm 1919, Nguyễn Ái Quốc thay mặt cho những người Việt Nam
yêu nước, gửi tới Hội nghị Vécxây (Hội nghị hoà bình Pari)
7
bản "Yêu sách

của nhân dân An Nam", đòi quyền tự do, dân chủ cho nhân dân Việt Nam.
Năm 1921, Nguyễn Ái Quốc viết bài "Phong trào cộng sản quốc tế"
8
.
Trong bài viết này, Người đề cập một cách toàn diện vấn đề dân chủ ở châu Ấ
và Đông Dương. Người viết:
"Cái mà chúng tôi thiếu để trở thành cộng sản, là những điều kiện cơ
bản nhất để hành động:
Tự do báo chí
Tự do du lịch.
Tự do dạy và học
Tự do hội họp"
Trong cuộc hành trình cứu nước, Nguyễn Ái Quốc nhận ra rằng,
muốn đòi được quyền tự do, dân chủ, thì phải giải quyết vấn đề dân tộc và
vấn đề giai cấp. Đấu tranh đòi quyền dân chủ chỉ là bước đệm để đi đến giải
quyết vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp.
Hồ Chí Minh đã xem cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận
khăng khít của cách mạng vô sản trong phạm vi toàn thế giới, là một cách của
cách mạng vô sản. Khác với Mác, Ăngghen và Lênin, Hồ Chí Minh không
xem cách mạng giải phóng dân tộc phụ thuộc vào cách mạng vô sản chính
quốc mà đặt hai cuộc cách mạng này ngang hàng nhau, có mối quan hệ hữu
cơ và tác động qua lại lẫn nhau. Người còn cho rằng, cách mạng giải phóng
dân tộc có khả năng, điều kiện nổ ra và thành công sớm hơn cách mạng vô
sản ở chính quốc và giúp cho cách mạng vô sản ở chính quốc giành thắng lợi.
Đây là điểm mấu chốt trong việc phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin
về vấn đề giải phóng giai cấp và cách mạng vô sản trong điều kiện mới của
chủ nghĩa đế quốc. Hồ Chí Minh đã xuất phát từ tình hình thực tế ở các nước
thuộc địa phương Đông lúc bấy giờ, trong đó có Việt Nam, để xác định đúng
đắn nhiệm vụ lúc này không phải là làm ngay một cuộc cách mạng vô sản, mà
trước hết là phải đấu tranh giành lại độc lập, có độc lập dân tộc rồi mới có địa

bàn để làm cách mạng xã hội chủ nghĩa. Người cho rằng trong điều kiện một
nước thuộc địa thì giải phóng giai cấp gắn bó chặt chẽ với giải phóng dân tộc.
Giải phóng dân tộc là động lực lớn mà người cộng sản phải nắm lấy và phát
huy, là một bước quan trọng để tiến tới giải phóng giai cấp. Cách mạng giải
phóng dân tộc là điều kiện để tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa và góp
phần thiết thực vào sự nghiệp cách mạng của giai cấp vô sản trên thế giới.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự gắn bó thống nhất giữa độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội vừa phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp giải phóng
dân tộc trong thời đại cách mạng vô sản, vừa phản ánh mối quan hệ khăng
khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp và giải
phóng con người.
Tất cả của cải vật chất trong xã hội, đều do công nhân và nông dân làm
ra. Nhờ sức lao động của công nhân và nông dân, xã hội mới sống còn và phát
triển. Song đa số người lao động thì suốt đời nghèo khó, mà thiểu số người
không lao động thì lại hưởng thụ thành quả lao động đó. Đó là do một số ít
người đã chiếm làm tư hữu những tư liệu sản xuất của xã hội. Họ có tư liệu
sản xuất nhưng họ không làm lụng, họ bắt buộc người khác làm cho họ
hưởng. Do đó mà có giai cấp. Những người chiếm tư liệu sản xuất không làm
mà hưởng, là giai cấp bóc lột hay giai cấp tư sản. Những người lao động mà
không được hưởng giá trị thặng dư và thành quả lao động là giai cấp bị bóc
lột hay giai cấp công nhân.
CHƯƠNG III
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ GIAI CẤP
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Ngày nay, trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước cũng đang đứng trước những cơ hội và
thách thức to lớn đòi hỏi chúng ta phải chủ động đón lấy và sáng suốt vượt
qua. Để làm được điều đó chúng ta cần nghiên cứu, vận dụng tư tưởng của
Người về mối quan hệ giữa dân tộc với giai cấp, dân tộc và quốc tế, độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội nhằm tạo ra những nguồn lực mới, đưa sự nghiệp

đổi mới vững bước tiến lên , giành những thắng lợi mới.
Trước hết, trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng đều phải đặc biệt coi trọng
và giữ vững độc lập dân tộc. Lịch sử đấu tranh dựng nước và giữa nước của
ông cha ta từ ngàn xưa cũng như sự nghiệp giải phóng dân tộc do Đảng cộng
sảnViệt Nam đứng đầu là Hồ Chí Minh khới xướng từ 1930 đến nay được ghi
lại bằng máu và nước mắt. Thế mới thấy được ý nghĩa của độc lập dân tộc,
mới thấu hiểu được tư tưởng bất hủ “Không có gì quí hơn độc lập tự do” của
Hồ Chí Minh. Trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay,
không một quốc gia nào có thể phát triển mà không gắn với những mối quan
hệ đa dạng và đa phương với các quốc gia khác trong cộng đồng quốc tế. Việt
Nam cũng nằm trong xu thế ấy. Ngoài những lợi ích hiển nhiên, hơn bao giờ
hết, nước ta đang đứng trước rất nhiều nguy cơ có ảnh hưởng trực tiếp đến
độc lập dân tộc. Đó là những nguy cơ lệ thuộc vào nước ngoài về kinh tế,
chính trị, nguy cơ phai nhạt bản sắc văn hoá dân tộc, tiếp thu một nền văn hoá
lai căng phi bẳn sắc. Bên cạnh những nguy cơ mang tính hệ quả của toàn cầu
hoá và tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta còn phải đối mặt với âm
mưu diễn biến hoà bình. Các thế lực thù địch trong và ngoài nước đang núp
dưới những chiêu bài tự do, dân chủ, nhân quyền, dân tộc tôn giáo để chống
phá sự nghiệp cách mạng nước ta ( Sự biến Tây Nguyên 2/2001 và 4/2004).
Trước những nguy cơ ấy, Đảng và Nhà nước ta phải không ngừng khơi dậy
sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, nguồn động lực mạnh
mẽ để xây dựng và bảo vệ đất nước. Phát huy tối đa các nguồn nội lực, bao
gồm con người, trí tuệ, truyền thống, đất đai, tài nguyên,v.v để xây dựng và
phát triển kinh tế, đưa đất nước từng bước bắt kịp các nước phát triển. Đất
nước phát triển, nền kinh tế hùng mạnh sẽ góp phần trực tiếp tạo sức mạnh
cho nhân dân ta giữ vững độc lập dân tộc. Độc lập dân tộc phải được xem là
cái bất biến trong sự thiên biến vạn hoá của nền kinh tế thế giới đang phát
triển với xu thế toàn cầu hoá; bản sắc văn hoá Việt Nam cũng phải được xem
là cái bất biến trong sự đa dạng các nền văn hoá thế giới, tiếp thu nhứng hay,
cái đẹp, cái tiên tiến mà vẫn không mất đi cái gốc, cái chất Việt Nam trong

mỗi con người. Đó cũng là cách để giữ vững độc lập dân tộc theo đúng nghĩa
của nó.
Bên cạnh đó phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và vấn
đề giai cấp, trong xây dựng hoà bình, nhất là những năm đổi mới, vấn đề dân
tộc và vấn đề giai cấp được biểu hiện trước hết ở vấn đề nhà nước và vấn đề
xã hội.
Về vấn đề nhà nước: Trong những năm đổi mới, Đảng đã nghiên cứu và
đưa vào nghị quyết của Đảng vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
11
. Nội dung của
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam bước đầu được phác thảo ra
là xác định đây là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, mọi
quyền lực của Nhà nước thuộc về nhân dân; quản lý mọi mặt đời sống xã hội
bằng pháp luật; đưa đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được xây dựng trên cơ sở
tăng cường, mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, lấy liên minh giai cấp
công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng lãnh
đạo.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện nguyên
tắc tập trung dân chủ. Thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy mạnh mẽ
quyền làm chủ của nhân dân, xem đây là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu và
cũng là bản chất ưu việt của Nhà nước ta. Nhà nước phải liên hệ chặt chẽ với
nhân dân, tôn trọng và lắng nghe ý kiến của nhân dân, chịu sự giám sát của
nhân dân. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa kiên quyết đấu tranh chống
quan liêu, cửa quyền, chống tham nhũng, lãng phí, đặc quyền đặc lợi. Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa bảo vệ quyền con người, các quyền cơ bản
của công dân đã ghi trong Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, trong đó có quyền sở hữu, quyền sử dụng tư liệu sản xuất, quyền tự do
kinh doanh hợp pháp; quyền được tự do thảo luận, tranh luận, phản biện, phát

biểu, nghiên cứu, quyền bày tỏ chính kiến của mình; quyền tự do tín ngưỡng
và không tín ngưỡng; quyền ứng cử và bầu cử, tuyển chọn dân chủ, đưa
những người thực sự có tài, có đức vào các cơ quan công quyền cũng như vào
các cương vị lãnh đạo, quản lý các cấp, Nói tóm lại là các quyền cơ bản của
công dân.
Bộ máy của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phải hết sức lành
mạnh, trong sạch, trung thực, vì nước vì dân. Cán bộ, công chức, viên chức
trong bộ máy phải là những người có trái tim và khối óc trí tuệ. Kiên quyết
loại trừ những phần tử kém tài, kém đức, nhưng cơ hội ra khỏi bộ máy.
Bộ máy của Nhà nước xã hội chủ nghĩa phải là bộ máy ưu tú của lập
pháp, hành pháp, tư pháp. Những người điều hành bộ máy phải là những
người thật sự có tài lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành công việc, biết bao
quát công việc của toàn xã hội và quan tâm đến mọi nhà, mọi người. Phải cải
tiến mạnh phương thức lãnh đạo và điều hành của lãnh đạo, quản lý bộ máy
nhà nước hiện nay; từng bước lãnh đạo, quản lý, điều hành bằng khoa học -
đổi mới, thay cho điều hành bằng ý chí chủ quan. Muốn vậy, phải học tập lại,
phải biết tự xem lại mình, tự điều chỉnh mình, tự soi gương để xem lại bộ mặt
của mình. Ngày 24-7-1962, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm Hội nghị cán bộ
cao cấp của Đảng và Nhà nước. Nói chuyện với Hội nghị, Người chỉ ra rằng,
bên cạnh những người lãnh đạo giỏi, có tâm, có tài, là những người lãnh đạo
kém, thậm chí rất kém. Họ rất quan liêu, hời hợt trong lãnh đạo, lại còn tham
ô, lãng phí, ăn hối lộ. Những người này đã gây ảnh hưởng rất xấu đến đến
công cuộc xây dựng kinh tế - xã hội của nhân dân ta. "Vì vậy, chúng ta phải
kiên quyết chống lại những tệ hại ấy"
12
.
Văn kiện Đại hội XI (2011) nhận định Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế và quản lý đất nước.
Điểm yếu kém hiện nay của bộ máy nhà nước là năng lực xây dựng thể chế,
quản lý, điều hành, tổ chức thực hiện pháp luật; giữa các bộ máy của Nhà

nước chưa có sự ăn nhập, gắn kết. Chất lượng công vụ của cán bộ, công chức,
viên chức quá yếu. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là khâu đào tạo,
tuyển dụng và bồi dưỡng yếu. Để khắc phục nó, cần phải nghiêm ngặt trong
việc tuyển dụng công chức, viên chức vào làm việc trong bộ máy công quyền.
Bộ hồ sơ của người xin tuyển dụng phải bảo đảm đầy đủ các giấy tờ như bằng
cấp, giấy chứng nhận sức khoẻ, năng lực chuyên môn, ngoại ngữ, tin học, sự
cam kết không cơ hội, tiến thân bằng chính thực lực của mình, chứ không
phải dựa dẫm vào người khác; kiểm tra về trình độ và cách đối nhân xử thế
trong mối quan hệ giữa người và người.
Về vấn đề xã hội, phải tính đến phát huy sức mạnh của nhân tố con
người, tất cả vì cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân, vì lợi ích vật
chất và tinh thần của công dân Việt Nam. Muốn vậy, vấn đề đặt ra là phải bổ
sung nhiều hơn nữa chính sách đối với con người. "Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội" (Bổ sung, phát triển năm
2011) đã được Đại hội XI của Đảng thông qua đã đặt vấn đề "xây dựng con
người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội"
13
.
"Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát
triển"
14
. Đây là những vấn đề rất lớn, rất cơ bản, một vấn đề mà Chủ tịch Hồ
Chí Minh suốt đời mong muốn. Để triển khai vấn đề này vào trong đời sống
xã hội, đòi hỏi phải huy động sức mạnh tổng lực của nhân dân và phải có cả
một hệ thống chính sách cụ thể mới làm được.
Muốn giải quyết cơ bản trên phương diện lý luận vấn đề con người,
trước hết, phải tính đến mối quan hệ giữa con người và con người, đến việc
giải quyết có hiệu quả chính sách dân số và việc làm, tạo sự hài hoà giữa phát
triển dân số và phát triển việc làm. Đặt vấn đề giảm tốc độ tăng dân số và đề
cao chất lượng sinh đẻ một cách có kế hoạch là chính sách phải được đặt lên

hàng đầu.
Phương hướng quan trọng nhất để giải quyết việc làm là thực hiện tốt
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2020, đặc biệt phải coi
trọng sản xuất và dịch vụ. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đang là vấn
đề của cả ngày hôm nay và ngày mai. Giáo dục và đào tạo, khoa học và công
nghệ, bảo vệ môi trường đều là những vấn đề lớn, gắn bó với con người, cần
phải thực hiện bằng những chính sách bổ sung.
Sự tạo dựng một cộng đồng xã hội gắn bó sẽ tạo thành sức mạnh cộng
hưởng của toàn dân tộc.
Xét dưới góc độ công dân, thì cán bộ, đảng viên, nhân dân, tất cả đều là
những con người. Để cho những con người ấy quy tụ được thành một khối
thống nhất trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, thì trước hết, Đảng
và Nhà nước phải nâng mức sống vật chất và tinh thần của những con người
đó lên, có như vậy mới bảo đảm cho thời chiến cũng như thời bình, bao giờ
cũng có "99 con voi quay đầu về với đất Tổ thiêng liêng, chỉ có 1 con là quay
mặt đi".
KẾT LUẬN
Tư tưởng Hồ Chí Mih đã chỉ ra rằng độc lập là tài sản thiêng liêng vô giá
của cả dân tộc, là cái phải giữ cho dù mất tất cả, “hy sinh tất cả”. Muốn thực
hiện tốt tinh thần bất hủ ấy của Hồ Chí Minh, ngày nay đường lối của Đảng
và Nhà nước ta phải thể hiện rõ sự quan tâm, không ngừng chăm lo đời sống
vật chất và tinh thần cho nhân dân. Tiếp thu và phát huy tinh hoa của dân tộc
với truyền thống “lấy dân làm gốc” (Dân vi bản quốc gia trường thọ), sinh
thời Hồ Chí Minh đã không ngừng giáo dục cán bộ, đảng viên phải luôn luôn
có tinh thần “vì dân phục vụ”. Người nói: “ Gốc có vững cây mới bền, Xây
lầu thắng lợi trên nền nhân dân” Chăm lo và không ngừng nâng cao đời sống
cho nhân dân là cách thiết thực nhất để bảo vệ độc lập dân tộc, vì theo Người,
dân như nước, chở thuyền cũng là nước mà lật thuyền cũng là nước. Dân giàu
thì nước mạnh, mà nước mạnh thì độc lập dân tộc còn. Chủ trương diệt giặc
đói và giặc dốt của Người năm 1945 về cơ bản chính là nền tảng của việc

chăm lo và nâng cao đời sống cho người dân về vật chất cũng như tinh thần.
Và suy cho cùng, mục tiêu của độc lập dân tộc, theo quan điểm của Hồ Chí
Minh, là tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân; và dĩ nhiên là dân được ấm
no tự do hạnh phúc sẽ ra sức bảo vệ nền độc lập vốn mang lại những điều tốt
đẹp đó. Như vậy, chăm lo, không ngững nâng cao đời sống nhân dân vừa là
mục tiêu vừa là cách thiết thực nhất để bảo vệ độc lập dân tộc theo đúng tinh
thần mà Hồ Chí Minh đã nêu rõ.
Thấm nhuần tư tưởng của người về vấn đề dân tộc, ta càng phải phát
huy chủ nghĩa dân tộc chân chính, tinh thần tích cực chủ động, sáng tạo và tự
lực tự cường của mọi người dân Việt Nam để góp phần xây dựng và bảo vệ tổ
quốc, bảo vệ nền độc lập dân tộc. Người Việt Nam vốn có truyền thống yêu
nước, tinh thần đoàn kết cộng đồng, ý chí tự chủ kiên cường, sáng tạo, bất
khuất, không chịu làm nô lệ, không cam phận nghèo hèn. Những phẩm chất
tốt đẹp ấy đã được phát huy cao độ trong hai cuộc kháng chiến thần thánh của
dân tộc, đưa đến thắng lợi vĩ đại Điện Biên và Đại thắng mùa xuân 1975, giải
phóng MN thống nhất đất nước, đưa cả nước quá độ lên CNXH. Ngày nay,
truyền thống quí báu ấy, chủ nghĩa dân tộc chân chính cần được tiếp tục khơi
dậy mạnh mẽ, biến nó thành một nguồn nội lực đưa đất nước vượt qua mọi
khó khăn thách thức, vững bước tiến lên cùng bè bạn khắp năm châu.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh – NXB chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh toàn tập - tập 1 – NXB chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh toàn tập - tập2 – NXB chính trị quốc gia
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, NXB chính trị quốc gia
www.dangcongsan.vn


×