Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Marketing trong cơ chế thị trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.05 KB, 29 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
Hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường hiện này ngày càng phát triển
đa dạng và phức tạp, có sự tham gia của tất cả mọi thành phần kinh tế gồm kinh tế
cá thể, hộ gia đình, kinh tế tư bản tư nhân và kinh tê nhà nước. Các thành phần kinh
tế hoạt động trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống từ quy mô nhỏ đến quy mô lớn
mang phạm vi khu vực và quốc tế.
Trong tất cả các thành phần kinh tế đó thì các thành phần kinh tế đại diện
cho kinh tế vừa và nhỏ chiếm ưu thế và đóng vai trò quan trọng cho sự phát triển
kinh tế đất nước của nhiều quốc gia trong đó có Việt nam đó chính là các doanh
nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN). Các doanh nghiệp này chiếm phần lớn trong tổng số
các doanh nghiệp của mỗi quốc gia. Chúng tạo ra công ăn việc làm, nâng cao đời
sống dân cư, góp phần vào quá trình chuyển dịch cơ cấu của các quốc gia trong tiến
trình công nghiệp hoá hiện đại hoá.
Hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ này là tích cực và được tổ chức
tốt. Nhưng để thực hiện và kinh doanh có hiệu quả trước sự biến đổi của thị trường,
khách hàng và sản phẩm các DNVVN cần phải nghiên cứu kỹ lưỡng nhu cầu khách
hàng và sự thay đổi trong nhu cầu để có chính sách đưa ra sản phẩm mới phục vụ
khách hàng. Làm điều đó tốt nhất chỉ có bộ phận marketing với kế hoạch
marketing. Kế hoạch marketing trong DNVVN lâu nay chưa được chú trọng và đặt
trong vị trí xứng đáng của DNVVN đã làm cho DNVVN gặp rất nhiều khó khăn
khi tiếp cận thị trường. Hiện nay, kế hoạch marketing đang dần được chú trọng đối
với DNVVN nhưng vẫn còn chậm và chưa hiểu rõ. Vậy làm thế nào để thấy rõ vai
trò của kế hoạch marketing là rất cần thiết cho mỗi DNVVN cũng như các chủ
doanh nghiệp và từng nhân viên.

1
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
I. KHÁI QUÁT DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ VÀ VAI TRÒ CỦA
KẾ HOẠCH MARKETING TRONG DOANH NGHIỆP HIỆN NAY
1. Doanh nghiệp vừa và nhỏ


Doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) hiện nay tại nhiều quốc gia phát triển
và đang phát triển là rất nhiều và chiếm một vị trí quan trọng. Nó tạo ra một lực
lượng lao động lớn, đóng góp tới trên 60% giá trị GDP. Vậy doanh nghiệp vừa và
nhỏ đã được hiểu chính xác chưa và vai trò của nó trong nền kinh tế hiện nay như
thế nào, chúng hoạt động ra sao trong xu thế biến đổi thị trường ngày một nhanh và
lớn.
1.1 .Bản chất doanh nghiệp vừa và nhỏ
a)Định nghĩa về doanh nghiệp vừa và nhỏ
-Doanh nghiệp vừa và nhỏ là những cơ sở sản xuất, kinh doanh có tư cách
pháp nhân, kinh doanh vì lợi nhuận, có quy mô doanh nghiệp trong những giới hạn
nhất định tính theo các tiêu thức như: vốn, lao động, doanh thu, giá trị gia tăng thu
được trong từng thời kỳ theo quy định của từng quốc gia.
-Các tiêu thức nhận dạng doanh nghiệp vừa và nhỏ
+ Số lao động
+ Vốn sản xuất
+ Doanh thu
+ Lợi nhuận
+ Giá trị gia tăng
-Số lượng các tiêu thức là không giống nhau tại mỗi quốc gia
Các tiêu thức xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ ở mỗi quốc gia có sự khác
nhau. Bởi, tình hình kinh tế, quy mô kinh tế tại các quốc gia là khác nhau và chênh
lệnh nhau. Đồng thời chính sách của quốc gia cũng ảnh hưởng tới các chọn lựa các
tiêu thức cho DNVVN. Một quốc gia phát triển sẽ chọn các tiêu thức khác với một
quốc gia đang phát triển, một nước có tiềm lực và nội lực sẽ đưa ra các tiêu chí
khác nhau so với một nước xuất phát điểm thấp.

2
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
-Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ mang tính bất biến
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ cùng với sự phát triển của nền kinh tế sẽ

trưởng thành và phát triển. Điều đó làm cho đất nước cũng phát triển và lớn mạnh
bước sang một giai đoạn mới. Mà giai đoạn này vượt hơn so với giai đoạn trước
làm cho tính chất, quy mô của các doanh nghiệp cũng có sự thay đổi. Tất cả điều
đó làm cho khái niệm về doanh nghiệp vừa và nhỏ luôn mang tính bất biến cho phù
hợp với sự phát triển.
b)Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt nam
-Khái niệm: Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt nam là những cơ sở sản xuất
kinh doanh có tư cách pháp nhân, không phân biệt thành phần kinh tế, có quy mô
về vốn và lao động thoả mãn các quy định của Chính phủ đối với từng ngành nghề,
tương ứng với từng thời kỳ phát triển nền kinh tế.
-Các loại doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt nam
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động trên mọi lĩnh vực của nền kinh tế
như: sản xuất công nghiệp nhẹ, công nghiệp chế biến, công nghiệp cơ khí, sản xuất
nông nghiệp, dịch vụ phục vụ cho sản xuất và cho đời sống. Những DNVVN này
xuất phát từ nhiều hình thức khác nhau nhưng xét tổng quát chúng bao gồm:
+ Các doanh nghiệp nhà nước đăng ký theo luật doanh nghiệp
+ Các công ty cổ phần, công ty TNHH, doanh nghiệp tư nhân
+ Hợp tác xã
+ Các cá nhân, nhóm sản xuất kinh doanh đăng ký theo NĐ66/HĐBT
-Các tiêu thức phân chia doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt nam
Theo công văn số 681/CP-KTN ngày 20 tháng 06 năm 1998 thì chính phủ
Việt nam phân chia các doanh nghiệp theo một số tiêu chí đặc trừng cho tất cả các
doanh nghiệp trong đó có DNVVN. Như vậy, DNVVN đã được phân chia theo
vốn điều lệ, số lao động trung bình hoặc cả hai tiêu chí trên.
+ Vốn điều lệ

3
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Về tiêu chí vốn điều lệ, tất cả doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế
hoạt động trên lãnh thổ Việt nam có vốn ban đầu nhỏ hơn 5 tỷ đồng sẽ là DNVVN.

Bên cạch đó, các doanh nghiệp có vốn điều lệ nhỏ hơn 1 tỷ đồng sẽ là doanh
nghiệp nhỏ, còn những doanh nghiệp có vốn điều lệ từ 1 đồng đến 5 tỷ đồng sẽ là
doanh nghiệp vừa.
+ Số lao động trung bình
Với số lao động trung bình, những doanh nghiệp có số lao động hoạt động và
làm việc cho doanh nghiệp nhỏ hơn 200 người thì những doanh nghiệp đó thuộc
doanh nghiệp vừa và nhỏ. Doanh nghiệp nào có số lao động nhỏ hơn 30 người là
doanh nghiệp nhỏ, còn doanh nghiệp nào có số lao động từ 31 người đến 200 người
sẽ thuộc doanh nghiệp vừa.
+ Cả hai tiêu chí trên
Tiêu thức tổng hợp cả vốn và lao động cho phép xác định DNVVN một cách
đầy đủ, nghĩa là doanh nghiệp vừa và nhỏ là những doanh nghiệp có vốn điều lệ
nhỏ hơn 5 tỷ đồng và số lao động nhỏ hơn 200 người.
c)Đặc điểm của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt nam
-Mức giới hạn doanh nghiệp vừa và nhỏ là chưa rõ ràng
Giới hạn về doanh nghiệp vừa và nhỏ phụ thuộc vào quy mô của doanh
nghiệp là chính chứ chưa có một bộ tiêu chí tổng hợp nào. Đây cũng là hạn chế cho
việc xác định, với doanh nghiệp cứ có vốn nhỏ hơn 1 tỷ hoặc số lao động nhỏ hơn
30 người là doanh nghiệp nhỏ đôi khi sẽ nhầm lẫn với hộ gia đình hoặc hộ kinh
doanh nhỏ lẻ. Do đó, đặc điểm này là một đặc điểm cơ bản của DNVVN ở Việt
nam.
-Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt nam thường gắn với công nghệ lạc hậu,
thủ công
Đặc điểm thứ hai của DNVVN chính là phần lớn các doanh nghiệp đều sở
hữu cho mình những công nghệ cũ kỹ, lạc hậu. Những công nghệ đó dẫn tới

4
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
DNVVN sẽ chậm đổi mới, khó ứng dụng và phát triển lĩnh vực cần nhiều vốn và
công nghệ cao cho phù hợp với sự biến động của thị trường.

-Doanh nghiệp vừa và nhỏ chủ yếu là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh
Một đặc điểm khác nữa là các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường là các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh. Đặc điểm này xuất phát từ quá trình chuyển đổi cơ chế
của chúng ta từ cơ chế tập trung sang cơ chế thị trường. Trong cơ chế tập trung nhà
nước điều phối và quản lý toàn bộ nên chủ yếu tồn tại các doanh nghiệp nhà nước
với quy mô lớn, còn khi sang cơ chế thị trường với chủ trường đa dạng hoá các
hình thức sở hữu nên số lượng các doanh nghiệp ra đời rất nhiều nhưng chủ yếu là
các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, chúng chiếm tới trên 93% số doanh
nghiệp hiện có của Việt nam.
1.2 Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt nam
a)Vai trò cơ bản của DNVVN của Việt nam
DNVVN ở Việt nam trong những năm trở lại đây hoạt động trong cơ chế thị
trường đã tỏ rõ tính ưu việt của mình và góp phần quan trọng cho sự phát triển kinh
tế của đất nước, chúng đước thể hiện qua các vai trò sau:
- Giải quyết và thực hiện các mục tiêu kinh tế – xã hội của Đảng và Nhà
nước
- Tạo lao động và phát huy tính sáng tạo của từng người lao động, giảm thất
nghiệp, tăng thu nhập và giảm chênhh lệch giàu nghèo.
- Khai thác hiệu quả nguồn lực địa phương cả về con người và tài nguyên
thiên nhiên.
- Khôi phục các nghề, làng nghề truyền thống trong nhân dân
- Hình thành các nhà kinh doanh năng động, sáng tạo cho sự nghiệp CNH-
HĐH.
- Góp phần thực hiện chuyển giao công nghệ, kỹ thuật, kinh nghiệp...
- Đưa Việt nam đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp
b)Sự khác biệt giữa DNVVN với các doanh nghiệp khác tại Việt nam

5
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Trong mọi nền kinh tế, các doanh nghiệp vừa và nhỏ luôn đóng vai trò hỗ trợ

đắc lực cho các doanh nghiệp lớn đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt
nam. Nên chính vì yếu tố này mà DNVVN tại Việt nam trong cơ chế đổi mới khác
với doanh nghiệp lớn ở một vài điểm sau:
+ Tổ chức: Các doanh nghiệp lớn tại Việt nam phần lớn là các doanh
nghiệp nhà nước, các tổng công ty nhất là các tổng công ty 90-91. Các doanh
nghiệp này có từ lâu được tổ chức phức tạp, cồng kềnh và quy mô lớn được nhà
nước bảo trợ. Khác với chúng là các DNVVN mới ra đời được tổ chức gọn nhẹ đôi
khi là rất đơn giản tạo ra sự thuận lợi, linh hoạt trong cơ cấu và quá trình ra quyết
định.
+ Tuổi đời của doanh nghiệp: Các DNVVN có từ rất lâu từ khi chưa hình
thành và xác định là DNVVN. Chúng phần lớn xuất phát từ các nghề truyền thống
trong việc sản xuất phục vụ đời sống nhân dân như sản xuất công nghiệp, xây
dựng, thực phẩm... còn riêng doanh nghiệp dịch vụ thì mới hình thành. Tuy nhiên,
xuất hiện từ lâu xong các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngày này vẫn chưa thể bắt kịp
so với các doanh nghiệp lớn.
+ Lao động: Cũng như doanh nghiệp lớn, DNVVN có lao động làm việc và
phần lớn là lao động được đào tạo nghề từ nghề truyền thống. Đây là một lợi thế
của DNVVN trong cơ chế thị trường hiện nay.
+ Trình độ quản lý: Sự khác biệt lớn nhất giữa doanh nghiệp lớn với
DNVVN chính là kỹ năng quản lý. Trong những năm trước thì các doanh nghiệp
lớn tỏ ra có ưu thế nhờ được đào tạo chính quy và quy củ. Còn giai đoạn hiện nay
thì các DNVVN được lãnh đạo bởi những ông chủ quản lý có năng lực, trình độ và
học vấn. Họ đại diện cho giới doanh nghiệp trẻ thành đạt hiện nay. Nên đó cũng là
ưu thế của DNVVN trong giai đoạn nay.
+ Đặc điểm công nghệ: Các doanh nghiệp lớn với công nghệ từ xưa đã dần
dần mất ưu thế chỉ có một số công ty lớn là có thể tiếp tục phát triển với công nghệ
tiên tiến. Các DNVVN có công nghệ nói chung là thấp chưa cao, chưa tiên tiến và

6
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

cập nhật. Nhưng với cơ chế linh hoạt thì các DNVVN đang có ưu thế hơn so với
các doanh nghiệp lớn trong sự cạnh tranh hiện nay.
2.Vai trò của hoạt động Marketing
Hoạt động Marketing là một quá trình của nhiều quyết định Marketing được
liết kết chắt chẽ với nhau. Chúng bao gồm nhiều hoạt động về hoạch định, thực
hiện, kiểm tra nhằm thực hiện cho được mục tiêu chung của doanh nghiệp và mục
tiêu riêng của từng bộ phận Marketing. Mỗi một giai đoạn, một thời kỳ hoạt động
Marketing lại có sự biến đổi cho phù hợp nhằm đạt hiệu quả cao nhất.
2.1. Marketing trong cơ chế thị trường
a)Bản chất của Marketing
Để hiểu rõ bản chất Marketing và sự xuất hiện của Marketing, chúng ta phải
tìm xem cơ sở xuất phát của Marketing.
- Nhu cầu: chính là cảm giác thiếu hụt một cái gì đó mà con gnười cảm nhận
được. Nó được hình thành là do trạng thái ý thức của con người về việc nhận tháy
thiếu một cái gì đó phục vụ cho tiêu dùng. Nhu cầu là một tập hợp đa dạng, phức
tạp và từ những thứ đơn giản đến những thứ phức tạp.
- Mong muốn hay còn gọi là ước muốn: là nhu cầu có dạng đặc thù được đòi
hỏi đáp ứng bằng hình thức tương ứng với trình độ văn hoá và trình độ của từng cá
nhân.. Và xã hội càng phát triển thì nhu cầu và mong muốn ngày càng tăng.
- Yêu cầu: Chính là những nhu cầu, mong muốn phù hợp với khả năng mua
sắm và khă năng thanh toán.
- Hàng hoá: Là tất cả hàng hoá và dịch vụ có thể đem chào bán, có khả năng
thoả mãn nhu cầu hay mong muốn của con người, gây sự chú ý kích thích sự mua
sắm và tiêu dùng của họ.
- Trao đổi: là hành động tiếp nhận một sản phẩm mong muốn từ một người
nào đó bằng cách đưa cho họ mọt thứ khác. Đây chính là khái niệm cơ bản của khái
niệm marketing sau này.

7
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

- Giao dịch: là một cuộc trao đổi mang tính chất thương mại những vật có giá
trị giữa hai bên.
- Thị trường: Thị trường bao gồm tất cả những khách hàng hiện có và khách
hàng tiềm ẩn cùng có một nhu cầu hay mong muốn hiện cụ thể, sẵn sang và có khả
năng trao đổi để thoả mãn nhu cầu và mong muốn đó.
Từ việc hiểu tất cả các khái niệm mang tính dẫn dắt và là nền tảng cho cách
tiếp cận sau này những khái niệm về Marketing, chúng ta sẽ tìm hiểu xem quá trình
hình thành và phát triển của khái niệm Marketing để thấy rõ tầm quan trọng của
Marketing.
b)Marketing trong giai đoạn đầu
- Marketing tập trung vào sản xuất: Quan điểm này cho rằng, người tiêu
dùng sẽ ưa thích nhiều sản phẩm được bán rộng rãi với giá hạ. Do vậy, mấu chốt
cho doanh nghiệp thành công là bán càng nhiều sản phẩm càng tốt.
- Marketing tập trung vào hoàn thiện sản phẩm
Theo quan điểm, người tiêu dùng sẽ ưu thích những sản phẩm có chất lượng
cao nhất, nhiều công dụng và tính năng mới. Vì vậy, doanh nghiệp muốn thành
công thì phải tạo ra nhiều sản phẩm có chất lượng hoàn hảo nhất và thường xuyên
cải tiến chúng.
- Marketing tập trung vào bán hàng
Người tiêu dùng thường có thái độ bảo thủ và có sức ỳ, ngần ngại, chần trừ
trong việc mua sắm hàng hoá và dịch vụ. Do vậy, doanh nghiệp cần tập trung mọi
nỗ lực trong việc đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm và khuyễn mãi.
c)Marketing trong giai đoạn hiện nay
Trong giai đoạn hiện nay, khi mà xã hội đã có sự thay đổi và phát triển thì
hoạt động marketing cũng cần thay đổi cho phù hợp và từ đó hình thành nên các
khái niệm marketing mới làm mục địch cho các doanh nghiệp phát triển và thành
công.
- Quan điểm marketing hiện đại

8

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Theo quan điểm thì chìa khoá để đạt đến những mục tiêu trong kinh doanh
của doanh nghiệp là doanh nghiệp phải xác định đúng những nhu cầu và mong
muốn của thị trường(khách hàng) mục tiêu từ đó tìm mọi cách đảm bảo sự thoả
mãn nhu cầu và mong muốn đó bằng những phương thức có ưu thế hơn so với đối
thủ cạnh tranh.
- Quan điểm marketing đạo đức xã hội: Quan điểm này là sự kết hợp ba lợi
ích đó là người tiêu dùng, nhà kinh doanh và cả xã hội.
2.2. Vai trò của Marketing cho doanh nghiệp
Một khi doanh nghiệp hình thành và hoạt động đồng nghĩa với nó chính là
doanh nghiệp tiếp xúc, làm việc với thị trường. Mà cách tốt nhất để làm việc và
khai thác thị trường có hiệu quả là bộ phận Marketing. Điều đó cho thấy Marketing
có vai trò to lớn.
a)Nghiên cứu và phân tích thông tin
-Khách hàng:
Khách hàng là đối tượng mà doanh nghiệp phục vụ và là yếu tố quyết định
sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp. Bởi chính khách hàng tạo nên thị
trường, thị trường lớn, rộng hay không là tuỳ thuộc vào quy mô của khách hàng.
Thị trường khách hàng ngày nay ngày càng biến đổi và mỗi lúc lại hoàn
thiện hơn. Sự thay đổi đó chính là do nhận thức của khách hàng về sản phẩm, dịch
vụ cũng như nhận thức của họ giữa sản phẩm dịch vụ và môi trường xã hội. Khi xã
hội tiến bộ, thu nhập của mọi người nâng cao thì tất nhiên khách hàng không chỉ
chú ý tới sản phẩm thuần tuý mà còn đặt độ hữu ích của sản phẩm với môi trường
xung quanh.
Marketing với nhiệm vụ rất quan trọng là làm sao phải hiểu rõ sự biến đổi đó
để một mặt thích nghi với thị trường biến động giúp doanh nghiệp có những ứng
phó kịp thời, mặt khác cũng phải có những tác động để hướng khách hàng vào với
sản phẩm, với doanh nghiệp.
-Thị trường


9
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Thị trường ở đây không chỉ là khách hàng mà còn lẫn vào đó là những khu
vực địa lý, phạm vi không gian. Việc nghiên cứu thị trường có tầm quan trọng, nó
giúp cho doanh nghiệp có thể xác định rõ cách thức vận chuyển, phân bố kênh phân
phối và định vị doanh nghiệp của mình sao cho đạt hiệu quả cao nhất.
-Sản phẩm
Sản phẩm là tất cả những gì doanh nghiệp có. Sản phẩm được coi là đứa con
của mọi doanh nghiệp, đứa con đó khác với mọi thứ khác nó luôn biến đổi, cần
được cải tiến, hoàn thiện, đổi mới và có khi đứa con đó sẽ không xuất hiện sau một
thời gian ra đời. Và thay vào đó là một sản phẩm mới, với chu kỳ mới và nhiều đặc
tính mới...
Doanh nghiệp ngày nay luôn biết tạo ra những sản phẩm làm cho khách hàng
chú ý và có những quyết định mua, tiêu dùng. Sản phẩm cũng ngày càng đa dang
và phong phú từ chất lượng, công dụng đến mẫu mã, kiểu dáng, mầu sắc. Tất cả
những điều đó làm cho mỗi doanh nghiệp cần phải nghiên cứu, tìm tòi để cho ra
đời sản phẩm của mình.
Để làm được điều đó không ai khác chính là hoạt động Marketing. Markeitng
giúp doanh nghiệp tìm ra sản phẩm mới, phát hiện chu kỳ của sản phẩm để có
những chiến lược phù hợp cho doanh nghiệp.
b)Trao đổi thông tin và thực hiện các mục tiêu của doanh nghiệp
-Với các bộ phận chức năng khác của doanh nghiệp
Marketing phản ánh một chức năng cơ bản của doanh nghiệp, giống như
chức năng sản xuất, tài chính, quản trị nhân lực, kế toán...tất cả các chức năng này
đều là những bộ phận tất yếu về mặt tổ chức của công ty. Nhưng khác với các chức
năng khác Marketing có nhiệm vụ là tạo ra khách hàng và tìm kiếm thị trường cho
doanh nghiệp.
Marketing với các bộ phận khác có quan hệ hữu cơ, chặt chẽ nhau trong tổ
chức quản lý. Nhất là trong cơ chế thị trường thì quan hệ đó đã bị hoạt động


10
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
marketing chi phối và các hoạt động khác phải phục tùng vì mục tiêu chung của
doanh nghiệp.
-Với cơ quan quản trị cấp cao
Đối với cơ quan quản trị cấp cao chính là những người định hướng cho
doanh nghiệp đi đâu và về đâu. Với họ, mục tiêu của doanh nghiệp có thể là thị
phần, khác biệt hoá, lợi nhuận, uy tín...và để thực hiện tốt những mục tiêu này, họ
cần tìm hiểu, nắm rõ thị trường và khách hàng cũng như tất cả mọi thứ khác.
Marketing có nhiệm vụ thực hiện tất những điều đó trong chiến lược marketing, kế
hoạch marketing và các hoạt động tác nghiệp của marketing.
Mỗi mục tiêu đề ra như lợi nhuận, thị phần, sản phẩm hay các mục tiêu
khác...hoạt động marketing lại có những biện pháp marketing để thực hiện, hành
động. Chẳng hạn với mục tiêu là thị phần thì marketing sẽ dùng biện pháp
marketing giá để chiếm thị phần...
3. Mối quan hệ giữa doanh nghiệp, Marketing và Thị trường
-Quan hệ marketing với doanh nghiệp qua các bộ phận chức năng khác.
+ Chức năng sản xuất: Sản xuất cái gì, bao nhiêu là phụ thuộc vào thị
trường. Doanh nghiệp không thể sản xuất tất mọi thứ mà chỉ sản xuất những thứ
nằm trong mục tiêu của doanh nghiệp. Marketing lại nghiên cứu thị trường, tìm ra
nhu cầu của thị trường và hai bên sẽ cân đối, trao đổi để đem lại hiệu quả cao cho
daonh nghiệp.
+ Tài chính: Với mỗi doanh nghiệp tài chính là vấn đề sống còn, mọi hoạt
động trong đó có marketing chỉ thực hiện được khi có tài chính. Marketing phụ
thuộc vào tài chính và ngược lại tài chính sẽ chịu ảnh hưởng của marketing nếu
doanh nghiệp muốn thực hiện tốt nhiệu vụ kinh doanh của mình.
+Nhân sự: Một kế hoạch hoạt động marketing thực hiện tốt hay không, hiệu
quả hày không hiệu quả là nhờ vào nhận sự, con người để thực hiện nó. Chính vì
vậy marketing cần xem xét làm sao đạt hiệu quả cao nhất.


11

×