Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Nguồn vốn của doanh nghiệp-Giảỉ pháp nào để hỗ trợ doanh nghiệp trong quá trình hội nhập WTO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.07 KB, 31 trang )

LỜI MỞ ĐẦU

Từ sau Đại hội đảng VI của Đảng cộng sản Việt Nam, Việt Nam đã
chuyển từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà
nước. Đây là cơ hội cho các doanh nghiệp nhằm vươn lên tầm châu lục và
quốc tế, qua đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao vị thế của Việt Nam
trên trường quốc tế.
Ngày 7/11/2006 vừa qua, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên
của tổ chức thương mại lớn nhất thế giới WTO. Đây là cơ hội vàng cho
doanh nghiệp Việt Nam hội nhập và phát triển. Tuy nhiên để có thể cạnh
tranh và đứng vững trong WTO, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải giành
thế chủ động trong quá trình hội nhập quốc tế. Một trong những vấn đề nan
giải của các doanh nghiệp là vấn đề về vốn và các chính sách của nhà nước.
Nhận thấy đây là vấn đề quan trọng, em quyết định chọn đề tài “Nguồn vốn
của doanh nghiệp-Giảỉ pháp nào để hỗ trợ doanh nghiệp trong quá
trình hội nhập WTO”. Với khả năng còn hạn chế, đề tài này không tránh
khỏi những khiếm khuyết, em rất mong được sự đóng góp ý kiến của các
thầy cơ giáo để đề tài hoàn thiện hơn. Em cũng chân thành cảm ơn Th.S
Phạm Hồng Vân và giảng viên Nguyễn Tất Thắng đã tận tình hướng dẫn em
là đề án này.

1


Kết cấu của đề án.
Phần I: Lời mở đầu
Phần II: Nội dung
Chương I: Các phương thức huy động vốn của doanh nghiệp.
Chương II: Thực trạng huy động vốn và sử dụng nguồn vốn của doanh
nghiệp.
Chương III: Một số giải pháp nhằm hỗ trợ vốn cho doanh nghiệp.


Chương IV: Một số chính sách của nhà nước nhằm hỗ trợ doanh nghiệp
sau khi Việt Nam gia nhập WTO.
Phần III: Kết luận

2


CHƯƠNG I.CÁC PHƯƠNG THỨC HUY ĐỘNG VỐN
CỦA DOANH NGHIỆP.
1.Khái niệm.
Vốn là gì? Quan điểm chung nhất cho rằng vốn của một doanh nghiệp là
“các nguồn lực được các doanh nghiệp sở hữu hoặc kiểm sốt và có thể sử
dụng để mang lại lợi ích cho doanh nghiệp trong q trình sản xuất kinh
doanh”. Như vậy vốn của doanh nghiệp có thể bao gồm vốn tài chính, vốn
con người, vốn cơng nghệ... Nếu ví doanh nghiệp như một cơ thể sống thì
vốn chính là máu của doanh nghiệp. Vốn cung cấp các “dưỡng chất” để một
doanh nghiệp tồn tại và phát triển.
2.Các phương thức huy động vốn của doanh nghiệp.
2.1.Nguồn vốn tự có của chủ doanh nghiệp.
Khi doanh nghiệp được thành lập bao giờ chủ doanh nghiệp cũng phải
đầu tư một số vốn nhất định. Đối với doanh nghiệp nhà nước, nguồn vốn tự
có ban đầu chính là vốn đầu tư của ngân sách nhà nước. Trong công ty tư
nhân, chủ doanh nghiệp phải có đủ số vốn pháp định cần thiết để đăng ký
thành lập doanh nghiệp. Vốn pháp định là mức vốn tối thiểu phải có theo
quy định của pháp luật để thành lập doanh nghiệp.

3


Cịn đối với cơng ty cổ phần, nguồn vốn do các cổ đơng đóng góp là yếu

tố quyết định để hình thành cơng ty. Mỗi cổ đơng là một chủ sở hữu của
công ty và chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trên giá trị cổ phần mà họ nắm giữ.
Tuy nhiên, các cơng ty cổ phần cũng có một số hình thức khác nhau, do đó
cách thức huy động vốn cổ phần cũng khác nhau.
Trên thực tế, vốn tự có của chủ doanh nghiệp thường lớn hơn nhiều so
với vốn pháp định, nhất là sau một thời gian hoạt động và mở rộng kinh
doanh.
2.2.Vốn tín dụng ngân hàng và tín dụng thương mại.
Có thể nói rằng nguồn vốn vay ngân hàng là một trong những nguồn vốn
quan trọng nhất, không chỉ đối với sự phát triển của bản thân các doanh
nghiệp mà cịn đối với tồn bộ nền kinh tế quốc dân. Sự hoạt động và phát
triển của các công ty, các doanh nghiệp đều gắn liền với các dịch vụ tài
chính do các ngân hàng thương mại cung cấp, trong đó có việc cung ứng các
nguồn vốn tín dụng. Bên cạnh đó, khơng một cơng ty nào có thể hoạt động
tốt mà khơng vay vốn ngân hàng hoặc tín dụng thương mại. Trong quá trình
hoạt động, các doanh nghiệp thường vay ngân hàng để đảm bảo nguồn tài
chính cho các hoạt đông sản xuất kinh doanh, đặc biệt là đảm bảo đủ vốn
cho các dự án mở rộng hoặc đầu tư chiều sauu của doanh nghiệp.Về mặt thời
hạn, vốn vay ngân hàng có thể được phân loại theo thời hạn vay, bao gồm:
vay dài hạn(từ 5 năm trở lên), vay trung hạn(từ 1 đến 5 năm), vay ngắn
hạn(dưới 1 năm).

4


Bên cạnh những ưu điểm trên, nguồn vốn này cũng có những hạn chế
nhất định. Đó là các hạn chế về điều kiện tín dụng, kiểm sốt của ngân hàng
và chi phí sử dụng vốn
Điều kiện tín dụng: Các ngân hàng thương mại khi cho doanh nghiệp
vay vốn luôn luôn phải đảm bảo an tồn tín dụng, hạn chế rủi ro tín dụng

thơng qua một hệ thống các biện pháp bảo đảm tín dụng. Trước tiên, ngân
hàng phải phân tích hồ sơ xin vay vốn, đánh giá các thông tin liên quan đến
dự án đầu tư hoặc kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vay vốn.
Doanh nghiệp phải cung cấp những báo cáo tài chính và những thơng tin cần
thiết cho ngân hàng.
Các điều kiện đảm bảo tiền vay: Khi doanh nghiệp xin vay vốn, nói
chung các ngân hàng thường yêu cầu doanh nghiệp đi vay phải có các bảo
đảm tín dụng, phổ biến nhất là bằng tài sản thế chấp. Việc yêu cầu người vay
có tài sản thế chấp trong nhiều trường hợp làm cho bên đi vay không thể
đáp ứng được các điều kiện vay, kể cả những thủ tục pháp lý về giấy tờ... do
đó, doanh nghiệp cần tính đến yếu tố này khi tiếp cận nguồn vốn tín dụng
ngân hàng.
Sự kiểm sốt của ngân hàng cho vay: Một khi doanh nghiệp vay vốn
ngan hàng thì doanh nghiệp cũng phải chịu sự kểm sốt của ngân hàng về
mục đích và tình hình sử dụnh vốn vay. Nói chung, sự kiểm sốt khơng gây
ra vấn đề quá lớn cho doanh nghiệp, tuy nhiên trong một số trường hợp điều
đó cũng làm cho doanh nghiệp có cảm giác bị kiểm soát.
Lãi suất vay vốn: Lãi suất vay vốn phản ánh chi phí sử dụng vốn. Lãi
suất vốn tín dụng ngân hàng phụ thuộc vào tình hình tín dụng trên thị trường

5


trong từng thời kỳ. Nếu lãi suất vay quá cao thì doanh nghiệp phai chịu chi
phí sử dụng vốn q lớn và làm giảm thu nhập của doanh nghiệp.
Ngoài việc vay vốn từ ngân hàng, doanh nghiệp cịn có thể khai thác vốn
tín dụng thương mại. Nguồn vốn này hình thành một cách tự nhiên trong
quan hệ mua bán chịu, mua bán trả chậm hay trả góp. Nguồn vốn tín dụng
thương mại có ảnh hưởng hết sức to lớn khơng chỉ với các doanh nghiệp mà
cịn với cả tồn bộ nền kinh tế. nguồn vốn tín dụng thương mại là một

phương thức tài trợ rẻ, tiện dụng và linh hoạt trong kinh doanh, mặt khác nó
cịn tạo khả năng mở rộng các quan hệ hợp tác kinh doanh một cách lâu bền.
Các điều kiện ràng buọc cụ thể có thể được ấn định khi hai bên ký hợp đồng
mua bán hay hợp đồng kinh tế nói chung. Tuy nhiên doanh nghiệp cũng cần
để ý tới tính chất rủi ro của quan hệ tín dụng thương mại khi quy mơ tài trợ
vượt q giới hạn an tồn. Chi phí của việc sử dụng nguồn vốn tín dụng thể
hiện qua lãi suất của khoản vay, đó là chi phí lãi vay. Nó sẽ được tính váo
giá thành sản phẩm hay dịch vụ. Khi mua hàng hố trả chậm, chi phí này có
thể ẩn dưới hình thức thay đổi mức giá tuỳ thuộc quan hệ thoả thuận giữa
các bên.
2.3.Nguồn vốn phát hành cổ phiếu.
Phát hành cổ phiếu là một kênh rất quan trọng để huy động vốn dài hàn
cho công ty một cách rộng rãi thông qua mối liên hệ với thị trường chứng
khốn. Trong các nước cơng nghiệp phát triển, thị trường chứng khốn là
nơi hội tụ những hoạt động tài chính sôi động nhất của nền kinh tế. Để nắm
rõ những khía cạnh chủ yếu của việc phát hành cổ phiếu, cần hiểu rõ đặc
điểm của các loại cổ phiếu khác nhau.

6


2.3.1.Cổ phiếu thường.
Cổ phiếu thường là loại cổ phiếu thông dụng nhất vì các ưu điểm của nó
đáp ứng được yêu cầu của cả người đầu tư và công ty phát hành. Lượng cổ
phiếu tối đa mà công ty được cơ quan quản lý nhà nước cho phps phát hành
gọi là vốn cổ phần được phép phát hnàh. Lượng cổ phiếu đó phụ thuộc vào
quy định của uỷ ban chứng khốn nhà nước và các cơ quan có thẩm quyền.
Con số này cũng được hi trong điều lệ của công ty. Muốn tăng vốn cổ phần
cần phải được đại hội cổ đông cho phép. Tuy nhiên trên thực tế, việc quản lý
và kiểm sốt q trình phát hành chứng khốn tuỳ thuộc vào chính sách cụ

thể của nhà nước và uỷ ban chứng khoán nhà nước.
Phần lớn những cổ phiếu đã phát hành nằm trong tay những nhà đầu tư.
Những cổ phiếu này được coi là đang lưu hành trên thị trường. Tuy nhiên, có
thể chính cơng ty phát hành mua lại một số cổ phiếu của mình và giữ nó
nhằm mục đích nhất định. Những cổ phiếu đó được coi như không lưu hành.
Việc mua lại hoặc bán ra những cổ phiếu nàyphụ thuộc và một số yếu tố
như: tình hình cân đối vốn và khả năng đầu tư, chính sách đối với việc sát
nhập hoặc thơn tính, tình hình trên thị trường chứng khốn.
Mệnh giá và thị giá cổ phiếu
Trên thực tế, khái niệm mệnh giá và thị giá được sử dụng không chỉ đối
với cổ phiếu mà đối với cả các cơng cụ tài chính khac như trái phiều, thương
phiếu. Giá trị ghi trên mặt cổ phiếu gọi là mệnh giá, giá cả của cổ phiếu trên
thị trường gọi là thị giá. Trị giá của cổ phiếu được phản ánh trong sổ sách kế
tốn của cơng ty gọi là giá trị ghi sổ của cổ phiếu. Mệnh giá khơng chỉ được
ghi trên mặt cổ phiếu mà cịn được ghi rõ trong giấy phép phát hành và trên

7


sổ sách kế tốn của cơng ty. Tuy nhiên, mệnh giá chỉ có ý nghĩa khi phát
hành cổ phiếu và đối với khoảng thời gian ngắn sau khi cổ phiếu được phát
hành. Cũng giống như các hàng hoá khác, cổ phiếu là một hàng hố nên thị
giá của nó phản ánh quan hệ cung cầu trên thị trường đối với cổ phiếu đó,
phản ánh lịng tin của nhà đầu tư đối với hoạt động của công ty.
Quyền hạn của cổ đơng.
Các cổ đơng nắm giữ số cổ phiếu thường chính là những người sở hữu
cơng ty, do đó họ có quyền trước hết đối với tài sản và sự phân chia tài sản
hoặc thu nhập của công ty. Hàng năm cơng ty cổ phần tổ chức cuộc họp
chính thức gọi là đại hội cổ đơng. Cổ đơng có quyền tham gia kiểm sốt và
theo dõi quản lý các cơng việc của công ty thông qua cơ chế đại diện và biểu

quyết. Tuy nhiên, thơng thường có một số lượng lớn cổ đơng của cơng ty,
nên mỗi cổ đơng chỉ có một quyền lục giới hạn trong việc bỏ phiếu hoặc chỉ
định thành viên ban giảm đốc.
2.3.2.Cổ phiếu ưu đãi.
Thông thường cổ phiếu ưu đãi chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng số
cổ phiếu được phát hành. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, việc dùng cổ
phiếu ưu tiên là thích hợp. Cổ phiếu ưu đãi có đặc điểm là có mức cổ tực cố
định. Người chủ của cổ phiếu này có quyền được nhận tiền lãi trước các cổ
đơng thường. Nếu số lãi chỉ đủ trả cổ tức cho các cổ đơng ưu tiên thì các cổ
đơng thường sẽ khơng nhận được cổ tức của kỳ đó. Việc giả quyết chính
sách cổ tức được nêu rõ trong điều lệ công ty. Một vấn đề quan trong càn đề
cập khi phát hành cổ phiếu ưu đãi là thuế. Khác với chi phí lãi vay được
giảm trừ khi tính thuế thu nhập công ty, cổ tức lấy được từ lợi nhuận sau

8


thuế. Đó là hạn chế của cổ phiếu ưu đãi. Mặc dù vậy, cổ phiếu vẫn có những
ưu điểm đối với cả công ty phát hành và nhà đầu tư.
2.4.Phát hành trái phiếu công ty.
Một trong những vấn đề cần xem xét trước khi phát hành là lựa chọn loại
trái phiếu nào phù hợp nhất với điều kiện công ty và tình hình trên thị trường
tài chính. Việc lựa chọn trái phiéu thích hợp là rất quan trọng vì có liên quan
đến chi phí trả lãi, cách thức trả lãi, khả năng lưu hành và tính hấp dẫn của
trái phiếu. Trước khi quyết định phát hành, cần hiểu rõ đặc điểm và ưu
nhược điểm của mỗi loại trái phiếu. Trên thị trường tài chính ở nhiều nước,
hiện nay thường lưu hành những loại trái phiếu cơng ty sau:
2.4.1.Trái phiếu có lãi suất cố định.
Loại trái phiếu này được sử dụng phổ biến, cho nên khi mói đến trái
phiếu cơng ty người ta thường hay nhắc đến lãi suất cố định. Lãi suất được

ghi ngay trên mặt trái phiếu và không thay đổi trong suốt kỳ hạn của nó.
Như vậy, cả công ty và người sở hữu trái phiếu đều biết rõ mức lãi suất của
khoản nợ trong suốt thời gian tồn tại của trái phiếu. Việc thanh toán lãi trái
phiếu cũng thường được quy định rõ.
Để huy động vốn trên thị trường bằng trái phiếu, phải tính đến mức độ
hấp dẫn của trai phiếu. Tính hấp dẫn của trái phiếu phụ thuộc vào các yếu tố
sau:
Lãi suất của trái phiếu:Đương nhiên, người đầu tư muốn được hưởng
mức lãi suất cao nhưng công ty phát hành phải cân nhắc lãi suất có thể chấp
nhận được đối với trái phiếu của họ chứ không thể trả thật cao cho nhà đầu

9


tư. Lãi suất của trái phiếu phải được đặt ra trong mối tương quan so sánh với
lãi suất trên thị trường vốn, đặc biệt phải tính đến sự cạnh tranh của trái
phiếu các công ty khác. Tuy nhiên công ty cũng phải tính tới khả năng xem
mình có gánh được chi phí lãi vay này hay khơng rồi mới quyết định được
lãi suất của trái phiếu. Trong một số trường hợp, việc đưa thêm một số yếu
tố khuyến khích vào trái phiếu thì có thể khơng cần nâng cao mức lãi suất.
Kỳ hạn của trái phiếu: Đây cũng là một yếu tố quan trong khi cân nhắc
phát hành trái phiếu cơng ty.
Uy tín của cơng ty cũng có ảnh hưởng đến việc phát hành trái phiếu.
Mức độ thuận lợi và tính hấp dẫn của tría phiếu cơng ty ln ln phụ thuộc
vào uy tín cơng ty, nhất là độ tin cậy về tài chính.
Trong viẹc phát hành trái phiếu cơng ty cũng cần chú ý đến mệnh giá
của trái phiếu. Mệnh giá cao quá làm nhà đầu tư không đủ khả năng tài
chính để mua trái phiếu, mệnh giá thấp quá sẽ không huy động được tối đa
nguồn vốn nhàn rỗi. Một trái phiếu có mệnh giá vừa phải làm nhiều người
có thể mua được, tạo sự lưu thơng đẽ dàng cho trái phiếu trên thị trường.

2.4.2.Trái phiếu có lãi suất thay đổi.
Trái phiếu có lãi suất thay đổi nhưng trên thực tế loại này có lãi suất phụ
thuộc vào một số yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến lãi suất trên thị trường
quốc tế, chẳng hạn như lãi suất LIRBOR (Longdon Interbank Offered Rate)
hoặc lãi suất cơ bản do ngân hàng Trung ương quy định. Tuy vậy, trái phiếu
có lãi suấ thay đổi không phải là loại phổ biến đối với trái phiếu. Trong điều
kiện có mức lạm phát cao và lãi suất thị trường khơng ổn định thì có thể khai

10


thác tính ưu việt của loại trái phiếu này. Tuy nhiên loại trái phiếu này cũng
có một số nhược điểm.
Thứ nhất, cơng ty khơng thể biết chắc về chi phí lãi vay của trái phiếu,
điều này gây khó khăn một phần cho việc lập kế hoạch tài chính.
Thứ hai, việc quản lý trái phiếu đòi hỏi tốn nhiều thời gian hơn do phải
theo dõi và thông báo các lần điều chỉnh lãi suất cho người mua trái phiếu.
2.4.3.Trái phiếu có thể thu hồi.
Một số công ty lựa chọn cách phát hành trái phiếu có thể thu hồi, tức là
cơng ty có thể mua lại và một thời gian nào đó. Trái phiếu như vậy phải
được quy định ngay khi phát hành để người mau được biết. Phải quy định rõ
vè thời gian và giá cả khi công ty chuộc lại trái phiếu. Thông thường người
ta quy định thời hạn tối thiểu mà trái phiếu sẽ không bị thu hồi. Loại trái
phiếu này có ưu điểm là: thứ nhất, có thể sử dụng như một cách điều chỉnh
lượng vốn sử dụng. Khi khơng cần thiết, cơng ty có thể mau lại trái phiếu,
tức là giảm số vốn vay. Thứ hai, công ty có thể thay trái phiếu loại này bừng
một nguồn tài chính khác bằng cách mua lại các trái phiếu đó. Tuy nhiên,
nếu khơng có tính hấp dẫn nào đó thì trái phiếu này khơng được ưa thích.
2.5.Nguồn vốn nội bộ.
Tự tài trợ bằng nguồn vốn nội bộ là một con đường tố vì cơng ty phát

huy được nguồn lực của chính mình, giảm bớt sự phụ thuộc vào bên ngồi.
Rất nhiều cơng ty coi trọng chính sách tái đầu tư từ số lợi nhuận để lại, họ
đặt ra mục tiêu phải có một khối lượng lợi nhuận để lại đủ lớn nhằm tự đáp
ứng nhu cầu vốn ngày càng tăng. Tuy nhiên, đối với các công ty cổ phần thì

11


việc lợi nhuận có liên quan đến một số tất yếu nhạy cảm. Khi công ty để lại
một phần lợi nhuận trong năm cho tái đầu tư, tức là không dùng số lợi nhuận
đó để chia cổ phần. Các cổ đơng khơng được nhận cổ tức nhưng bù lại, họ
có quyền sở hữu số vốn cổ phần tăng lên của công ty.

CHƯƠNG II.THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN VÀ SỬ
DỤNG NGUỒN VỐN CỦA CÁC DOANH NGHIỆP
1.Những khó khăn chung của các doanh nghiệp trong việc huy động
vốn.
Một thực tế đáng buồn của nhiều doanh nghiệp Việt Nam hiện nay là sức
cạnh tranh kém do công nghệ sản xuất lạc hậu. Nguyên nhân sâu xa của tình
trạng này là nguồn vốn tự có của các doanh nghiệp cịn hạn hẹp, trong khi
nhiều cơng cụ và hình thức huy động vốn trong nền kinh tế thị trường chưa
được doanh nghiệp sử dụng triệt để và hiệu quả.

12


Hiện nay, vốn của các doanh nghiệp còn rất thấp, ngoài nguyên nhân
tiềm lực của các nhà đầu tư chưa mạnh, cịn có ngun nhân là thi trường
vốn chưa hồn chỉnh, chưa đủ sức đáp ứng nhu cầu vốn cho doanh nghiệp.
Trong khi nguồn vốn cịn hạn chế thì các giải pháp nhằm huy động vốn cịn

gặp khơng ít khó khăn. Về lý thuyết cũng như trên thực tế, vốn cho các dự
án đầu tư đổi mới công nghệ hay các dự án đầu tư nói chung được các doanh
nghiệp huy động từ các nguồn sau: Vốn tự có của doanh nghiệp và phần lợi
nhuận để lại cộng dồn cua doanh nghiệp, vốn được cấp từ ngân sách (đối với
doanh nghiệp nhà nước), vốn huy động qua phát hành chứng khoán (cổ
phiếu, trái phiếu) doanh nghiệp, vốn vay từ các ngân hàng thương mại, tín
dụng thuê mua...
1.1.Về nguồn vốn tự có của doanh nghiệp.
Vốn tự có thực chất là phần lợi nhuận cộng dồn để lại doanh nghiệp,
song do Việt Nam bắt đầu công cuộc phục hồi và phát triển kinh tế từ một
xuất phát điểm rất thấp về mặt cơng nghệ, máy móc thiết bị của nhiều ngành
cơng nghiệp lạc hậu từ 2 đến 3 thế hệ so với các nước phát triển nên điều đó
đã hạn chế rất nhiều đến việc nâng cao chất lượng sản phẩm, đây là nguyên
nhân chính dẫn đến lợi nhuận của các doanh nghiệp khơng được cao. Trong
điều kiện thị trường tài chính phát triển chưa đầy đủ và hoạt động một cách
hiệu quả thì nguồn vốn tự có của doanh nghiệp là nguồn vốn tương đối quan
trọng đối với doanh nghiệp trong việc mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ,
nâng cao sức cạnh tranh. Tuy nhiên do lợi nhuận không cao, bên cạnh đó
thuế thu nhập doanh nghiệp cịn cao làm cho nguồn vốn này vẫn cịn hạn
chế, khơng thể đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp trong việc mở rộng sản
xuất, đổi mới công nghệ.

13


1.2.Nguồn vốn vay từ các ngân hàng.
Đây là phương thức huy động nguồn vốn dài hạn được các doanh nghiệp
Việt Nam áp dụng phổ biến nhất từ trước đến nay. Tuy nhiên khơng phải bất
cứ doanh nghiệp nào cũng có thể tiếp cận được với nguồn vốn này và khả
năng nguồn vay cũng có những giới hạn nhất định so với quy mô hiện tại

của doanh nghiệp. Theo một điều tra của Phịng thương mại và cơng nghiệp
Việt Nam (VCCI), tỷ suất nợ trên tổng tài sản của doanh nghiệp, đặc biệt là
của các doanh nghiệp vừa và nhỏ lại rất khiêm tốn (trung bình khoảng 8%).
Cũng chỉ một nửa số doanh nghiệp vừa và nhỏ được điều tra là có vay nợ,
hầu hết là nợ ngắn hạn và vay từ nhiều nguồn khác nhau. Điều tra cũng cho
thấy, có rất ít doanh nghiệp thành cơng trong việc tiếp cận nguồn vốn chính
thức. Một nghiên cứu của tổ chức lao động quốc tế (ILO) về việc cho doanh
nghiệp vừa và nhỏ vay tại các ngân hàng thương mại Việt Nam cho thấy,
cản trở lớn nhất là ngân hàng khơng có đủ thơng tin tin cậy về người vay và
khơng có khả năng thu hồi các khoản nợ xấu do hệ thống chế tài chưa hồn
thiện. Đơi khi các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng tiếp cận được với nguồn
vốn tín dụng ngân hàng nhưng chỉ có thể là nguồn tín dụng ngắn hạn. Có 2/3
số giám đốc cho rằng họ cần những khoản tín dụng dài hạn để đầu tư máy
móc, thiết bị mới và nâng cấp nhà xưởng, nhưng nhu cầu này là rất khó được
đáp ứng, gần như là khơng thể và trong số các khoản vay tín dụng, các
khoản vay ngắn hạn chiếm khoảng 80% trong tổng số các khoản vay được
duyệt của ngân hàng thương mại. Mặt khác, hiện nay lãi suất vay vốn ngân
hàng đang ở mức rất cao. Lãi suất huy động cao nhất thuộc về các quỹ tín
dụng nhân dan cơ sở, lên tới 0,9%/tháng, một số ngân hàng thương mại cổ
phần có lãi suất cao nhất là 0,82 – 0,83%/tháng. Một số ngân hàng thương
mại nhà nước có lãi suất cao nhất là 0,77%/tháng.

14


1.3.Phát hành chứng khốn.
Doanh nghiệp có thể phát hành trái phiếu hoặc cổ phiếu để huy động vốn
cho dự án đầu tư, đổi mới cơng nghệ sản xuất. Khi đó chi phí vốn vay hay
lãi suất phải trả sẽ do thị trường tài chính xác định. Thị trường tài chính hoạt
động càng có hiệu quả thì chi phí vốn càng phản ánh đúng bản chất rủi ro

của đầu tư. Tuy nhiên theo nhận định của Nguyên thủ tướng Phan Văn Khái
thì “Thị trường vốn nước ta vẫn chưa phát triển”. Cũng theo ơng Phạm Phan
Dũng, Vụ trưởng vụ Tài chính-Ngân hàng (Bộ tài chính) đưa ra nhận xét,
hiện nay, thị trường trái phiếu nước ta hiện nay chưa phát triển.
Theo số liệu của Bộ tài chính, tính đến 8/6/2006, tổng số vốn các doanh
nghiệp huy động trên thị trường thông qua phát hành trái phiếu chỉ khoảng
5400 tỷ đồng, quá nhỏ so với nhu cầu. Theo ơng Dũng, “Để có vốn đầu tư
cho hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp phải dựa vào nguồn vốn
vay ngân hàng. Điều này dẫn đến tình trạng nhiều dự án gặp khó khăn trong
việc sắp xếp, bố trí các nguồn vốn trung và dài hạn, rủi ro trong hoạt động
tín dụng của hệ thống ngân hàng gia tăng.”
Thị trường trái phiếu doanh nghiệp chưa phát triển, theo ông Dũng, một
phần do các doanh nghiệp vẫn cịn thói quen vay vốn tự ngân hàng hoặc tìm
kiếm nguồn vốn vay tín dụng ưu đãi của nhà nước hơn là tự huy động trên
thị trường, phần khác là do khung pháp lý quản lý phát hành trái phiếu chưa
hoàn thiện, chưa tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp huy động vốn. Cụ
thể Nghị định 120/1994/NĐ-CP ban hành Quy chế tạm thời về việc phát
hành cổ phiếu, trái phiếu của doanh nghiệp nhà nước đã bộc lộ nhiều hạn
chế, như phương thức phát hành trái phiếu chưa phù hợp với thông lệ chung
của thị trường trái phiếu (chưa quy định việc phát hành theo phương thức
15


đấu thầu và bảo lãnh phát hành, chưa gắn việc phát hành với niêm yết và
giao dịch trên thị trường chứng khốn tập trung), chưa đảm bảo ngun tắc
cơng khai, minh bạch về thông tin khi phát hành trái phiếu doanh nghiệp.
Ngồi ra, Nghị định này cịn đưa ra những quy định về điều hành lãi suất
cịn mang nặng tính hành chính, làm giảm tính chủ động của doanh nghiệp
và chưa thực sự gắn với thị trường. Điều kiện phát hành q chặt chẽ, khơng
thực sự khuyến khích doanh nghiệp thực hiện huy động vốn trên thị trường,

như phải có lãi 3 năm trước khi phát hành, trái phiếu phải có tổ chức bảo
lãnh thanh tốn. Kết quả là từ năm 1994 đến nay, chỉ có khoảng 10 doanh
nghiệp phát hành trái phiếu huy động vốn.
Mặc dù năm 2003, chính phủ đã ban hành Nghị định 144/2003/NĐ-CP
về chứng khoán và thị trường chứng khốn, trong đó điều chỉnh sâu hơn về
việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp ra công chúng, nhưng theo ơng
Dũng, nghị định này vẫn cịn một số hạn chế. Nghị định đặt ra yêu cầu của
thị trường chứng khoán khi doanh nghiệp phát hành trái phiếu ra cơng chúng
như điều kiện tài chính của tổ chức phát hành, cơng bố thơng tin... Trong khi
dó, về phương diện doanh nghiệp, Luật doanh nghiệp chưa có hướng dẫn về
vấn đề này, dẫn đến các doanh nghiệp thường rất lúng túng trong quá trình
chuẩn bị và thực hiện phát hành trái phiếu huy động vốn. Phạm vi điều chính
của nghị định chỉ quy định việc phát hành trái phiếu ra cơng chúng (có từ
trên 50 nhà đầu tư tham gia, có bảo lãnh phát hành). Như vậy tồn bộ hoạt
động phát hành trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ (cho dưới 50 nhà đầu tư)
của các công ty cổ phần, công ty TNHH, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngồi chưa có khung pháp lý điều chỉnh.

16


2.Thực trạng sử dụng nguồn vốn của các doanh nghiệp trong những
năm qua.
Sau một chặng đường dài sắp xếp, đổi mới, đến nay cả nước còn 3000
doanh nghiệp nhà nước các loại, đang nắm giữ 70% tài sản cố định quốc gia,
20% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, gần 50% tổng vốn đầu tư của nhà nước,
70% tổng vốn vay của các ngân hàng nước ngoài và gần 60% tổng lượng
vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại nhà nước... Thế nhưng hàng
năm khối doanh nghiệp nhà nước mới chỉ đóng góp 40% thu nhập trong
GDP cả nước. Về cơ bản, tất cả các doanh nghiệp đều hoạt động trong mơi

trường bình đẳng, cùng chung hành lang pháp lý dần dần phù hợp thông lệ
quốc tế, rõ nhất là luật doanh nghiệp và luật đầu tư. Tuy nhiên do quy mô
khác nhau, năng lực quản trị điều hành, khả năng thích ứng và năng lực cạnh
tranh khác nhau cho nên hiệu quả kinh tế cúng khác nhau. Đầu tư nhiều,
hiệu quả thấp, đó là những gì người ta vẫn thường nói về doanh nghiệp nhà
nước. Theo báo cáo năm 2005 của Kiểm toán nhà nước về quyết toán Ngân
sách niên độ 2004 của 30 tỉnh thành trực thuộc Trung Ương (chiếm 28% về
số thu và 40% về chi ngân sách địa phương), của 11 bộ, cơ quan Trung
Ương (chiếm 22,4% tổng chi ngân sách trung ương, chín dự án, chương
trình trọng điểm, báo cáo tài chính của 19 tổng công ty, doanh nghiệp nhà
nước và tổ chức tài chính ngân hàng và báo cáo của 24 đơn vị trực thuộc
lĩnh vực an ninh, quốc phịng... Kiểm tốn nhà nước đã kiến nghị tăng thu,
giảm chi đưa vào quản lý qua ngân sách 4408 tỷ đồng. Riêng khối doanh
nghiệp nhà nước, báo cáo kiểm toán cũng đã khẳng định hiệu quả kinh
doanh thấp, thậm chí thua lỗ kéo dài. 4/19 (21%) đơn vị được kiểm toán năm
2004 kinh doanh thua lỗ tới 124 tỷ đồng, 11/19 (58%) đơn vị luỹ kế đến
31/12/2004 lên tới 1058 tỷ đồng. Điển hình như tổng công ty dệt may Việt

17


Nam thua lỗ 328 tỷ đồng, tổng công ty giấy gần 200 tỷ đồng, tổng công ty
lương thực miền Nam 183 tỷ đồng. Nhiều doanh nghiệp có số nợ phải thu
khó địi rất lớnmà cho đến nay chưa có giải pháp khắc phục hiệu quả như
tổng công ty lương thực miền namhơn 156 tỷ đồng, tổng công ty chăn nuôi
101 tỷ đồng, tổng công ty xây dựng công nghiệp 46,7 tỷ đồng...
Trong khi đó, vốn đầu tư cho khu vực kinh tế tư nhân chỉ bằng 50% so
với khu vực nhà nước song lại đóng góp tới 40% thu nhập vào GDP cả nước
qua các năm, tức là tương đương với đóng góp của các doanh nghiệp nhà
nước (tham khảo số liệu ở bảng dưới)

Cơ cấu về GDP của Việt Nam theo thành phần kinh tế (đơn vị %)
Khu vực

1995 1997

1999

200

2002

0
Kinh tế nhà nước

40,2

40,4

39,4

39

38,9

Kinh tế tập thể

10,1

8,9


8,6

8,7

8,6

Kinh tế tư nhân

43,4

41,5

40,2

38,5

38,6

Kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi

6,3

9,2

11,8

13,8

13,9


Cơ cấu vốn đầu tư nước ta theo thành phần kinh tế (đơn vị %).
Khu vực

1995 1997 1999 200

2002

0
Kinh tế nhà nước

42

49,4

58,7

58,1

52,3

Kinh tế tư nhân

27,6

22,6

24

23,6


28,9

Kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi

30,4

28

17,3

18,3

18,8

18


Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy khu vực kinh tế nhà nước tuy chiếm tỷ
trọng lớn trong cơ cấu vốn đầu tư nhưng đóng góp vào GDP lại khơng cao
trong khi đó khu vực kinh tế tư nhân lại có vốn đầu tư thấp nhưng ln có
đóng góp vào GDP ngang với khu vực kinh tế nhà nước.

CHƯƠNG III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP HỖ TRỢ VỐN CHO
DOANH NGHIỆP.
1.Đối với doanh nghiệp nhà nước.
Tạo điều kiện và khuyến khích doanh nghiệp phát hành cổ phiếu, trái
phiếu, đẩy mạnh tiến trình cổ phần hố doanh nghiệp nhà nước.

19



Ngoài việc tăng nguồn vốn từ ngân sách nhà nước cho đầu tư phát triển
và đầu tư cho lĩnh vực khoa học công nghệ, để tạo sự chủ động cho các
doanh nghiệp, nhà nước tạo điều kiện khuyến khích các doanh nghiệp huy
động vốn để đầu tư đổi mới công nghệ thơng qua việc phát hành cổ phiếu,
trái phiếu...
Hình thức phát hành trái phiếu, cổ phiếu thực sự thu hút vốn nhàn rỗi
trong dân, giảm khối lượng tiền tệ trong lưu thơng, nhờ đó kiềm chế lạm
phát, ổn định sức mua của đồng tiền, tạo niềm tin của nhân dân và sự quản
lý của nhà nước, vào sự phát triển của nền kinh tế.
Nâng cao hiệu quả vốn vay từ ngân hàng và khuyến khích các ngân hàng
cho vay đổi mới công nghệ doanh nghiệp. Nguồn vốn cho đầu tư phát triển
dài hạn và đổi mới công nghệ của các ngân hàng khá lớn, song các ngân
hàng lại bị giới hạn trong việc cho vay tối đa với 1 khách hàng, 1 dự án.
Chính vì vậy, để doanh nghiệp có thể tiếp cận dễ dàng hơn với nguồn vốn
ngân hàng trong việc đầu tư đổi mới công nghệ, ngân hàng nhà nước cần
xem xét nâng mức giới hạn cho vay tối đa 1 dự án, 1 khách hàng, các ngân
hàng cần có chính sách để thu hút nguồn vốn để nâng cao tỷ trọng cho vay
trung và dài hạn, đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp. Ngồi ra, cần có chính
sách miễn giảm thuế thu nhập đối với phần lợi nhuận của ngân hàng từ các
khoản cho doanh nghiệp vay để mau sắm thiết bị tiên tiến và đổi mới cơng
nghệ.
Phát triển hình thức th mua tài chính.Tại nhiều nước, hoạt động thuê
mua khá phát triển và chiếm tỷ trong lớn trong số vốn đầu tư vào thiết bị,
máy móc. Kinh nghiệm của nhiều nước đã chứng minh rằng, cho th máy
móc và thiết bị thơng qua hình thức th mua đã mở ra một khả năng quan
20


trọng để thu hút những nguồn vốn đầu tư trung và dài hạn bên ngồi. Hình

thức th mua giúp doanh nghiệp tránh được những sai lầm khi tự đi vay và
tự tìm kiếm thiết bị. Vì các cơng ty th mua khơng chỉ thay thế tín dụng
ngân hàng mà cịn cung cấp các dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp mua sắm và
thuê thiết bị như chuyển gia công nghệ, đào tạo cơng nhân kỹ thuật thực
hành, bảo trì, tư vấn, hợp lý hoá sản xuất và hiện đại hoá hệ thống trang thiết
bị hiện đại. Với các thuận lợi trên, tín dụng th mua đang trở thành cơng cụ
đắc lực cho việc đầu tư phát triển dài hạn của doanh nghiệp và cần khuyến
khích, hỗ trợ phát triển.
2.Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Để hỗ trợ các doanh nghiệp ngồi quốc doanh, ngồi việc thực hiện tốt
đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước, đặc biệt thực hiện tốt Nghị
định số 90/2001/NĐ-CP của Chính phủ ngày 23/11/2001 về trọ giúp các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh, cần tiến hành một số giải pháp sau:
-Hệ thống phap luật, đặc biệt là các chính sách tài chính tín dụng và vốn
cần phải được tiếp tục hoàn thiện phù hợp với quá trình chuyển đổi theo cơ
chế thị trường, xây dựng mơi trường kinh doanh thuận lợi, thơng thống cho
tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế nói chung, doanh
nghiệp ngồi quốc doanh nói riêng trong việc tiếp cận nguồn vốn, nguồn tài
trợ, tạo một “sân chơi” bình đẳng về tín dụng ngắn hạn, trung và dài hạn để
các doanh nghiêp thuộc mọi thành phần kinh tế khi có nhu cầu vay đều phải
tuân thủ những quy định công bằng như nhau.
-Cần xây dựng thị trường chứng khoán. Riêng đối với Hà Nội, để có thể
đáp ứng đầy đủ và liên tục nguồn vốn cho các doanh nghiệp thì thị trường

21


chứng khốn phải là một kênh huy đơng vốn trung và dài hạn chủ yếu, quan
trong với một vị trí là trung tâm kinh tế lớn, nơi tập trung hơn 1000 doanh
nghiệp hoạt động theo luật doanh nghiệp với tổng vốn đầu tư phát triển trong

5 năm tới dự báo trong khoảng 13000 tỷ đồng. Do đó Hà Nội rất cần một
kênh huy động vốn qua thị trường chứng khoán. Việc hình thành một thị
trường chứng khốn trên ở Hà Nội sẽ tạo sự đồng bộ cho cả hệ thống tài
chính, ngân hàng, chứng khốn và bảo hiểm để biến Hà Nội thành trung tâm
tài chính của khu vực.
-Ngân hàng cần đổi mới về phương thức kinh doanh, tích cực hơn trong
việc tìm kiếm khả năng cho vay, tăng cường đội ngũ cán bộ cơ sở, xây dựng
và tổ chức tốt mạng lưới thơng tin doanh nghiệp, bình đẳng hơn trong quản
lý tín dụng giữa các loại hình doanh nghiệp, bình đẳng hơn trong quản lý tín
dụng giữa các loại hình doanh nghiệp, đổi mới cơ cấu đầu tư và nâng cao tỷ
trọng cho vay doanh nghiệp nhỏ.
-Ngân hàng cần có biện pháp khuyến khích các doanh nghiệp có uy tín,
đa dạng hố phương thức cho vay. Theo khảo sát của Ngân hàng thế giới và
Cơng ty tài chính quốc tế (IFC) vào cuối năm 2003, trở ngại lớn nhất đối với
sự phát triển, tăng trưởng của các doanh nghiệp Việt Nam chính là tiếp cận
các nguồn vốn, trong lúc nguồn vốn tài trợ cho các doanh nghiệp lại đang rất
dồi dào. Ngồi vốn tín dụng thơng thường, các ngân hàng trong nước hiện
đang được nhiều tổ chức nước ngoài uỷ thác tài trợ choa các doanh nghiệp
vừa và nhỏ vay vốn. Để tiếp cận nguồn vốn này, ngân hàng cần có quy định
thơng thống hơn về tài sản thế chấp vay, vay tín chấp, nâng tỷ lệ cho vay
lên mức hợp lý so với giá trị tài sản thế chấp cũng như giảm bớt thủ tục cho
vay (thủ tục, thời gian làm thủ tục...)

22


-Đa dạng hoá và phối hợp sử dụng linh hoạt các nguồn vốn cho các
doanh nghiệp.
+Các ngân hàng thương mại nhà nước cần mạnh dạn nghiên cứu, tăng
cường cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ vay thương mại thông thường, có

thế chấp hoặc tín chấp. Mở rơng cửa cho các doanh nghiệp và hộ cá thể tiếp
cận kênh cấp vốn vay ưu đãi hoặc được nhận bảo lãnh tín dụng từ nguồn vốn
ưu đãi quốc gia và từng địa phương.
+Phát triển các phương thức khai thác vốn đã rất quen thuộc trên thế giới
như thuê, mua tài chính, phương thức cấp tín dụng,thanh tốn bồi hồn,
phương thức mua bán trả chậm bằng tín dụng xuất khẩu hoặc từ các chủ
hàng khác.
+Xây dựng và mở rộng hoạt động của các quỹ đầu tư rủi ro là phương
thức cấp vốn phát triển của doanh nghiệp sẽ ngày càng có triển vọng ở nước
ta.
+Ngồi ra cần khuyến khích ngân hàng thương mại nhà nước, các quỹ
đầu tư và các công ty đầu tư tài chính tích cực tham gia đầu tư thực hiện các
dự án khả thi do doanh nghiệp đề xuất.
-Nâng cao khả năng thế chấp của doanh nghiệp khi vay vốn từ các tổ
chức tín dụng trên cơ sở đẩy nhanh tốc độ xét cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất và quyền sở hữu nhà ở cho các cá nhân, hộ gia đình, các tổ chức.
-Đối với các doanh nghiệp, cần lập báo cáo tài chính rõ ràng, đủ độ tin
cậy, loại bỏ báo cáo mang tính chất đối phó với cơ quan thuế nhằm đảm bảo
đủ điều kiện vay vốn ngân hàng.

23


-Nhà nước cần khuyến khích thành lập và phát triển các tổ chức tín dụng
dành cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, có những giải pháp hỗ trợ và cơ chế phù
hợp và nâng cao hiệu quả hoạt động của những đơn vị này
Tạo điều kiện mở rơng hình thức cho thuê tài chính đối với các doanh
nghiệp vừa và nhỏ. Hình thức này rất phù hợp với các doanh nghiệp nhỏ vì
nó đáp ứng được nhu cầu đổi mới cơng nghệ, đặc biệt là khi môi trường
cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Mặt khác, với việc vay vốn ngân hàng đang

gặp nhiều khó khăn do doanh nghiệp vừa và nhỏ khơng đủ tài sản thế chấp
thì th tài chính là biện pháp tố nhất cho doanh nghiệp nhằm đạt được mục
tiêu đổi mới công nghệ mà không cần sự chuẩn bị lớn về vốn, bởi khi vay
theo hình thức thơng thường, tài sản doanh nghiệp đem thế chấp thường bị
các ngân hàng định giá thấp, mặt khác doanh nghiệp cũng không được xét
cho vay bằng với giá trị tài sản thế chấp mà tối đa chỉ được 70%, trong khi
đó với phương thức cho th tài chính thì doanh nghiệp có thể được cho vay
với giá trị hợp đồng lớn hơn giá trị tài sản của doanh nghiệp. Mặt khác thời
gian giải quyết các thủ tục cho thuê tài chính chỉ mất vài tuần nên nó giúp
doanh nghiệp nắm bắt được thời co kinh doanh. Bên cạnh đó, doanh nghiệp
vừa và nhỏ còn nhận được các dịch vụ tư vấn hỗ trợ khác từ cơng ty cho thê
tài chính, chẳng hạn kinh nghiệm đàm phán với các nhà cung cấp máy móc,
thiết bị.

CHƯƠNG IV.MỘT SỐ CHÍNH SÁCH CỦA NHÀ NƯỚC
HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP SAU KHI VIỆT NAM GIA
NHẬP WTO.
1.Đối với doanh nghiệp nhà nước.

24


Ngày 7/11/2006, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của WTO,
theo đó doanh nghiệp và người dân có điều kiện tiếp cận lựa chong hàng hoá
phù hợp với nhu cầu, sở thích của mình. Tuy nhiên điều đó cũng đồng nghĩa
với xu hướng sẽ mua hàng hoá nước ngồi nhiều hơn vì lợi thế cạnh tranh
của họ là rất cao, giá rẻ, mẫu mã đa dạng, khuyến mãi thường xuyên. Vậy
doanh nghiệp nhà nước phải làm gì để vững tin bước vào sân chơi chung
WTO kể từ cuối năm 2006 này, để không thua trên sân nhà?
Một là, tiếp tục đẩy nhanh tiến độ sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà

nước, phân loại, cơng khai hố tài chính từng doanh nghiệp, kiên quyết
chuyển đổi hình thức sở hữu, hình thành các tập đồn kinh tế để huy động
nguồn vốn nhàn rỗi đầu tư của toàn xã hội vào kinh doanh. Tất cả mọi doanh
nghiệp đều phải hoạt động theo luật. Chấm dứt tình trạng nhà nước can thiệp
sâu vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Chủ tịch và hội đồng quản
trị trong doanh nghiệp cổ phần phải điều hành theo quy luật kinh tế thị
trường.
Hai là, dành một tỷ lệ thích đáng các nguồn lực tài chính trong và ngồi
nước đầu tư đổi mới thiết bị cơng nghệ tiên tiến, hình thành các dây chuyền
sản xuất cơng nghệ có hàm lượng cơng nghệ cao, phù hợp với với sự phát
triển nhu cầu tiêu dùng của cộng đồng dân cư từng khu vực và trên toàn thế
giới. Gắn kết vói vấn đề này, mỗi doanh nghiệp phải nắm vững, hiểu biết
thấu đáo, cặn kẽ các cam kết và rào cản trong khuôn khổ WTO để đầu tư
cho đúng và theo đó là phịng trành rủi ro và thực hiện đầy đủ. Mỗi doanh
nghiệp xây dựng chiến lược phát triển, lộ trình hội nhập cho mình một cách
an tồn nhất.

25


×