LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm vừa qua, Việt Nam đã có những bước tiến vượt bậc về sự
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Từ tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, đến nay
nước ta đã trở thành một trong những quốc gia có tốc độ tăng trưởng vào loại nhanh
nhất trong khu vực và trên thế giới, được đánh giá cao về thành tích xoá đói giảm
nghèo và phát triển con người, sắp bước sang ngưỡng của nước có thu nhập trung
bình. Để đạt được những thành tựu to lớn đó, Việt Nam đã không ngừng đổi mới thể
chế kinh tế, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
Việc nước ta gia nhập WTO đã tạo ra cơ hội mới, đồng thời cũng đứng trước
những thách thức không nhỏ. Cơ hội mới khi gia nhập WTO do việc cải cách thể chế,
tạo lập môi trường đầu tư và kinh doanh thuận lợi, nâng cao năng lực cạnh tranh tạo
điều kiện mở rộng thị trường xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ, thu hút vốn đầu tư quốc
tế…
Để có sự thay đổi bộ mặt của đất nước như ngày nay, không thể thiếu vai trò
quan trọng của hoạt động đầu tư. Hoạt động đầu tư có tác động tới toàn bộ nền kinh
tế, nó tạo đà cho kinh tế phát triển nhưng đầu tư như thế nào là hợp lí, như thế nào là
hiệu qủa lại là một điều khó.
Trước sự tác động tiêu cực của kinh tế thế giới cùng với những khó khăn nội
tại của nền kinh tế nước ta, cần phải hiểu rõ nguyên nhân gây ra những tác động tiêu
cực ấy. Thực trạng nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn vừa qua gặp rất nhiều khó
khăn. Có ý kiến cho rằng một trong những nguyên nhân là do việc quản lí đầu tư
chưa tốt đã gây ra tình trạng lạm phát cao gây nguy hại cho nền kinh tế. Do đó nhóm
sinh viên chúng tôi quyết định chọn đề tài nghiên cứu : “Mối quan hệ qua lại giữa
đầu tư và lạm phát”.
Do thời gian nghiên cứu và kiến thức của các thành viên trong nhóm là có hạn
nên bài nghiên cứu của chúng tôi còn có những thiếu sót, chúng tôi rất mong nhận
được sự góp ý của các bạn đọc và các thầy cô giáo hướng dẫn để bài viết được hoàn
thiện hơn.
Tập thể nhóm xin chân thành cảm ơn PGS-TS Từ Quang Phương và TS Phạm Văn
Hùng đã giúp đỡ nhóm hoàn thành đề tài này..
Các thành viên của nhóm 10: Lê Thị Thu Hằng
Phan Thị Thùy Linh
Đỗ Thùy Trang
Mai Thị Thu Hiền
Phạm Thị Minh Trang
Lớp chuyên ngành: Kinh tế đầu tư 49B
Chương I: Cơ sở lý luận về mối quan hệ giữa đầu tư và lạm phát
A- Tổng quan về đầu tư và lạm phát
I- Đầu tư
1. Khái niệm
Tùy theo đối tượng, mục đích nghiên cứu,phạm vi nghiên cứu mà có nhiều
khái niệm khác nhau về đầu tư.Tuy nhiên có thể nói đầu tư nói chung là sự hi sinh
các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả
nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt các kết quả đó. Như
vậy mục tiêu của mọi công cuộc đầu tư là đạt được các kết quả lớn hơn so với những
hi sinh về nguồn lực mà người đầu tư phải gánh chịu khi tiến hành đầu tư.
Theo Luật Đầu tư 2005 có hiệu lực thi hành ngày 01 tháng 7 năm 2006 thì:
Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô hình để hình
thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của Luật này và các quy
định khác của pháp luật có liên quan.
Tóm lại Đầu tư là việc sử dụng phối hợp các nguồn lực vào các hoạt động nào
đó nhằm đem lại lợi ích hoặc mục tiêu, mục đích của chủ đầu tư.
2.Phân loại đầu tư
Có nhiều cách để phân loại hoạt động đầu tư tùy theo các tiêu chí khác nhau
như phân loại theo quan hệ quản lý của chủ đầu tư,theo nguồn vốn trên phạm vi quốc
gia hay phân loại theo lĩnh vực hoạt động của các kết quả đầu tư…
Theo mục đích của bài viết chúng ta chia hoạt động đầu tư thành 3 loại: Hoạt
động đầu tư tài chính, hoạt động đầu tư thương mại và hoạt động đầu tư phát triển.
2.1. Hoạt động đầu tư tài chính
• Khái niệm
Đầu tư tài chính là loại hình đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra cho vay
hoặc mua các chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất định trước (gửi tiết kiệm, mua trái
phiếu chính phủ) hoặc hưởng lãi suất tùy vào kết quả sản xuất kinh doanh của công ty
phát hành (mua cổ phiếu, trái phiếu công ty).
• Đặc điểm của đầu tư tài chính
-Là loại hình đầu tư không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế mà chỉ làm tăng
giá trị tài sản tài chính của tổ chức,cá nhân đầu tư.
-Vốn đầu tư bỏ ra được lưu chuyển dễ dàng,khi cần có thể rút ra một cách
nhanh chóng (rút tiết kiệm, chuyển nhượng trái phiếu,cổ phiếu cho người khác)
• Chú ý
Trong quan hệ đầu tư tài chính có một đối tượng không tham gia vào đầu tư
nhưng rất quan trọng.Đối tượng này đảm bảo cho quan hệ đầu tư được thực hiện một
cách công bằng và buộc các bên tham gia đầu tư phải tuân thủ đúng quy định và luật
pháp,đó là Nhà nước.
2.2. Hoạt động đầu tư thương mại
• Khái niệm
Đầu tư thương mại là loại hình đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để mua
hàng hóa và sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận do chênh lệch giá khi
mua và bán. Đây còn có thể coi là hình thức thương lượng trong mua bán nhằm đạt
được lãi suất thương mại.
• Đặc điểm của đầu tư thương mại
- Không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế (nếu không xét đến vấn đề ngoại
thương).
-Làm tăng tài sản của người đầu tư trong quá trình mua đi bán lại, chuyển giao
quyền sở hữu hàng hóa giữa người bán với người đầu tư và giữa người đầu tư với
người mua.
2.3. Hoạt động đầu tư phát triển
• Khái niệm
Đầu tư phát triển là hoạt động chi dùng vốn trong hiện tại để tiến hành các
hoạt động nhằm làm tăng thêm hoặc tạo ra những tài sản vật chất (nhà xưởng,thiết
bị…) và tài sản trí tuệ (tri thức,kĩ năng…) gia tăng năng lực sản xuất, tạo thêm việc
làm và vì mục tiêu phát triển.
• Đặc điểm của đầu tư phát triển
-Quy mô tiền vốn, vật tư, lao động cần thiết cho hoạt động đầu tư phát
triển thường rất lớn. Vốn đầu tư lớn nằm khê đọng lâu trong suốt quá trình thực
hiện đầu tư.
-Thời kì đầu tư kéo dài. Thời kì đầu tư tính từ khi khởi công thực hiện dự án
đến khi dự án hoàn thành và đưa vào hoạt động.
-Thời gian vận hành các kết quả đầu tư kéo dài. Thời gian vận hành các kết
quả đầu tư tính từ khi đưa công trình vào hoạt động cho đến khi hết thời hạn sử dụng
và đào thải công trình.
-Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển mà chủ yếu là các công trình
xây dựng thường phát huy tác dụng ngay tại nơi mà nó được tạo dựng nên,do đó, quá
trình thực hiện đầu tư cũng như thời kì vận hành các kết quả đầu tư chịu ảnh hưởng
lớn của các nhân tố về tự nhiên, kinh tế, xã hội vùng.
-Đầu tư phát triển có độ rủi ro cao.
Mối quan hệ giữa 3 loại hình đầu tư
Đầu tư tài chính là nguồn cung cấp vốn quan trọng cho đầu tư phát triển và
đầu tư thương mại. Còn đầu tư thương mại có tác dụng thúc đẩy quá trình lưu thông
của cải vật chất do đầu tư phát triển tạo ra, thúc đẩy đầu tư phát triển, tăng thu cho
ngân sách Nhà nước, tăng tích lũy vốn cho phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ
nói riêng và nền sản xuất xã hội nói chung.
II. Lạm phát
1 Khái niệm lạm phát
Như chúng ta đã biết, lạm phát là một vấn đề kinh tế vĩ mô và từ lâu đã có tác
động vô cùng to lớn tới nền kinh tế. Vì vậy, lạm phát đã trở thành một mối quan tâm
rất lớn của tất cả mọi người. Làm sao để có thể kiểm soát chúng cũng là một vấn đề
đã gây ra rất nhiều trăn trở. Vậy lạm phát là gì?
Đã có rất nhiều quan điểm khác nhau về lạm phát được đề cập trong rất nhiều
công trình nghiên cứu khác nhau.
• Theo Các Mác trong bộ Tư Bản :” Lạm phát là việc tràn đầy những kênh,
các luồng lưu thông những tờ giấy bạc thừa dẫn tới giá cả tăng vọt”. Trên cơ sở đó
ông nhìn nhận nguyên nhân của lạm phát là do bóc lột của chủ nghĩa tư bản, bóc lột
bằng giá cả bởi họ là những người sản xuất ra hàng hoá. Tiền lương thực tế của
người lao động giảm. Một bộ phận giàu lên nhanh chóng nhờ lạm phát, một bộ phận
nghèo đi rõ rệt dẫn đến sự phân phối lại trong nền kinh tế. Vì vậy, nhiệm vụ đặt ra là
triệt tiêu chủ nghĩa tư bản.
• Nhà kinh tế Samuelson thì cho rằng: Lạm phát biểu thị một sự tăng lên trong
mức giá chung. Theo ông: “Lạm phát xảy ra khi mức chung của giá cả và chi phí tăng
– giá bánh mỳ, dầu xăng, xe ôtô tăng, tiền lương, giá đất, tiền thue tư liệu sản xuất
tăng”
• Theo M.Friedmen: “Lạm phát là giá tăng nhanh và kéo dài”. Ông cho rằng:”
Lạm phát luôn và bao giờ cũng là một hiện tượng tiền tệ”. Lạm phát là kết quả tất
yếu của nền kinh tế hiện đại.
Tóm lại, như vậy về thực chất lạm phát là hiện tượng thừa tiền trong nền kinh
tế mà biểu hiện của nó là mặt bằng giá cả tăng lên.
2 Phân loại lạm phát
Có nhiều cách khác nhau để phân loại lạm phát. Mỗi cách phân loại dựa trên
những tiêu thức nhất định.
Xét về mặt định tính :
- Lạm phát cân bằng và lạm phát không cân bằng:
Lạm phát cân bằng: tăng tương ứng với thu nhập. Chính vì vậy lạm phát
không gây ảnh hưởng lớn đến đời sống của người lao động.
Lạm phát không cân bằng: tỷ lệ lạm phát tăng không tương ứng với thu nhập.
Trên thực tế, lạm phát không cân bằng thường rất hay xảy ra.
- Lạm phát dự đoán được và lạm phát bất thường:
Lạm phát dự đoán được: Lạm phát xảy ra trong một khoảng thời gian tương
đối dài với tỷ lệ lạm phát hàng năm khá đều đặn, ổn định. Chính vì vậy, người ta có
thể dự đoán được tỷ lệ lạm phát cho những năm tiếp theo. Vế tâm lý, người dân đã
quen với tình hình lạm phát đó và đã có những chuẩn bị để thích nghi với trạng lạm
phát này. Đây là loại lạm phát nên duy trì vì nó không ảnh hưởng đến đời sống người
lao động và các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô.
Lạm phát không dự đoán được( Lạm phát bất thường) : Lạm phát xảy ra có
tính đột biến, không dự doán được. Do vậy, về mặt tâm lý, cuộc sống và thói quen
của mọi người đều chưa được thích nghi. Lạm phát bất thường gây lên những cú sốc
cho nền kinh tế, ảnh hưởng nghiêm trọng tới đời sống của người dân. Vì vậy, loại
lạm phát này cần phải được giải quyết ngay.
Xét về mặt định lượng: Dựa trên độ lớn nhỏ của tỷ lệ % lạm phát tính theo
năm, người ta chia lạm phát thành:
- Lạm phát một chữ số: Lạm phát này xảy ra khi giá tăng chậm và tỷ lệ lạm
phát dưới 10%. Nó còn được gọi là lạm phát vừa phải. Đây là mức lạm phát mà nền
kinh tế có thể chấp nhận được, với mức lạm phát này, những tác động kém hiệu quả
của nó là không đáng kể. Nhà Nước thường muốn duy trì mức lạm phát lý tưởng là
5% vì nó thúc đẩy sự phát triển của các thành phần kinh tế, khuyến khích doanh
nghiệp mở rộng sản xuất kinh doanh (vì lợi nhuận tăng 5%).
Khi lạm phát tăng 7,8,9% thì nó gây tác động nhẹ tới nền kinh tế, chưa ảnh
hưởng xấu và Nhà Nước có thể kiểm soát được.
- Lạm phát hai con số (lạm phát phi mã): Ở mức lạm phát hai con số
thấp(11,12,13% năm), nói chung những tác động tiêu cực của nó là chưa đáng kể,
nền kinh tế vẫn chấp nhận được. Nhưng khi ở mức hai con số cao lạm phát sẽ trở
thành kẻ thù của sản xuất và thu nhập vì tác động tiêu cực của nó là không nhỏ nếu
không muốn nói nó đã trở thành mối đe doạ đến sự ổn định của nền kinh tế..
- Lạm phát ba con số (siêu lạm phát): Tỷ lệ lạm phát rất cao và tốc độ tăng rất
nhanh. Nền kinh tế rơi vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng, thiếu thốn hàng hoá,
quản lý chao đảo. Kinh tế suy sụp một cách nhanh chóng, thu nhập thực tế của người
lao động giảm mạnh.
Như vậy, mỗi loại lạm phát có những tác động riêng tới nền kinh tế. Tuy vậy
trên thực tế, lạm phát thường xuyên gây ra những tác động xấu, ảnh hưởng nghiêm
trọng tới toàn bộ nền kinh tế nói chung cũng như đời sống của người dân nói riêng.
Vậy, nguyên nhân nào dẫn đến lạm phát? Chúng ta hãy cùng tìm hiểu phần tiếp theo.
3- Nguyên nhân của lạm phát.
Theo chủ nghĩa trọng thương: Lạm phát là ngăn sông cấm chợ. Do đó, giá
hàng hoá tăng lên.
Theo chủ nghĩa trọng cầu: Lạm phát là do cầu quá nhiều trong nền kinh tế
Theo chủ nghĩa trọng cung: Lạm phát là hiện tượng thừa tiền của nền kinh tế
Theo quan điểm của kinh tế học vĩ mô, lạm phát có những nguyên nhân sau:
• Do cung tiền tăng lên:
Như chúng ta đã biết, cung tiền tăng làm AD dịch chuyển sang phải. Trong
thời gian ngắn sản phẩm tăng lên trên mức thất nghiệp tự nhiên. Điều đó làm giảm tỷ
lệ thất nghiệp xuống dưới mức tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên, tiền lương tăng lên và làm
giảm tổng cung. Tại đây nền kinh tế quay trở lại mức tỷ lệ tự nhiên của sản phẩm trên
đường tổng cung dài hạn và mức giá tăng lên.
• Lạm phát do chi phí đẩy: Bản chất là chi phí tăng làm cho giá thành sản
phẩm tăng.Nguyên nhân làm chi phí tăng có thể là do giá thành nguyên nhiên vật liệu
đầu vào tăng hoặc do tiền trả cho người lao động tăng.
• Lạm phát do cầu kéo: Do sự tăng lên liên tục của mức cầu mà sự gia tăng
của mức cung không đáp ứng được.
• Lạm phát do bội chi Ngân sách Nhà Nước: Trong số các biện pháp khắc
phục bội chi, có những biện pháp làm lạm phát tăng. Mà cụ thể là việc phát hành tiền
ra công chúng làm cung tiền tăng dẫn đến hiện tượng lạm phát.
• Lạm phát theo tỷ giá hối đoái: (giữa đồng nội tệ với đồng ngoại tệ)
Khi tỷ giá tăng: đồng nội tệ mất giá tác động đến tâm lý của người dân làm giá
cả tăng. Hơn nữa giá nguyên vật liệu nhập khẩu tăng làm chi phí tăng (lạm phát chi
phí đẩy).
4- Tác động của lạm phát
Lạm phát tác động rất lớn tới nền kinh tế. Lam phát cao có ảnh hưởng đến mọi
mặt của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội…
Sau đây là một số tác động chủ yếu của lạm phát :
• Tác động tới lãi suất: Như chúng ta đã biết, lãi suất thực= Lãi suất danh
nghĩa - tỷ lệ lạm phát. Do đó khi tỷ lệ lạm phát tăng cao, muốn cho lãi suất thực ổn
định thì lãi suất danh nghĩa phải tăng cùng tỷ lệ lạm phát. Điều đó làm đầu tư giảm
dẫn đấn suy thoái kinh tế và tỷ lệ thất nghiệp gia tăng.
• Tác động tới thu nhập: Trong trường hợp tiền lương danh nghĩa không đổi,
lạm phát tăng sẽ làm tiền lương tiền lương thực tế giảm
• Tạo ra sự phân phối thu nhập không bình đẳng: Khi lạm phát xảy ra người
tiêu dùng có xu hướng mua nhiều hàng hoá để tích trữ. Điều đó tạo cơ hội cho những
nhà đầu cơ ép giá làm giá tăng. Một bộ phận trong nền kinh tế giàu lên, một bộ phận
nghèo đi. Tình trạng lạm phát như vậy có thể gây ra những rối loạn trong nền kinh tế
và tạo ra khoảng cách lớn về thu nhập, về mức sống giữa người giàu và người nghèo.
Vì vậy, chính phủ cần có biện pháp đánh thuế nặng vào những hàng hoá đầu cơ. Hay
như trong quan hệ kinh tế giữa người cho vay và người đi vay, khi lạm phát tăng cao,
ngườiôch vay sẽ là người chịu thiệt và người vay sẽ là người được lợi. Điều này cũng
tạo nên sự phân phối bất bình đẳng giữa người đi vay và người cho vay.
Một số tác động khác của lạm phát:
• Gánh nặng nợ của quốc gia đang có lạm phát tăng vì lạm phát tăng làm tỷ
giá tăng cao và đồng tiền trong nước trở nên mất giá nhanh hơn so với đồng tiền
nước ngoài tính trên các khoản nợ.
• Hoạt đông xuất nhập khẩu bán được ít ngoại tệ hơn, mua phải trả nhiều
ngoại tệ hơn
• Làm giảm uy tín của quốc gia đó trên trường quốc tế, việc mở rộng quan hệ
ngoại giao bị hạn chế.
• Tệ nạn trong xã hội gia tăng: buôn tiền, rửa tiền, trộm cắp, đầu cơ…
Tổng kết lại, lạm phát cao và kéo dài đã gây những hậu quả lớn trong đời sống
của người dân cũng như cản trở sự tăng trưởng kinh tế. Chính phủ các quốc gia cần có
những biện pháp hữu hiệu mang tính chiến lược để phòng ngừa và khắc phục lạm phát.
Tuỳ vào hoàn cảnh cụ thể của mỗi quốc gia mà có những biện pháp cụ thể. Có thể là
các biện pháp mang tính tình thế hoặc những biện pháp mang tính lâu dài.
B/ LÍ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẦU TƯ VÀ LẠM PHÁT
I/ Lạm phát tác động đến đầu tư
1. Gây sụt giảm nhu cầu đầu tư
a/ Lạm phát tác động đến đầu tư thông qua lãi suất
Lạm phát luôn là một vấn đề rất nhạy cảm và nó tác động rất lớn đến nền kinh
tế nói chung và hoạt động đầu tư nói riêng. Lạm phát cao sẽ dẫn đến một cuộc khủng
hoảng kinh tế kéo dài và nó sẽ gây ra một hậu quả rất khủng khiếp. Trước hết chúng
ta sẽ đánh giá tác động của lạm phát đến đầu tư thông qua biến số lãi suất. Khi
lạm phát được dự đoán là sẽ tăng lên trong thời kì nào đó thì nó sẽ làm cho lãi
suất sẽ xu hướng tăng. Điều này có thể giải thích bằng cả hai hướng tiếp cận sau
đây:
Thứ nhất, xuất phát từ mối quan hệ giữa lãi suất thực và lãi suất danh nghĩa
cho thấy để duy trì lãi suất thực không đổi, tỷ lệ lạm phát tăng đòi hỏi lãi suất danh
nghĩa phải tăng lên tương ứng.
Lãi suất thực = lãi suất danh nghĩa - tỷ lệ lạm phát.
Thứ hai, công chúng dự đoán tỷ lệ lạm phát tăng vì vậy họ sẽ dành phần tiết
kiệm của mình cho việc dự trữ hàng hoá hoặc chuyển sang các dạng thức tài sản phi
tài chính khác như vàng, ngoại tệ mạnh, hoặc đầu tư vốn ra nước ngoài (nếu có thể)
… để tránh mất giá của đồng nội tệ. Điều này sẽ khiến cho lượng tiền gửi tiết kiệm
trong ngân hàng giảm mạnh do giảm cung quỹ cho vay. Trong kinh tế thị trường,
nguyên tắc chung là lãi suất tiết kiệm phải cao hơn lạm phát để bảo đảm cho lãi suất
thực dương. Nếu lãi suất tiết kiệm thấp hơn lạm phát thì lãi suất thực sẽ mang dấu
âm, tức là không có lãi suất thực.
Trong thời kỳ lạm phát phi mã, lạm phát cao gấp nhiều lần lãi suất tiết kiệm,
đến nỗi đã được ví như hiện tượng: người gửi tiền có giá trị như một con bò, gửi vào
ngân hàng nhờ "quay vòng" hộ, nhưng đến khi rút ra chỉ còn giá trị như cái đuôi bò.
Bởi vậy mà khi xảy ra lạm phát với tỷ lệ cao thì lãi suất có xu hướng tăng lên tương
ứng để người có tiền gửi cảm thấy không quá thiệt.
Tất cả điều này làm giảm cung quỹ cho vay và gây áp lực tăng lãi suất của các
nhà băng cũng như trên thị trường.
Vậy lãi suất cho vay ảnh hưởng đến nền kinh tế nói chung và hoạt động đầu tư
nói riêng như thế nào?
Lãi suất thấp cũng khiến cho các nhà sản xuất, các chủ nông nghiệp và các cơ
sở kinh doanh khác dễ dàng mượn vốn và đầu tư vào thiết bị hoặc những phạm trù
cần các chi phí lớn khác. Thêm vào đó, nguồn thu lại từ những khoản đầu tư như vậy
thì có giá trị hơn tại thời điểm ấy (tức là thời điểm khi mà lãi suất thấp) hơn khi lãi
suất cao. Điều này khiến cho các doanh nghiệp lời nhiều hơn khi đầu tư với mức lãi
suất thấp, và cũng theo đà đó mà giúp kinh tế phát triển nhanh hơn vì năng suất lao
động tăng mạnh.
Một sự tăng lãi suất làm giảm sức hấp dẫn trong việc chi tiêu hiện tại hơn là
chi tiêu trong tương lai của cá nhân và công ty. Tín dụng trong nước, tổng lượng tiền
và cầu thực tế đều giảm (nếu lãi suất giảm sẽ có tác động ngược lại): Khi lãi suất
thực tăng lên, đối với hộ gia đình sẽ giảm nhu cầu mua sắm nhà ở hoặc các hàng tiêu
dùng lâu bền do chi phí tín dụng để mua các hàng hoá này tăng lên. Cùng với lãi suất
cho vay, lãi suất tiền gửi thực cũng tăng lên. Sự gia tăng lãi suất này tác động tới
quyết định tiêu dùng của khu vực hộ gia đình theo hướng giảm tiêu dùng hiện tại và
tăng tiết kiệm để cho tiêu dùng trong tương lai. Đối với khu vực doanh nghiệp, sự
gia tăng lãi suất làm tăng chi phí vốn vay ngân hàng. Điều hiển nhiên là lãi suất hay
giá của vốn cao thì nhu cầu vay vốn giảm, nguồn vốn đầu tư vào các dự án giảm, quy
mô vốn thấp. Khu vực nhà nước dễ dàng tiếp cận các nguồn vốn vay hơn khu vực tư
nhân và thường được vay vốn với lãi suất ưu đãi. Bởi vậy, tác động của lãi suất đến
khu vực tư nhân nhạy cảm hơn và mạnh hơn nhiều. Trong quá trình đầu tư, các doanh
nghiệp tư nhân rất quan tâm tới biến động lãi suất vay vốn bởi nó là giá của vốn đầu
tư, quyết định quy mô vốn đầu tư và ảnh hưởng trực tiếp tới lợi nhuận thực tế mà họ
thu về được. Điều này đòi hỏi dự án đầu tư sử dụng vốn vay ngân hàng phải có tỷ lệ
lợi nhuận lớn hơn và kết quả là số dự án đầu tư có thể thực hiện với mức lãi suất cao
hơn này có thể giảm hay nói cách khác, đầu tư cố định có thể giảm. Ngoài ra, lãi suất
cao cũng làm tăng chi phí lưu giữ vốn lưu động (ví dụ như hàng trong kho) và do
vậy, tạo sức ép các doanh nghiệp phải giảm đầu tư dưới dạng vốn lưu động.
Vấn đề đặt ra là phải có chính sách điều tiết lãi suất hợp lý để nó vừa kích
thích đầu tư, tăng quy mô vốn vừa phản ánh đúng giá trị nguồn vốn cho vay trên thị
trường.
b/ Lạm phát tác động đến đầu tư thông qua tăng trưởng kinh tế
Trong một thời kì dài các nhà kinh tế đã nghiên cứu cái giá phải trả cho lạm
phát và tất cả đã đồng ý rằng lạm phát gây thiệt hại rất lớn cho xã hội. Lạm phát cũng
làm tăng tình trạng bất ổn làm ảnh hưởng đến khả năng quyết định tốt nhất của dân
chúng. Trong thời gian gần đây, các mô hình kinh tế và thực nghiệm cho thấy lạm
phát cũng có ảnh hưởng tới tỷ lệ tăng trưởng của nền kinh tế.
Xét trong mối quan hệ giữa hai mục tiêu tăng trưởng và lạm phát, nếu ưu tiên
tăng trưởng, thì đầu tư gia tăng, tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP sẽ cao, trong khi hiệu
quả đầu tư giảm; tốc độ tăng trưởng tín dụng và tổng phương tiện thanh toán cao gấp
5-6 lần tốc độ tăng GDP (gấp hơn hai lần các nước trong khu vực...) thì lạm phát sẽ
gia tăng. Đó là chưa nói tới ở đầu ra, cả tiêu thụ trong nước và xuất khẩu cũng tăng
cao hơn tạo sức ép đối với lạm phát.
Nếu ưu tiên kiềm chế lạm phát (thấp hơn tốc độ tăng GDP chẳng hạn), thì
tăng trưởng kinh tế sẽ không cao hơn, bởi tăng trưởng kinh tế mới vừa thoát đáy, còn
đang leo dốc (chưa thể nói hồi phục), trong khi tăng trưởng kinh tế phụ thuộc phần
lớn vào đầu tư.
Dung hoà các mối quan hệ trên, có thể đưa ra kịch bản cho năm 2010 so với
năm 2009 đối với Việt Nam là tăng trưởng kinh tế cao hơn (khoảng 6-6.5%), đồng
thời lạm phát cũng phải thấp hơn (dưới 7%); nếu việc kiềm chế lạm phát là khó khăn,
thì có thể chấp nhận tốc độ tăng trưởng thấp hơn (khoảng 6%), vừa để cơ cấu lại nền
kinh tế, vừa kiềm chế lạm phát.
• Lý thuyết về lạm phát và tăng trưởng
Về lý thuyết, lạm phát có thể tác động tiêu cực lẫn tích cực lên tăng trưởng
kinh tế: Theo Mundell (1965) và Tobin (1965), có mối tương quan tỉ lệ thuận giữa
lạm phát và tăng trưởng; hai trường phái Keynes và trường phái tiền tệ đều cho rằng
trong ngắn hạn, chính sách nới lỏng tiền tệ kích thích tăng trưởng, đồng thời làm gia
tăng lạm phát; đường cong Phillips nổi tiếng về sự đánh đổi giữa mục tiêu lạm phát
và thất nghiệp.
- Stagflation nghĩa là suy thoái và lạm phát, tình trạng nền kinh tế vừa có
những dấu hiệu của lạm phát, mà cơ bản nhất là giá cả leo thang, tiền mất giá nhưng
lại vừa có những biểu hiện của suy thoái như sản xuất đình trệ, thất nghiệp gia tăng,
lạm phát cao, tăng trưởng thấp.
- Lạm phát có thể tác động tiêu cực lên tăng trưởng như: dấu hiệu bất ổn kinh
tế vĩ mô; tăng sự không chắc chắn của các hoạt động đầu tư; lạm phát làm thay đổi
giá cả tương đối, làm méo mó quá trình phân bổ nguồn lực; lạm phát còn được xem
như là một loại thuế đánh vào nền kinh tế.
• Các nghiên cứu kiểm nghiệm về mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng
- Nghiên cứu ban đầu (những năm 60) không tìm thấy mối quan hệ có ý nghĩa
thống kê nào.
- Giai đoạn sau khủng hoảng dầu hỏa 1973-1974, tìm thấy quan hệ âm giữa
lạm phát và tăng trưởng (Fischer, 1993; Bruno và Easterly, 1995; Barro, 1998).
• Lạm phát và tăng trưởng trên thế giới
Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng là phi tuyến tính. Lạm phát chỉ tác
động tiêu cực lên tăng trưởng khi đạt ngưỡng nhất định nào đó (threshold). Ở mức
dưới ngưỡng, lạm phát không nhất thiết tác động tiêu cực lên tăng trưởng, thậm chí
có thể tác động dương như lý thuyết Keynes đề cập.
Kết quả kiểm nghiệm ảnh hưởng ngưỡng của lạm phát
- Nghiên cứu của Khan và Senhadji (2001): 140 nước, giai đoạn 1960-1998.
Các nước đang phát triển, ngưỡng lạm phát từ 11-12%/năm.
- Nghiên cứu của Li (2006): Số liệu cho 90 nước đang phát triển, giai đoạn
1961-2004, ngưỡng là 14%/năm.
- Nghiên cứu của Christoffersen và Doyle (1998) tìm ra ngưỡng là 13% cho
các nền kinh tế chuyển đổi.
Kết luận: ngưỡng tiêu cực của lạm phát là từ 11%-14% trở lên.
Tương đồng với nghiên cứu trên, tác giả Tú Anh - Ngân hàng Nhà nước
(NHNN) cũng cho rằng: giữa tăng trưởng kinh tế và lạm phát thường có mối quan hệ
nhất định. Tuy nhiên, mức độ gắn kết như thế nào là vấn đề còn tranh cãi. Một số
nghiên cứu và thực nghiệm cho thấy, lạm phát có thể tác động tiêu cực đến tăng
trưởng kinh tế khi nó vượt qua một ngưỡng nhất định. Fischer (1993) là người đầu
tiên nghiên cứu vấn đề này đã kết luận, khi lạm phát tăng ở mức độ thấp, mối quan
hệ này có thể không tồn tại, hoặc mang tính đồng biến, và lạm phát ở mức cao mối
quan hệ này là nghịch biến. Một số các nhà nghiên cứu sau này như Sarel (1996),
Gosh và Phillips (1998), Shan và Senhadji (2001), và một số các nhà nghiên cứu khác
đã cố gắng tìm ra đặc điểm đặc biệt về mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng
kinh tế. Bằng các nghiên cứu khác nhau, họ đã tìm ra một ngưỡng lạm phát, mà tại
ngưỡng đó nếu lạm phát vượt ngưỡng sẽ có tác động tiêu cực (tác động ngược chiều)
đến tăng trưởng. Theo Sarel, ngưỡng lạm phát là 8%, theo Shan và Senhadji, ngưỡng
lạm phát cho các nước đang phát triển là 11-12%, các nước công nghiệp khoảng 1-
3%. Gần đây nhất là nghiên cứu của tác giả Khan (2005) đã tập trung nghiên cứu xác
định mức lạm phát tối ưu. Kết quả Khan đã tìm ra mức lạm phát tối ưu đối với các
nước vùng Trung Đông và Trung Á là khoảng 3,2%.
f
*
Hình1: mối quan hệ tăng trưởng và lạm phát
g
f
g*
0
f*: ngưỡng lạm phát
Như vậy, lạm phát cao rất có hại cho tăng trưởng. Do đó, chính phủ có vai trò
rất quan trọng trong việc kiềm chế lạm phát dưới mức tối ưu.
Vậy tăng trưởng tác động đến đầu tư như thế nào?
Tăng trưởng kinh tế là một chỉ tiêu vĩ mô quan trọng mà nhà đầu tư quan tâm.
Động thái và xu thế tăng trưởng kinh tế của một quốc gia có thể ảnh hưởng đến tình
hình đầu tư và phát triển của một ngành, một lĩnh vực và sau đó là kết quả và hiệu
quả đầu tư của một dự án cụ thể. Chẳng hạn trong một nền kinh tế có tốc độ tăng
trưởng cao và duy trì ổn định trong thời gian dài thì cơ hội đầu tư của các lĩnh vực
công nghệ mới, các dự án cung cấp hàng hoá và dịch vụ có chất lượng cao sẽ có
nhiều khả năng thành công. Tuy nhiên khi nền kinh tế đang trong giai đoạn suy thoái,
có tốc độ tăng trưởng chậm thì các dự án cung cấp hàng hoá được đánh giá là xa xỉ,
lâu bền sẽ khó thành công hơn nếu không có các giải pháp đột phá về công nghệ và
phương thức sản xuất.
Như vậy:
Lạm phát ở tỷ lệ thấp sẽ khuyến khích đầu tư và sử dụng các nguồn lực.
Lạm phát ở tỷ lệ quá cao sẽ làm giảm tăng trưởng và hạn chế đầu tư.
2. Phá hoại hiệu quả tính toán của các dự án, giảm hiệu suất và rối loạn các dự
án đang hoạt động.
2.1 Phá vỡ hiệu quả tính toán tài chính của các dự án đầu tư
Tỷ lệ lạm phát có ảnh hưởng lớn đến sự ổn định môi trường kinh tế vĩ mô và
có thể có ảnh hưởng đến ý định và hành động của nhà đầu tư. Lạm phát có thể là rủi
ro tiềm tàng làm suy giảm hiệu quả đầu tư.
Như trên phân tích thì lạm phát tăng cao sẽ làm lãi suất có xu hướng tăng lên.
Lãi suất vốn vay lại chính là chi phí sử dụng vốn do đó khi tăng lãi suất, hiệu quả đầu
tư sẽ thay đổi theo chiều hướng xấu.
Lạm phát đã tác động trực tiếp đến các khoản chi phí vốn đầu tư. Nếu mức
lạm phát càng cao thì khối lượng vốn đầu tư để thực hiện thi công xây lắp các công
trình trong tương lai càng cao so với lượng tính theo thực tại. Lạm phát càng tăng làm
nhu cầu tiền mặt tăng và do đó hiệu quả dự án càng thấp. Lạm phát còn ảnh hưởng
đến các khoản thu phải trả của dự án. Chẳng hạn như các khoản bán chịu nhiều, mua
chịu ít không có lợi cho dự án.
Ta có thể đánh giá hiệu quả tài chính của dự án thông qua hệ thống các chỉ
tiêu như: chỉ tiêu lợi nhuận thuần, thu nhập thuần, tỷ suất sinh lời cho vốn đầu tư, tỷ
suất hoàn vốn nội bộ v.v…
Giả sử ta dùng chỉ tiêu thu nhập thuần của dự án để đánh giá hiệu quả tài chính
của dự án. Chỉ tiêu này cho phép đánh giá đầy đủ quy mô lãi của cả đời dự án. Thu nhập
thuần của dự án tại một thời điểm (đầu thời kỳ phân tích – PV hay cuối thời kỳ phân tích
– FV) là chênh lệch giữa tổng các khoản thu và tổng các khoản chi phí của cả đời dự án
sau khi đã được đưa về cùng một thời điểm (PV hay FV).
Thu nhập thuần của dự án được tính chuyển về mặt bằng hiện tại đầu thời kỳ
phân tích, ký hiệu NPV (Net Present Value) được xác định theo công thức:
Trong đó:
B
i
: Khoản thu của năm i
C
i
: Khoản chi phí của năm i (không bao gồm khấu hao và lãi vay)
n: Số năm hoạt động của đời dự án
r: Tỷ suất chiết khấu được chọn
Giả sử, với tỷ suất chiết khấu r ta tính được NPV dương, tức là dự án có hiệu
quả tài chính. Nhưng do lạm phát tăng, lãi suất vốn vay cũng tăng lên, r tăng lên
thành r
1,
lúc
này NPV có thể vẫn dương nhưng đã bị giảm hoặc trong trường hợp xấu
thì NPV có thể âm. Một khi dự án đang được thực hiện rồi thì chủ đầu tư bắt buộc
phải chấp nhận điều này và tìm ra giải pháp khắc phục để giảm hậu quả gây rối loạn
các dự án. Nhiều dự án còn phải tạm ngừng triển khai… gây nguy hại đến nền kinh
tế. Còn khi dự án mới chỉ trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư thì bắt buộc chủ đầu tư
phải tìm hướng phát triển khác.
Như vậy, lạm phát đã làm phá hoại hiệu quả đầu tư, giảm hiệu suất các dự án
đang hoạt động.
2.2 Tăng chi phí đầu vào không dự tính được
Sự thành công của các dự án đang hoạt động dựa trên kết quả lập kế hoạch
và tính toán các dự án trước khi đi vào hoạt động. Đặc biệt đối với các dự án sản xuất
việc dự tính trước chi phí nguyên vật liệu đầu vào là điều kiện thiết yếu để tiến hành
tham gia đấu thầu hoặc sản xuất. Bởi vì tất cả các sản phẩm sản xuất ra đều đã theo
đơn đặt hành từ trước nên lạm phát là nhân tố đáng sợ nhất dẫn tới làm cho các kế
hoạch đầu tư sản xuất chịu lỗ bất ngờ có thể do không đủ hoặc không có nguyên vật
liệu đầu vào dự trữ. Lúc này lạm phát đẩy các dự án vào tình thế phải đối mặt: Một là
tiếp tục sản xuất và chịu lỗ nhưng giữ được uy tín và đảm bảo hoàn thành hợp đồng
với đối tác, hai là ngừng sản xuất hoặc tạm ngừng sản xuất, không hoàn thành hợp
đồng với khách hàng. Trường hợp xấu dự án còn có thể phá sản vì các nhân tố đầu
vào này. Rõ ràng cả hai sự lựa chọn đều không dễ chịu đối với các nhà đầu tư. Các
chi phí đầu vào bao gồm :
+ Chi phí nguyên liệu để sản xuất
+ Chi phí nhiên liệu để vận hành máy móc thiết bị
+ Chi phí vận tải sản phẩm, hoặc nguyên liệu
+ Chi phí năng lượng (điện, than, xăng...)
Thêm một điểm nữa là mặc dù không thuộc phạm trù chi phí đầu vào nhưng
sự chênh lệch tỷ giá bất ngờ do lạm phát gây ra trong thời điểm thanh toán cũng là
một nhân tố gây ra sự thua lỗ của các doanh nghiệp.
2.3 Áp lực gia tăng lương nhân công cao, trong khi đó giá thành sản phẩm đã
cố định hoặc tăng cao gây khó tiêu thụ
Lạm phát đẩy giá cả sản phẩm của không những các nguyên liệu cho đầu vào
mà còn tăng giá của tất cả các sản phẩm nói chung trong đó phần lớn là ảnh hưởng
tới cuộc sống của công nhân viên. Theo lý thuyết tiền lương cứng nhắc ta biết rằng
lương của người lao động không thể theo kịp sự tăng giá của các sản phẩm do đó khi
cuộc sống khó khăn đẩy áp lực tăng lương lên doanh nghiệp là chuyện khó có thể
tránh khỏi. Nhất là trong trường hợp các ngành sử dụng nhiều lao động thì đây thực
sự là một vấn đề khó khăn. Các doanh nghiệp trong thực tế hầu hết sẽ phải đối mặt
với hai tình huống không mấy tốt đẹp: một là tăng lương cho các nhân công và có thể
dẫn tới tăng giá cả sản phầm gây khó tiêu thụ hoặc chịu lỗ, hai là các doanh nghiệp
phải đối mặt với nạn đình công quy mô lớn hoặc là nghỉ việc của một nhóm công
nhân. Nếu sự đình công diễn ra lâu, tiến độ sản xuất sẽ bị phá hủy dẫn tới việc không
hoàn thành đúng hợp đồng với khách hàng, hẳn điều này về lâu dài sẽ ảnh hưởng tới
uy tín của công ty và thậm chí gây khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của
công ty trong nhiều năm sau.
2.4 Đình đốn các dự án đang hoạt động, hoặc phá sản, rút vốn dẫn tới sụp đổ
thị trường, rối loạn nguồn cung, cầu.
Từ hai phần phân tích phía trên ta đều đã có thể hiểu phần nào các dự án
đang hoạt động vấp phải khó khăn thế nào khi lạm phát xảy ra. Trên góc độ vi mô
của doanh nghiệp, doanh nghiệp phải đối phó với những khó khăn như thế và không
dễ dàng gì tìm được lối ra. Trên góc độ vĩ mô, nếu hàng loạt doanh nghiệp cùng phải
đối mặt với khó khăn sẽ dẫn tới sự sụp đổ của cả một ngành hoặc nhiều ngành khác
nhau. Việc lạm phát cao gây ra tâm lý e sợ lỗ dẫn tới việc các doanh nghiệp rút vốn
khỏi thị trường khiến tình hình kinh tế thêm ảm đạm. Tình hình sẽ càng trở nên căng
thẳng khi các ngành đổ vỡ gây thiếu cung đẩy giá lên cao, lạm phát đẻ ra lạm phát .
Thêm vào đó khi tình hình lạm phát tăng cao, chính phủ sẽ lại có các biện pháp để
kiềm chế lạm phát và điều này sẽ dẫn tới việc hạn chế đầu tư, hay không khuyến
khích tiêu dùng. Xét trên khía cạnh quốc gia hay vĩ mô, những biện pháp hành chính
này là cần thiết, tuy nhiên những biện pháp kinh tế hành chính này kéo dài bao lâu và
có hiệu quả như thế nào sẽ tùy thuộc vào sự hiệu quả của nó và chính phủ. Nếu các
biện pháp đó duy trì dài lâu và cứng nhắc, tất yếu sẽ dẫn tới hậu quả không tốt cho
đầu tư.
3. Gây mất cân đối cơ cấu đầu tư, tăng xu hướng đầu cơ trục lợi
3.1 Tăng đầu tư vào các ngành không ưu tiên, hoặc không có hiệu quả sau khi
lạm phát.
Thực tế đa dạng của lạm phát có thể đẩy nền kinh tế vào việc thiếu cung một
vài dòng sản phẩm nào đó trên những khu vực nhất định. Điều này sẽ dẫn tới việc
đẩy dòng vốn vào những khu vực đó để kiếm lời. Tuy nhiên tác động không mong
muốn của lạm phát được giải quyết bởi nhiều lực lượng khác nhau và lợi ích của
những lực lượng này không phải bao giờ cũng song hành với lợi ích của những khu
vực vốn nổi lên trong lạm phát. Khi đó do giá thành sản phẩm đã hạ xuống những
khu vực đầu tư nhất thời, ngắn hạn và nhằm trục lợi như thế này có thể sẽ dẫn tới sự
không hiệu quả của dòng vốn và lãng phí tài nguyên.
3.2 Tăng tâm lý đầu cơ, sử dụng vốn theo hướng ngắn hạn.
Tâm lý đầu cơ trục lợi là điều khó có thể tránh khỏi khi có lạm phát. Đầu cơ
gây ra những hậu quả tồi tệ cho nền kinh tế, khi nó trực tiếp gây ra và duy trì cho lạm
phát tăng cao. Nguyên nhân là do lạm phát cao làm giảm giá trị đồng tiền trong nước.
Khi các mức giá cả trong tương lai khó dự đoán hơn thì các kế hoạch chi tiêu và tiết
kiệm hợp lý sẽ trở nên khó thực hiện hơn. Người dân ngày càng lo ngại về việc sức
mua trong tương lai của họ bị giảm xuống và mức sống của họ cũng vì vậy mà kém
đi. Do đó lạm phát cao khuyến khích các hoạt động đầu tư mang tính đầu cơ trục lợi
và sử dụng vốn theo hướng ngắn hạn hơn là đầu tư vào các hoạt động sản xuất (ví dụ:
khi có lạm phát, nếu ngân hàng không tăng lãi suất tiền gửi thì dân chúng sẽ không
gửi tiền ở ngân hàng mà tìm cách đầu cơ vào đất đai khiến giá cả đất đai tăng cao...).
Tâm lý đầu cơ này gây ra các cơn sốt ảo trên thị trường. Và đặc biệt nếu đầu cơ xảy
ra với các ngành hay các sản phẩm thiết yếu với nhu cầu của nhân dân thì hệ lụy của
nó còn nghiêm trọng hơn rất nhiều. Đời sống của đại bộ phận dân cư đều gặp khó
khăn, tình hình xã hội mất ổn định, chi phí sinh hoạt tăng cao đẩy các tầng lớp nhân
dân nghèo đi. Trong khi đó do tính trung tâm của các loại hình sản phẩm này nên rất
nhanh hậu quả của nó lan rộng ra các ngành khác. Hậu quả của phản ứng dây chuyền
tăng giá của tất cả các ngành sản phẩm khác không thể lường trước được.
4. Gây ra môi trường đầu tư mất ổn định (mất tính hấp dẫn của môi trường
đầu tư)
4.1 Giảm đầu tư vào cơ sở hạ tầng, làm môi trường đầu tư mất hấp dẫn với
các nhà đầu tư tư nhân và nước ngoài
Lạm phát đẩy giá cả của các nguyên vật liệu tăng lên cao, khiến cho chính phủ
phải áp dụng các biện pháp giảm cung tiền và thắt chặt chi tiêu cho các dự án. Trong
ngắn hạn nhất thời khi các dự án này buộc phải ưu tiên trước sau. Các dự án thuộc
khu vực đầu tư cơ sở hạ tầng là các dự án chịu ảnh hưởng lớn nhất vì các dự án này
đòi hỏi một lượng vốn khổng lồ, hơn nữa thời gian thực hiện còn rất lâu. Thứ 3 nữa
là các dự án thuộc nhóm này sử dụng các nguồn vật liệu có giá nhạy cảm nhất với thị
trường, chính vì vậy mà việc tăng giá nguyên vật liệu sẽ đẩy các dự án vào tình trạng
trì trệ, thậm chí là khó có thể thực hiện hoặc bị cắt giảm.
Đối với các doanh nghiệp họ có thể làm ăn phát triển hay không phụ thuộc
vào cơ sở hạ tầng có thuận lợi hay không. Khi lạm phát xảy ra các cơ sở hạ tầng đều
bị ảnh hưởng nặng khiến cho hàng loạt các dự án đều gặp phải khó khăn.
4.2 Giá thành các nguồn lực đầu vào làm giảm tính cạnh tranh của môi trường
đầu tư
Khi lạm phát ở mức cao, tăng trưởng kinh tế sẽ giảm, nhà đầu tư không còn
niềm tin trong việc đầu tư vào các dự án. Họ sẽ tìm đến các kênh đầu tư khác như
đầu tư vào thị trường vàng, thị trường bất động sản. Hơn nữa, lạm phát ở mức cao thì
rủi ro tiềm tàng là rất lớn, việc an toàn đồng vốn là giải pháp tốt trong trường hợp
này. Hiển nhiên tâm lý ảm đạm này khiến cho môi trường đầu tư không còn hấp dẫn
nữa. Đối với quy mô quốc gia, việc lạm phát cao được đánh giá là sẽ xảy ra chắc
chắn làm sụt giảm nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài. Bởi vì khi đó các nhà đầu tư tốn
mất nhiều chi phí hơn cho cùng một hoạt động kinh doanh. Thêm vào đó khi lạm
phát tăng cao khiến chính phủ đưa vào áp dụng các biện pháp thắt chặt tiền tệ, chống
lạm phát điều này làm môi trường đầu tư kém hấp dẫn hơn trong mắt nhà đầu tư cả
trong và ngoài nước.
5. Suy giảm, phá vỡ thị trường vốn, ảnh hưởng lớn đến hoạt động của các ngân
hàng thương mại, làm suy giảm lòng tin của nhà đầu tư
Đối với hoạt động huy động vốn: do lạm phát tăng cao, việc huy động vốn của
các ngân hàng gặp nhiều khó khăn. Để huy động được vốn, hoặc không muốn vốn từ
ngân hàng mình chạy sang các ngân hàng khác, thì phải nâng lãi suất huy động sát
với diễn biến của thị trường vốn. Nhưng nâng lên bao nhiêu là hợp lý, luôn là bài
toán khó đối với mỗi ngân hàng. Một cuộc chạy đua lãi suất huy động ngoài mong
đợi tại hầu hết các ngân hàng (17% - 18%/năm cho kỳ hạn tuần hoặc tháng), luôn tạo
ra mặt bằng lãi suất huy động mới, rồi lại tiếp tục cạnh tranh đẩy lãi suất huy động
lên, có ngân hàng đưa lãi suất huy động gần sát lãi suất tín dụng, kinh doanh ngân
hàng lỗ lớn nhưng vẫn thực hiện, gây ảnh hưởng bất ổn cho cả hệ thống NHTM. Lạm
phát tăng cao, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) phải thực hiện thắt chặt tiền tệ để giảm
khối lượng tiền trong lưu thông, nhưng nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp và cá
nhân kinh doanh vẫn rất lớn, các ngân hàng chỉ có thể đáp ứng cho một số ít khách
hàng với những hợp đồng đã ký hoặc những dự án thực sự có hiệu quả, với mức độ
rủi ro cho phép. Mặt khác, do lãi suất huy động tăng cao, thì lãi suất cho vay cũng
cao, điều này đã làm xấu đi về môi trường đầu tư của ngân hàng, rủi ro đạo đức sẽ
xuất hiện. Do sức mua của đồng Việt Nam giảm, giá vàng và ngoại tệ tăng cao, việc
huy động vốn có kỳ hạn từ 6 tháng trở lên thật sự khó khăn đối với mỗi ngân hàng,
trong khi nhu cầu vay vốn trung và dài hạn đối với các khách hàng rất lớn, vì vậy
việc dùng vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn trong thời gian qua tại mỗi ngân
hàng là không nhỏ. Điều này đã ảnh hưởng đến tính thanh khoản của các ngân hàng,
nên rủi ro kỳ hạn và rủi ro tỷ giá xảy ra là điều khó tránh khỏi.
Do lạm phát cao, không ít doanh nghiệp cũng như người dân giao dịch hàng
hóa, thanh toán trực tiếp cho nhau bằng tiền mặt, đặc biệt trong điều kiện lạm phát,
nhưng lại khan hiếm tiền mặt. Theo điều tra của Ngân hàng thế giới (WB), ở Việt
Nam có khoảng 35% lượng tiền lưu thông ngoài ngân hàng, trên 50% giao dịch
không qua ngân hàng, trong đó trên 90% dân cư không thanh toán qua ngân hàng.
Khối lượng tiền lưu thông ngoài ngân hàng lớn, NHNN thực sự khó khăn trong việc
kiểm soát chu chuyển của luồng tiền này, các NHTM cũng khó khăn trong việc phát
triển các dịch vụ phi tín dụng, đặc biệt là dịch vụ thanh toán qua ngân hàng. Vốn tiền
thiếu, nhiều doanh nghiệp thực hiện mua chịu, bán chịu, công nợ thanh toán tăng,
thoát ly ngoài hoạt động.
Như vậy lạm phát tăng cao đã làm suy yếu, thậm chí phá vỡ thị trường vốn, ảnh
hưởng lớn đến hoạt động của các NHTM. Sự không ổn định của giá cả, bao gồm cả giá
vốn, đã làm suy giảm lòng tin của các nhà đầu tư và dân chúng, gây khó khăn cho sự
lựa chọn các quyết định của khách hàng cũng như các thể chế tài chính - tín dụng. Vì
vậy xét ở góc độ các NHTM cần có những biện pháp kiềm chế lạm phát.
II/ Đầu tư tác động đến lạm phát:
1. Ngắn hạn – đầu tư thúc đẩy gia tăng lạm phát:
1.1 Kích thích, gia tăng tổng cầu – Lạm phát do cầu kéo:
Theo mô hình tổng cầu và tổng cung, ta xác định được tổng cầu:
AD = C + I + G + X – M.
Trong đó:
AD : tổng cầu
I : đầu tư
C : tiêu dùng của hộ gia đình
G : chi tiêu của chính phủ
X : xuất khẩu
M : nhập khẩu
Vì vậy, đầu tư là một bộ phận quan trọng của tổng cầu. Khi quy mô đầu tư
thay đổi cũng sẽ có tác động trực tiếp đến quy mô tổng cầu.
Ta xét đồ thị sau :
Ban đầu nền kinh tế đạt ở mức cân bằng E
0.
Trong ngắn hạn, khi các yếu tố
khác không đổi và tổng cung chưa kịp thay đổi, sự tăng lên của đầu tư sẽ làm cho
tổng cầu tăng lên. Đường tổng cầu dịch chuyển sang phải, AD
0
thành AD
1
. Kéo theo
đó là sản lượng thay đổi từ Q
0
sang Q
1
, giá cả các yếu tố đầu vào của đầu tư tăng từ P
0
lến P
1
. Điểm cân bằng dịch chuyển từ E
0
đến E
1
. Lúc này tổng lượng cầu của nền
kinh tế tăng lên mức sản lượng mà nền kinh tế phải sản xuất để đáp ứng nhu cầu là
Q
1
.
Trong thực tế đây là sự tăng lên của tổng cầu đầu tiên này là do rất nhiều
nguyên nhân.
• Thứ nhất, vốn đầu tư phát triển tăng làm tăng nhu cầu về nguyên vật liệu,
trang thiết bị. Nhu cầu tăng lại tiếp tục thúc đẩy giá của nguyên nhiên nguyên vật liệu
và trang thiết bị tăng mạnh.
• Thứ hai, nguy cơ tiềm ẩn tăng giá là các chính sách tiền tệ nới lỏng và chính
sách tài khóa mở rộng mà Chính phủ đang thực hiện. Các chính sách này một mặt
AS
0
AD
1
AD
0
Q
0
P
0
P
1
E
1
E
0
Giá
Sản lượng
Q
1
0
làm tăng cầu về tiêu dùng, một mặt kích thích đầu tư tăng cao, tạo nên sự gia tăng
mạnh của tổng cầu, đẩy giá cả lên cao.
• Bên cạnh những yếu tố liên quan đến đầu tư còn rất nhiều những nguyên
nhân khác như nhu cầu về tiêu dùng ngày càng tăng do đời sống tăng, nhu cầu về
xuất khẩu lương thực ra thế giới tăng trong khi nhu cầu trong nước chưa được đáp
ứng đầy đủ và trong nước gặp nhiều thiên tai, hay do ảnh hưởng của suy thoái chung
toàn thế giới… Và điều thiết yếu là sẽ gây ra việc giá cả trong nền kinh tế bị đẩy lên
nhanh chóng, gây ra lạm phát cao.
1.2 Tăng lượng cung tiền – Lạm phát do cung ứng tiền tệ :
Một trong những nguyên nhân gây ra việc tăng giá cả ( lạm phát ) chính là
việc tăng cung tiền. Thật vậy, vốn đầu tư trực tiếp làm tăng cung tiền cho nền kinh tế.
Hàng năm, lượng tiền được đặt vào nền kinh tế qua đầu tư rất lớn, dưới nhiều hình
thức khác nhau như đầu tư trong nước, đầu tư quốc tế trực tiếp, đầu tư quốc tế gián
tiếp... Tuy nhiên việc đầu tư quá nhanh và ồ ạt gây nên một số vấn đề bất cập vào hệ
thống tài chính, ngân hàng và cung tiền tệ của nền kinh tế.
Việc thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước khiến cơn lũ ngoại tệ đẩy vào
trong nước, tạo áp lực rất lớn lên đồng nội tệ. Nhằm duy trì tỷ giá hối đoái, một
lượng lớn đồng nội tệ sẽ được bơm vào cùng với tiền của nhà đầu tư trong nước.
Việc tăng cung tiền tệ đột ngột khi có cơn sốt đầu tư, khiến nhà sản xuất phải đối
mặt với hiện tượng giá nguyên vật liệu tăng và giá sản phẩm đầu ra cao, qua đó
tạo ra phản ứng dây chuyền khiến mặt bằng giá cả leo thang hay chính là gây ra lạm
phát.
1.3 Kích thích xuất nhập khẩu – Lạm phát do xuất nhập khẩu :
Các nhà kinh tế cho rằng xuất nhập khẩu được đẩy mạnh cũng là một trong
những nguyên nhân gây ra lạm phát.
Khi các dự án đầu tư tăng, đồng nghĩa với việc tăng tổng cầu, sản lượng hàng
hóa sản xuất được tăng nhanh. Do thị trường nước ngoài thường thu hút hơn thị
trường trong nước nên tỉ lệ xuất khẩu sẽ cao hơn tỉ lệ cung cấp trong nước, khiến
cung sản phẩm trong nước thấp hơn tổng cầu, tạo sự mất cân đối, gây lạm phát.
Ngoài ra, khi các dự án đầu tư gia tăng, đồng nghĩa với việc gia tăng xuất khẩu của các
doanh nghiêp, đẩy đồng ngoại tệ tăng giá cao so với đồng nội địa. Khi tỷ giá tăng, đồng
nội tệ mất giá, trước hết nó tác động tới tâm lý của những người sản xuất trong nước,
muốn kéo giá hàng lên theo mức tăng của tỷ giá hối đoái, dẫn đến lạm phát.
Đồng thời, việc tăng các dự án đầu tư cũng sẽ làm tăng nhập khẩu các yếu tố
đầu vào như nguyên liệu, nhiên liệu, các trang thiết bị và máy móc công nghệ cao ...
Khi đó, việc nước ngoài tăng giá các đầu vào hoặc tăng tỷ giá hối đoái sẽ làm cho chi
phí sản xuất tăng, tạo ra các cú sốc cung bất lợi. Theo như trường hợp lạm phát do
chi phí đẩy, việc tăng giá cả của nguyên liệu và hàng hoá nhập khẩu thường gây ra
phản ứng dây chuyền làm tăng giá cả của rất nhiều hàng hoá khác đặc biệt là hàng
hoá sử dụng nguyên liệu nhập khẩu và những ngành có mối liên hệ chặt chẽ, gây ra
lạm phát nghiêm trọng.
1.4 Đầu tư dàn trải – Lạm phát do cơ cấu :
Lạm phát cơ cấu nảy sinh do hiệu quả đầu tư thấp, đầu tư dàn trải, đặc biệt đối
với khu vực doanh nghiệp nhà nước. Đầu tư kém hiệu quả, cơ cấu đầu tư bất hợp lý
gây ra chênh lệch cung - cầu tiền tệ, hàng hoá và làm tăng lạm phát cơ cấu.
2. Ảnh hưởng dài hạn – Đầu tư giúp bình ổn thị trường, kiềm chế lạm phát :
2.1 Sự gia tăng nguồn cung trong dài hạn :
Tổng cung của nền kinh tế trong dài hạn phụ thuộc vào công nghệ, khối lượng
tư bản và lực lượng lao động sẵn có.
Q = F ( K, L, T, …)
Trong đó:
K là vốn đầu tư
L là lao động
T là công nghệ
Trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, khi tăng quy mô vốn đầu tư thì sẽ
là nguyên nhân trực tiếp làm tăng tổng cung của nền kinh tế. Mặt khác, tác động của
vốn đầu tư còn nâng cao chất lượng nguồn lực và đổi mới công nghệ … Do đó, đầu
tư gián tiếp làm tăng tổng cung của nền kinh tế.