Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Thuế giá trị gia tăng là thuế đánh vào bên cung hay bên cầu ? Loại thuế này do ai trả?

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (78.72 KB, 16 trang )

Môn: Kinh tế công cộng
Nhóm: 9
Đề tài:Thuế giá trị gia tăng là thuế đánh vào bên cung hay bên cầu ? Loại thuế này do ai
trả?
ĐỀ CƯƠNG
Lời mở đầu
Phần I: Một số vấn đề lý luận về thuế và thuế giá trị gia tăng
Cơ sở lý thuyết về thuế ( Lê Thúy)
Thuế giá trị gia tăng ( Công Thức)
Khái niệm
Đối tượng chịu thuế
Thuế giá trị gia tăng do người tiêu dùng chiụ nhưng không phải do người tiêu dùng trực
tiếp nộp mà là do người bán sản phẩm (hoặc dịch vụ) nộp thay vào kho bạc, do trong giá
bán hàng hoá (hoặc trong dịch vụ) có cả thuế giá trị gia tăng. Vì qua từng công đoạn, thuế
giá trị gia tăng đã được người bán đưa vào giá hàng hoá, dịch vu,ỷ cho nên thuế
này được chuyển toàn bộ cho người mua hàng hoá hoặc sử dụng dịch vụ cuối cùng chịu.
Ðể áp dụng thuế giá trị gia tăng cho đúng đắn, công bằng, có hiệu quả, đáp ứng được chủ
trương " góp phần thúc đẩy sản xuất, khuyến khích phát triển nền kinh tế quốc dân, động
viên một phần thu nhập cuả người tiêu dùng vào ngân sách nhà nước", cần phải giải
quyết trước hết một số vấn đề sau:
• Các hoạt động sản xuất kinh doanh, mua bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ lớn và
vừa
phải thực hiện đầy đủ chế độ hoá đơn, chứng từ hợp lệ tạo điều kiện thuận lợi cho việc
kiểm tra, xác định doanh thu tính thuế và khấu trừ thuế đối với từng cơ sở kinh doanh.
• Công tác kế toán doanh nghiệp, nhất là kế toán chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm phải được hướng dẫn thực hiện thật tốt, đảm bảo được giá thành sản
phẩm phản ảnh trung thực các chi phí thực tế phát sinh đã cấu tạo ra sản phẩm lưu thông
trên thị trường đến tay người tiêu dùng. Hệ thống bán lẻ (các cửa hàng, cửa hiệu, các siêu
thị) cũng được hướng dẫn chế độ sổ sách kế toán hợp lệ, thực hiện nghiêm chỉnh và được
kiểm tra chặt chẽ. Chỉ số giá cả lên xuống từng thời kỳ phải được quy định rõ để tiến
hành điều chỉnh giá bán lẻ, đảm bảo giá trị tăng thêm hợp lý.


• Trình độ cán bộ quản lý thu thuế phải được nâng cao về chế độ hoá đơn, chứng từ,
sổ kế toán, thông thạo về chế độ quản lý, tính thuế, khấu trừ thuế, hoàn thuế giá trị gia
tăng. Hơn nữa, khi áp dụng thuế giá trị gia tăng thì vai trò cuả người thu thuế đồng thời
cũng là người trả thuế (thoái thu) và vai trò cuả người nộp thuế cũng là người thu thuế
(được cơ quan thuế khấu trừ hoặc hoàn lại). Người thu thuế phải có khả năng tính được
mức thuế phải thu, mức thuế khấu trừ cho đúng, đũ, kịp thời. Về khả năng thì có thể đào
tạo được, nhưng vấn đề quan trọng nhất là người thu thuế nếu kém phẩm chất sẽ có điều
kiện để tiêu cực, đó là việc tính mức khấu trừ, mức thoái thu cao hơn mức chính xác,
làm thiệt hại cho ngân sách nhà nước hoặc khấu trừ không đủ, hoàn thuế chậm trễ làm
thiệt hại cho các chủ thể đã chịu thuế trong quá trình sản xuất, kinh doanh. Ðối với người
nộp thuế, tất nhiên ngoài khả năng tính toán đầy đủ số thuế mình còn phải nộp sau khi
được khấu trừ, còn phải có đầy đủ phẩm chất cuả một nhà kinh doanh lương thiện xem
việc nộp thuế đầy đủ, kịp thời là một nghĩa vụ hợp lý và công bằng.
• Mở rộng diện thanh toán mua bán hàng hoá thông qua các tài khoản ngân hàng, tạo
điều kiện cho việc xác định doanh thu bán hàng, làm căn cứ cho việc tính thuế được
chính xác.
• Ý thức tự nguyện, tự giác chấp hành các luật thuế cuả các doanh nghiệp từng bước
được nâng lên, gắn liền với việc xử lý nghiêm các hành vi vi phạm về thuế.
• Hệ thống pháp luật ngày càng hoàn thiện và đưa dần việc thực hiện pháp luật vào
nề nếp, kỷ cương, cả trong nhận thức tư tưởng và trong hành động thực tế.
Đối tượng nộp thuế
Ðối tượng nộp thuế giá trị gia tăng là các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hoá,
dịch vụ chịu thuế và tổ chức, cá nhân khác nhập khẩu hàng hoá chịu thuế là đối tượng
nộp thuế giá trị gia tăng.
3.1 Tổ chức sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ: bao gồm:
• Doanh nghiệp nhà nước,
• Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và bên nước ngoài tham gia hợp tác kinh doanh
theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
• Các công ty nước ngoài và tổ chức nước ngoài hoạt động kinh doanh ở Việt Nam không
theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.

• Doanh nghiệp tư nhân
• Công ty trách nhiệm hữu hạn
• Công ty cổ phần.
• Hợp tác xã
• Tổ hợp tác
• Tổ chức kinh tế của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị- xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức
xã hội-nghề nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân và các tổ chức, đơn vị sự nghiệp khác.
3.2 Cá nhân sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ:
Bao gồm những người có kinh doanh độc lập, hộ gia đình, cá nhân hợp tác với nhau để
cùng sản xuất kinh doanh nhưng không hình thành pháp nhân kinh doanh.
Đánh giá chung (Thuế giá trị gia tăng đánh vào cung hay cầu- Hoài Thương)
- Thuế giá trị gia tăng là thuế tính trên giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát
sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng.
- Thuế GTGT là loại thuế gián thu.
Thuế gián thu là loại thuế được cộng vào giá, là một bộ phận cấu thành của giá cả hàng
hoá.Thuế gián thu là hình thức thuế gián tiếp qua một đơn vị trung gian (thường là các
doanh nghiệp) để đánh vào người tiêu dùng. Thuế gián thu là thuế mà người chịu thuế
và người nộp thuế không cùng là một
Đối tượng nộp thuế GTGT là người cung ứng hàng hóa, dịch vụ, người chịu thuế là
người tiêu dùng cuối cùng. Thuế GTGT là một khoản tiền được cộng vào giá bán hàng
hóa, dịch vụ mà người mua phải trả khi mua hàng.
- Một trong những nguyên tắc cơ bản của thuế giá trị gia tăng là sản phẩm, hàng hóa
dù qua nhiều khâu hay ít khâu từ sản xuất đến tiêu dùng đều chịu thuế như nhau.
- Thuế giá trị gia tăng có đặc điểm là chỉ có người bán hàng (hoặc cung cấp dịch vụ)
lần đầu phải nộp thuế giá trị gia tăng trên toàn bộ doanh thu bán hàng (hoặc cung ứng
dịch vụ) còn người bán hàng (hoặc cung ứng dịch vụ) ở những khâu tiếp theo đối với
hàng hóa, dịch vụ đó chỉ phải nộp thuế trên phần giá trị tăng thêm. Nói cách khác, thuế
giá trị gia tăng là loại thuế duy nhất thu theo phân đoạn chia nhỏ, trong quá trình sản
xuất, lưu thông hàng hóa, dịch vụ từ khâu đầu tiên đến người tiêu dùng, khi khép kín một
chu kỳ kinh tế. Đến cuối chu kỳ sản xuất, kinh doanh hoặc cung cấp dịch vụ, tổng số thuế

thu được ở các công đoạn sẽ khớp với số thuế tính trên giá bán hàng hóa hoặc giá dịch vụ
cho người tiêu dùng cuối cùng
- Thuế giá trị gia tăng do người tiêu dùng chịu nhưng không phải do người tiêu
dùng nộp trực tiếp mà do người bán sản phẩm (cung ứng dịch vụ) nộp thay vào kho bạc
do trong giá bán hàng hóa (hoặc trong dịch vụ) có cả thuế giá trị gia tăng. Vì qua từng
công đoạn, thuế giá trị gia tăng đã được người bán đưa vào giá hàng hóa, dịch vụ nên
thuế được chuyển toàn bộ cho người mua hàng hóa hoặc sử dụng dịch vụ cuối cùng chịu
- Cách xác định số thuế giá trị gia tăng cũng phần nào khẳng định thuế GTGT là
đánh vào người tiêu dùng cuối cùng
• Thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ:
Thuế GTGT phải nộp = Thuế GTGT đầu ra – thuế GTGT đầu vào
Thuế GTGT đầu vào (ra) = giá tính thuế x thuế suất
Ví dụ:
Người trồng rừng bán gỗ cho doanh nghiệp sản xuất bàn ghế giá 10 triệu, doanh nghiệp
sau khi gia công, chế tác lượng gỗ đó sẽ bán cho cửa hàng nội thất giá 20 triệu/bộ. Cửa
hàng nội thất này sẽ bán cho người tiêu dùng giá 30 triệu. Đây là những giá bán chưa tính
thuế giá trị gia tăng. Với thuế suất 10% có thể tính thuế giá trị gia tăng như sau:
- Người trồng rừng sẽ bán gỗ cho doanh nghiệp sản xuất bàn ghế với giá 11 triệu
bao gồm VAT = 10.10% = 1 triệu
- Doanh nghiệp sản xuất bàn ghế sẽ bán cho cửa hàng nội thất giá 22 triệu với thuế
VAT đầu ra = 20.10% = 2 triệu, VAT đầu vào được khấu trừ = 1 triệu
Nên thuế VAT phải nộp = 2 – 1 = 1 triệu
- Cửa hàng nội thất lại bán cho người tiêu dùng giá 33 triệu với thuế VAT đầu ra =
30.10% = 3 triệu, VAT đầu vào được khấu trừ = 2 triệu
Thuế VAT phải nộp = 3 – 2 = 1 triệu
Như vậy, chính phủ sẽ thu được số thuế VAT = 1 + 1 +1 = 3 triệu
Cũng dễ dàng thấy rằng thuế này người tiêu dùng phải chịu bởi thay vì mua bộ bàn ghế
với giá 30 triệu thì họ phải trả số tiền là 33 triệu bao gồm cả thuế GTGT
• Thuế giá trị gia tăng theo phương pháp trực tiếp:
Số thuế GTGT phải nộp = Giá trị gia tăng của hàng hóa, dịch vụ chịu thuế x

Thuế suất thuế GTGT của hàng hóa, dịch vụ đó
GTGT của hàng hóa, dịch vụ
= Doanh số của hàng hóa, dịch vụ bán ra - Giá vốn của hàng hóa, dịch vụ bán ra
Phương pháp này cũng sẽ dẫn tới kết luận tương tự
Kết luận: Thuế giá trị gia tăng là thuế đánh vào cầu
Phần II: Phân tích thực trạng vấn đề nộp thuế GTGT từ đó đề xuất một số giải pháp hoàn
thiện thuế GTGT tại Việt Nam
2.1. Thực trạng vấn đề nộp thuế GTGT ở nước ta ( Đình Thi)
( Trong đó nêu rõ thuế GTGT do ai trả ???)
Thực trạng thu và nộp thuế GTGT
2.1.1 Quản lý nhà nước về thuế:
a. Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm cuả cơ quan thuế:
• Hướng dẫn các cơ sở kinh doanh đã đăng ký kinh doanh thực hiện chế độ đăng ký, kê
khai, nộp thuế giá trị gia tăng theo đúng quy định cuả Luật thuế giá trị gia tăng.
• Thông báo cho cơ sở kinh doanh về số thuế phải nộp và thời hạn nộp thuế theo đúng
quy định. Thông báo nộp thuế phải gửi tới đối tượng nộp thuế trước ngày phải nộp ghi
trên thông báo chậm nhất là 3 ngày, thời hạn nộp thuế cuả tháng chậm nhất không quá
ngày 25 cuả tháng tiếp sau. Nếu quá thời hạn nộp thuế ghi trên thông báo mà cơ sở kinh
doanh chưa nộp thì tiếp tục ra thông báo về số thuế phải nộp và số tiền phạt chậm nộp
theo quy định. Nếu cơ sở kinh doanh vẫn không nộp đủ số thuế, số tiền phạt theo thông
báo thì có quyền áp dụng các biện pháp xử lý theo quy định cuả pháp luật để thu đủ số
thuế, số tiền phạt; nếu đã thực hiện các biện pháp xử lý trên mà cơ sở kinh doanh vẫn
không nộp đủ số thuế, số tiền phạt thì chuyển hồ sơ sang cơ quan nhà nước có thẩm
quyền để xử lý theo quy định cuả pháp luật.
• Kiểm tra, thanh tra việc kê khai, nộp thuế, quyết toán thuế cuả cơ sở kinh doanh, bảo
đảm thực hiện đúng quy định cuả pháp luật.
• Xử lý vi phạm hành chính về thuế và giải quyết khiếu nại về thuế.
• Yêu cầu các đối tượng nộp thuế cung cấp sổ kế toán, hoá đơn, chứng từ và hồ sơ tài liệu
khác có liên quan tới việc tính thuế, nộp thuế; yêu cầu các tổ chức tín dụng, ngân hàng và
các tổ chức, cá nhân có liên quan khác cung cấp các tài liệu có liên quan đến việc tính

thuế và nộp thuế.
• Lưu giữ và sử dụng số liệu, tài liệu mà cơ sở kinh doanh và các đối tượng khác cung
cấp theo chế độ quy định.
6.2 Xử lý vi phạm về thuế:
Ðối tượng nộp thuế vi phạm Luật thuế giá trị gia tăng thì bị xử lý như sau:
• Không thực hiện đúng những quy định về đăng ký, kê khai, nộp thuế, quyết toán thuế,
chế độ kế toán và lưu giữ chứng từ, hoá đơn theo quy định tại các điều 11, 12, 13, 14 và
15 cuả Luật thuế giá trị gia tăng thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý vi
phạm hành chính về thuế.
• Nộp chậm tiền thuế, tiền phạt so với ngày quy định phải nộp hoặc quy định xử lý về
thuế thì ngoài việc nộp đủ số thuế, số tiền phạt, mỗi ngày nộp chậm còn phải nộp phạt
bằng 0,1% (một phần nghìn) số tiền chậm nộp.
• Khai man thuế, trốn thuê ỳthì ngoài việc phải nộp đủ số thuế theo quy định cuả Luật
này, tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm còn bị phạt tiền từ một đến năm lần số tiền gian
lận; trốn thuế với số lượng lớn hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về thuế mà còn vi
phạm hoặc có hành vi vi phạm nghiêm trọng khác thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự
theo quy định cuả pháp luật.
• Không nộp thuế, nộp phạt theo thông báo hoặc quyết định xử lý về thuế thì bị xử lý như
sau:
• Trích tiền gửi cuả đối tượng nộp thuế tại Ngân hàng, kho bạc, tổ chức tín dụng để
nộp thuế, nộp phạt.
• Giữ hàng hoá, tang vật để bảo đảm thu đủ số thuế, số tiền phạt.
• Kê biên tài sản theo quy định cuả pháp luật để bảo đảm thu đủ số thuế, số tiền phạt
cò thiếu.
b. Giải quyết khiếu nại về thuế:
• Cơ quan thuế khi nhận được khiếu nại về thuế phải xem xét giải quyết trong thời hạn 15
ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại, đối với những vụ việc phức tạp thì thời hạn đó có
thể kéo dài ngưng không được quá 30 ngày; nếu vụ việc không thuộc thẩm quyền giải
quyết cuả mình thì phải chuyển hồ sơ hoặc báo cáo cơ quan có thẩm quyền giải quyết và
thông báo cho người khiếu nại biết trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được khiếu

nại.
• Cơ quan thuế nhận khiếu nại có quyền yêu cầu người khiếu nại cung cấp các hồ sơ, tài
liệu liên quan đến việc khiếu nại; nếu người khiếu nại từ chối cung cấp hồ sơ, tài liệu thì
có quyền từ chối xem xét giải quyết khiếu nại.
• Cơ quan thuế phải hoàn trả số tiền thuế, số tiền phạt thu không đúng cho đối tượng nộp
thuế trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định cuả cơ quan thuế cấp trên
hoặc cơ quan có thẩm quyền theo quy định cuả pháp luật.
• Nếu phát hiện và kết luận có sự khai man, trốn thuế và có sự nhầm lẫn về thuế, cơ quan
thuế có trách nhiệm truy thu tiền thuế, tiền phạt hoặc hoàn trả tiền thuế trong thời hạn 5
năm trở về trước, kể từ ngày kiểm tra có sự khai man, trốn thuế hoặc nhầm lẫn về thuế.
Trường hợp cơ sở kinh doanh không đăng ký kê khai, nộp thuế thì thời hạn truy thu tiền
thuế, tiền phạt kể từ khi cơ sở kinh doanh bắt đầu hoạt động.
• Thủ trưởng cơ quan thuế cấp trên có trách nhiệm giải quyết các khiếu nại về thuế của
đối tượng nộp thuế đối với cơ quan thuế cấp dưới.
c. Nộp thuế:
Thuế giá trị gia tăng nộp vào ngân sách nhà nước theo quy định sau:
• Cơ sở kinh doanh nộp thuế giá trị gia tăng đầy đủ, đúng hạn vào ngân sách nhà nước
theo thông báo nộp thuế cuả cơ quan thuế. Thời hạn nộp thuế cuả tháng được ghi trong
thông báo chậm nhất không quá ngày 25 cuả tháng tiếp theo.
• Cơ sở kinh doanh, người nhập khẩu hàng hoá phải nộp thuế giá trị gia tăng theo từng
lần nhập khẩu. Thời hạn thông báo và thời hạn nộp thuế giá trị gia tăng đối với hàng nhập
khẩu thực hiện theo thời hạn thông báo và thời hạn nộp thuế nhập khẩu.
• Trong kỳ tính thuế, cơ sở kinh doanh nộp thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu
trừ thuế, nếu có số thuế đầu vào lớn hơn số thuế đầu ra thí được khấu trừ vào kỳ tính thuế
tiếp theo. Trong trường hợp cơ sở kinh doanh đầu tư mới tài sản cố định, có số thuế đầu
vào được khấu trừ lớn thì được khấu trừ dần hoặc được hoàn thuế theo quy định cuả
Chính phủ.
• Thuế giá trị gia tăng nộp vào ngân sách nhà nước bằng đồng Việt Nam .
2.2. Nguyên nhân tồn tại bất cập trong việc thu thuế GTGT ( Duy Thuận)
Một là, quy định chưa đầy đủ về đối tượng chịu thuế GTGT.

Hiện nay, theo quy định của Luật thuế GTGT, đối với hàng hóa là nông, lâm, thủy, hải
sản chưa qua chế biến không phân biệt trực tiếp sản xuất hay kinh doanh thương mại là
đối tượng không chịu thuế GTGT. Điều này có tác dụng bảo hộ sản xuất kinh doanh
(SXKD) trong nước đối với những mặt hàng này nhưng sẽ khiến cho tính chất hàng hóa
của các đối tượng này không được coi trọng, khả năng cạnh tranh khu vực, quốc tế ngày
càng giảm sút và là nguyên cớ để các quốc gia dựng rào cản thương mại với hàng nông,
lâm, thủy, hải sản xuất khẩu của Việt Nam.
Đối với các loại thiết bị, máy móc chuyên dùng thuộc dây chuyền công nghệ, vật tư xây
dựng trong nước chưa sản xuất được, cần nhập khẩu không phải chịu thuế GTGT, qua
thời gian thực hiện cho thấy việc không đánh thuế GTGT vào nhóm đối tượng này nhằm
giúp các nhà đầu tư không phải ứng vốn để trả trước tiền thuế, nhưng chi phí và thời gian
cho ngành thuế xác định hết được danh mục các đối tượng diện này khá khó khăn. Và khi
không quản lý hết được thì vô tình sắc thuế này đang tạo ra một cuộc cạnh tranh không
cân sức của các loại thiết bị, máy móc chuyên dùng thuộc dây chuyền công nghệ, vật tư
xây dựng trong nước có thể sản xuất được với hàng nhập khẩu.
Đối với các hàng hóa, dịch vụ như: dịch vụ y tế công cộng; hoạt động dạy học, dạy nghề;
hoạt động văn hóa, xuất bản báo chí, phát thanh, truyền hình; các dịch vụ công ích; dịch
vụ tưới tiêu thủy lợi; dịch vụ quốc phòng an ninh; chuyển quyền sử dụng đất, nhà của nhà
nước bán cho người tiêu dùng… đến nay vẫn chưa có tên trong danh sách chịu thuế
GTGT. Đây là một kẽ hở khá lớn vừa làm thất thu cho NSNN vừa chưa tạo ra sự công
bằng đối với các chủ thể đầu tư vốn kinh doanh ở các lĩnh vực khác.
Hai là, về đối tượng nộp thuế GTGT và thuế suất.
Hiện nay quy định cả các hộ đăng ký kinh doanh có quy mô nhỏ, doanh số thấp cũng
thuộc diện chịu thuế GTGT đang gây khó khăn lớn cho các cán bộ và cơ quan thuế địa
phương, hiệu quả thu thuế rất thấp.
Ba là, về phương pháp tính thuế và chứng từ kế toán thuế.
Theo quy định hiện hành, các doanh nghiệp được quyền lựa chọn một trong hai cách tính
thuế GTGT: khấu trừ hoặc trực tiếp; sử dụng một trong hai loại hoá đơn bán hàng tương
ứng là: Hóa đơn GTGT và hóa đơn bán hàng thông thường (ngoài ra còn có: hóa đơn đặc
thù, bảng kê mua hàng hóa của người không có hóa đơn) làm nảy sinh hiện tượng thuế

trùng thuế và nguy cơ gian lận thuế. Trong trường hợp doanh nghiệp thực hiện phương
pháp khấu trừ thuế GTGT có quan hệ kinh tế với doanh nghiệp thực hiện tính thuế GTGT
theo phương pháp trực tiếp hoặc hộ kinh doanh thì cả hai bên đều bị thiệt hại. Cụ thể: Đối
với doanh nghiệp áp dụng phương pháp khấu trừ để tính thuế GTGT khi mua hàng hóa,
dịch vụ của doanh nghiệp áp dụng phương pháp trực tiếp để tính thuế GTGT thì dù có
hoá đơn bán hàng (đã có thuế GTGT) nhưng không được sử dụng để khấu trừ thuế. Bởi,
theo quy định chỉ có hóa đơn GTGT hoặc hóa đơn đặc thù của các đơn vị nộp thuế theo
phương pháp khấu trừ thuế GTGT phát hành mới được khấu trừ thuế. Như vậy, trong các
doanh nghiệp này mặc dù đã tuân thủ chế độ kế toán, giao dịch kinh tế có chứng từ pháp
lý đầy đủ, nhưng trong chi phí hợp lý hình thành giá bán hàng hóa dịch vụ chịu thuế
GTGT vẫn có một phần thuế GTGT đầu vào không được khấu trừ. Khi tiêu thụ sản phẩm,
doanh nghiệp phải nộp thuế GTGT đầu ra trên tổng giá trị hàng hoá. Vậy là, thuế GTGT
đầu ra vẫn đang đánh chồng lên thuế GTGT đầu vào làm doanh nghiệp mất đi một khoản
lợi nhuận, đó là sự bất bình đẳng không đáng có.
Tương tự, khi doanh nghiệp thực hiện phương pháp tính thuế GTGT trực tiếp mua dịch
vụ, hàng hoá của các doanh nghiệp áp dụng tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ
để dùng vào sản xuất kinh doanh hàng hóa dịch vụ chịu thuế GTGT, doanh nghiệp cũng
có hóa đơn GTGT do doanh nghiệp áp dụng phương pháp khấu trừ thuế GTGT phát hành
cũng không được khấu trừ thuế GTGT, họ cũng phải trả phần thuế GTGT đầu vào chìm
trong giá bán ở đầu ra, tức là thuế vẫn đánh chồng lên thuế. Đến nay, đã hơn 10 năm thực
hiện Luật thuế GTGT nhưng tính ưu việt của Luật thuế này vẫn chưa thể thực hiện được
một cách toàn diện và triệt để. Quy định về hai phương pháp tính thuế với hai loại hóa
đơn bán hàng hiện nay chỉ phù hợp với giai đoạn đầu áp dụng Luật thuế GTGT để các
đơn vị kinh doanh có “dự lệnh” chuẩn bị các điều kiện cần thiết để thống nhất một chế độ
chứng từ và một phương pháp tính thuế thống nhất.
Bốn là, về khấu trừ và hoàn thuế.
Ngoài những bất cập về chứng từ và phương pháp tính thuế như đã phân tích thì hiện nay
cả doanh nghiệp và cơ quan thuế đều gặp khá nhiều khó khăn khi triển khai các quy định
về khấu trừ và hoàn thuế. Cụ thể: Về khấu trừ thuế, hiện nay, một trong những điều kiện
doanh nghiệp được khấu trừ thuế GTGT đầu vào là phải có chứng từ thanh toán qua ngân

hàng đối với hàng hóa, dịch vụ trừ trường hợp tổng giá trị thanh toán đã có thuế từng lần
theo hóa đơn dưới 20 triệu đồng. Việc phân biệt giao dịch có giá trị dưới 20 triệu đồng
không cần phải thanh toán qua ngân hàng vẫn được khấu trừ thuế đang là một kẽ hở để
các doanh nghiệp gian lận thuế bằng cách khi tách hóa đơn có giá trị giao dịch lớn thành
nhiều hóa đơn có giá trị giao dịch nhỏ, cơ quan thuế rất khó kiểm soát được hiện tượng
này.
Về hoàn thuế: Đối với cơ sở xuất khẩu có số thuế đầu vào của hàng hóa xuất khẩu phát
sinh trong tháng chưa được khấu trừ nhỏ hơn 200 triệu đồng thì vẫn không được hoàn
thuế theo tháng. Các cơ sở kinh doanh không có hoạt động xuất khẩu hoặc có nhưng giá
trị thấp, thì dù số thuế đầu vào trong tháng phát sinh cao đến mấy vẫn không được hoàn
lại theo tháng mà phải chờ đủ 3 tháng. Đây là hạn chế rất lớn của quy định về hoàn thuế
vì đồng vốn của các doanh nghiệp bị đông cứng khá lâu ảnh hưởng đến quá trình kinh
doanh tiếp theo.
( Thông tin được trích dẫn từ bài viết của TS. Nghiêm Thị Thà-Học viện Tài chính tại
)
2.3. Một số kiến nghị, đề xuất nhằm hoàn thiện thuế GTGT ở Việt Nam ( Lệ Thu )
2.3.1. Về chính sách
a. Đối tượng chịu thuế
Mục tiêu của thuế GTGT là mở rộng diện chịu thuế và hạn chế các đầu mối. Tình hình
luật thuế của nước ta hiện nay thì hạn chế bớt số nhóm đối tượng thuộc diện không chịu
thuế, nghiên cứu bổ sung thêm các đối tượng thuế mới phát sinh trong nền kinh tế là
hướng đi chính xác. Biện pháp này sẽ ổn định được nguồn thu cho ngân sách nhà nước và
tạo điều kiện cho việc tính thuế, khấu trừ thuế được liên hoàn giữa các khâu của quá trình
sản xuất.
Theo quy định hiện hành của luật thuế GTGT thì luật thuế nước ta chưa quy định ngưỡng
thuế, phạm vi các đối tượng áp dụng thuế GTGT quá rộng. Vì vậy giải pháp cho vấn đề
này là quy định phạm vi áp dụng thuế chỉ nên giới hạn cho các đối tượng đủ điều kiện
tính thuế theo phương pháp khấu trừ, còn tất cả những các nhân, hộ kinh doanh không đủ
điều kiện áp dụng thuế GTGT thì sẽ chuyển sang áp dụng loại thuế khác.
b. Thuế suất

Thuế suất có thể coi là linh hồn của một sắc thuế. Luật thuế GTGT của nước ta đang quy
định 3 mức thuế suất là 0%, 5%, 10%. Nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển, nhiều
mức thuế suất làm cho công tác hoạch định chính sách, công tác tính toán thuế trở nên
khó khăn, phức tạp và tốn kém hơn. Mặt khác, trong một chu trình sản xuất tổng số thuế
phải nộp của một hàng hóa nào đó hoàn toàn phụ thuộc vào giá cả và thuế suất ở khâu
cuối cùng, do đó việc áp dụng nhiều mức thuế suất ở các khâu trước không ảnh hưởng
đến tổng số thuế phải nộp. Nên việc sử dụng một mức thuế suất (ngoài mức 0%) là hoàn
toàn hợp lý. Biện pháp này sẽ giúp cho công tác hoạch định chính sách của cơ quan chức
năng thuận lợi hơn, ít tốn kém chi phí vào việc xác định tiêu thức phân loại đối tượng
chịu thuế.
c. Phương pháp tính thuế
Để hạn chế bớt những bất cập không hợp lý trong phương pháp tính thuế như hiện nay thì
chúng ta nên thực hiện phương pháp tính thuế thống nhất là khấu trừ, còn đối với các
trường hợp không đủ khả năng hạch toán độc lập có thể nghiên cứu đến việc thu thuế
khoán hoặc chuyển các đối tượng này sang áp dụng hình thức thu thuế đơn giản theo tỷ lệ
% doanh thu. Thực tế hiện nay có một lượng lớn các hộ kinh doanh cá thể nên việc
chuyển đổi phương pháp tính thuế cho nhóm đối tượng này phải được tiến hành đồng bộ
với các biện pháp khác để tránh thất thu thuế cho ngân sách nhà nước.
d. Hóa đơn, chứng từ
Để khắc phục những khúc mắc về hóa đơn chứng từ, bộ tài chính đã ban hành nhiều quy
định mới. Tuy nhiên, thực tế, các quy định vẫn còn có kẽ hở để các đối tượng lợi dụng
chiếm đoạt tiền của nhà nước, do vậy cần bãi bỏ hoặc sửa đổi một số quy định về quản
lý, sử dụng hóa đơn không hợp lý hoặc có sơ hở như: Bãi bỏ quy định về lập hóa đơn
theo số hàng hóa trên bảng kê bán lẻ. Dùng bảng kê 06/GTGT làm căn cứ tính thuế, có
quy định quản lý đối với chứng từ này. Bổ sung quy định, tổ chức, cá nhân kinh doanh sử
dụng hóa đơn bán hàng như các trường hợp nộp thuế theo phương pháp khấu trừ.
- Nên duy trì việc sử dụng hóa đơn đối với các hộ kinh doanh tính thuế theo phương pháp
trực tiếp đã thực hiện lập sổ sách kế toán theo quy định.
- Cần ban hành các văn bản pháp luật hướng dẫn về việc thực hiện chế độ hóa đơn chứng
từ một cách kịp thời khi có những thay đổi mới.

- Thay đổi biện pháp quản lý bằng hóa đơn, chứng từ, mở rộng diện đối với DN tự in hóa
đơn tránh được việc in và sử dụng hóa đơn giả như hiện nay.
- Nên giảm bớt khối luợng hóa đơn chứng từ của các khâu từ thông báo thuế, kê khai,
nộp thuế đến quyết toán thuế.
- Đa dạng hóa các công cụ kiểm soát hoạt động giao dịch kinh doanh trên thị trường
thông qua mở rộng thanh toán qua ngân hàng, bằng các loại thẻ tín dụng. Muốn vậy cần
hiện đại hóa hệ thống ngân hàng, nhanh chóng, thuận lợi trong quy trình thanh toán giao
dịch để không gây khó khăn cho DN.
e. Khấu trừ, kê khai, hoàn thuế GTGT
Quan điểm hoàn thiện thuế GTGT là phải tôn trọng thuộc tính trung lập của thuế, tức hạn
chế tối đa các quy định miễn giảm, khấu trừ bởi nó là nguyên nhân làm sói mòn mục tiêu
cốt lõi của thuế. Cần phải có những giải pháp để cải cách khâu hoàn thuế GTGT. Thứ
nhất, để giải toả mọi vướng mắc trong việc thi hành thông suốt việc khấu trừ và hoàn
thuế GTGT, cơ quan thuế các cấp phải công khai minh bạch mọi thủ tục hành chính thuế
theo nguyên tắc đề cao quyền chủ động, tự chịu trách nhiệm trong việc tự kê khai, nộp
thuế và xác định số thuế GTGT được hoàn trả. Thứ hai phải xem xét lại thời gian hoàn
thuế, đặc biệt là đối với các đối tượng có hoạt động xuất khẩu nhưng số thuế GTGT đầu
vào chưa được khấu trừ trong tháng nhỏ hơn 200 triệu đồng thì vẫn không được hoàn
thuế theo tháng. Thứ ba, quy định về ngưỡng hoàn thuế theo tháng hay theo quý đối với
doanh nghiệp là 200 triệu đồng dường như còn cứng nhắc bởi số tiền này có thể phù hợp
với địa phương này nhưng không phù hợp với địa phương khác do đó cần xem xét lại, tuỳ
theo đặc điểm của từng trường hợp mà có quy định thời hạn được hoàn thuế. Thứ tư, nên
quy định việc hoàn thuế đối với khách du lịch quốc tế mua hàng hóa của Việt Nam về
nước, việc hoàn thuế này cần tiến hành đơn giản nhanh gọn. Thứ năm, đối với những
vướng mắc về hoàn thuế GTGT của dự án ODA vay thì các chính sách nên sửa đổi theo
hướng quy định không thực hiện hoàn thuế cho các nhà thầu chính thực hiện dự án ODA
được ngân sách nhà nước cấp phát mà ngân sách nhà nước sẽ bố trí vốn đầy đủ để chủ dự
án trả thuế cho các nhà thầu chính.
f. Vấn đề ưu đãi thuế
Trong luật thuế GTGT ban hành các trường hợp không chịu thuế, được miễn giảm thuế là

máy móc thiết bị nhập khẩu theo nguồn tài trợ nhân đạo cho các tổ chức và các nhân ở
Việt Nam. Trường hợp sử dụng nguồn tài trợ của nước ngoài để mua hàng trong nước
dùng cho mục đích từ thiện thì được hoàn lại số thuế đầu vào. Nhiều tổ chức, DN đã lợi
dụng hình thức tặng quà, tài trợ để trốn thuế do đó cần có những biện pháp kiểm soát
hiện trạng này như là: Ban hành các quy định về việc kiểm soát sau khi hàng hóa nhập
khẩu, quản lý chặt chẽ các hội và tổ chức phi chính phủ ngay từ khi mới thành lập.
g. Chuẩn hóa các quy định pháp luật về thuế GTGT
Cần sửa đổi các nội dung về luật thuế GTGT phù hợp với các văn bản pháp luật khác và
theo hướng minh bạch hóa. Tức là phải quy định lại một cách rõ ràng, dễ hiểu bởi các văn
bản pháp luật trước đây còn chưa nhất quán, minh bạch nhằm đảm bảo đúng nguyên tắc
ban hành luật, đúng quy định của Luật ban hành các văn bản quy phạm pháp luật. Điều
này giúp các đối tượng thuộc phạm vi điều chỉnh của thuế GTGT hiểu và làm theo pháp
luật.
2.3.2. Về cơ chế quản lý
a. Cơ chế tự khai – tự nộp
Tự khai, tự nộp là một phương thức quản lý thuế hiện đại. Trong cơ chế này DN được tự
tính toán kê khai và nộp thuế. Do vậy, cần chú ý xem xét các trường hợp DN gian lận
trong việc nộp thuế. Cần phải xây dựng được một hệ thống xử phạt nghiêm khắc và có
hiệu quả để ngăn chặn sự bất tuân của một số các DN. Phải tổ chức bộ máy thanh tra đủ
mạnh để kịp thời phát hiện những gian lận của DN. Công tác thanh tra ngành thuế nói
chung và thanh tra lĩnh vực thuế GTGT nói riêng cần được tăng cường, cần kiểm tra trên
diện rộng và sau đó tiến hành kiểm tra có trọng tâm trọng điểm.
b. Kiện toàn tổ chức bộ máy, hoàn thiện công tác quản lý thuế
Cần hoàn thiện tổ chức bộ máy, công tác quản lý thuế nhằm tạo môi trường cho thuế
GTGT phát huy hết các ưu điểm. Trước đây, chính sách thuế của nước ta còn chưa đồng
bộ, bởi vậy trong thời gian tới cần xem xét, sửa đổi các chính sách thuế thống nhất với
các văn bản pháp luật, tạo sự thông thoáng, minh bạch và hiệu quả.
Tích cực tuyên truyền, giáo dục thông qua các phương tiện thông tin đại chúng và nhiều
hình thức khác để mọi người hiểu về chính sách thuế, trách nhiệm pháp luật để từ đó
nâng cao ý thức tự giác, chấp hành nghiêm chỉnh nghĩa vụ nộp thuế. Khuyến khích và

phát triển các dịch vụ tư vấn thuế.
Kiện toàn lại hệ thống quản lý thu thuế theo hướng cải cách hành chính, nâng cao quyền
hạn và trách nhiệm của bộ máy quản lý thuế. Ban hành bổ sung một số nội dung về quản
lý thuế trong các văn bản pháp luật như: các biện pháp nghiệp vụ, quy trình quản lý thu
thuế do cơ quan thuế ban hành và áp dụng nội bộ. Ban hành luật quản lý thuế để giảm
hiện tượng các đối tượng nộp thuế tìm mọi cách để trốn lậu thuế, chây ỳ, ỷ lại vào cơ
quan thuế trong việc tính thuế, tạo sơ hở cho cán bộ thuế có những hành vi không đúng.
Sắp xếp lại đội ngũ cán bộ quản lý thu theo hướng tập trung vào các khâu công
việc chính, đào tạo và tăng cường bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên sâu về quản lý thuế theo
phương pháp hiện đại, ứng dụng thành thạo công nghệ tin học. Xem trọng việc tuyển
chọn đội ngũ làm công tác tổ chức nhân sự.
Sự phát triển của hệ thống thuế không thể tách rời quá trình hiện đại hóa, áp dụng công
nghệ thông tin vào các quy trình quản lý. Đầu tư hệ thống công nghệ thông tin hiện đại để
tăng tốc độ sử lý công việc và giảm chi phí.
c. Kiến nghị đối với các cơ quan cấp trên
Để thuế GTGT ngày càng được hoàn thiện hơn thì Nhà nước, Chính phủ cần phải có
chiến lược cụ thể nhằm tác động vào các hoạt động của nền kinh tế xã hội, tạo môi
trường tốt nhất cho thuế phát huy được các ưu điểm.
- Thứ nhất, về công tác quản lý: Tình trạng xin-cho giữa các đơn vị cấp trên và cấp dưới
vẫn còn tồn tại, một số cán bộ quản lý cấp trên chưa thực sự làm hết chức trách quản lý
của mình cho nên đã để xảy ra nhiều thất thoát cho Nhà nước. Do đó, cần có sự quản lý
chặt chẽ, phân định trách nhiệm rõ ràng.
- Thứ hai, nhà nước cần hoàn thiện hệ thống luật pháp để thống nhất giữa các bộ luật,
tránh các vướng mắc khi giải quyết vấn đề liên quan đến thuế GTGT.
- Thứ ba, Nhà nước cần quan tâm chỉ đạo phát triển hệ thống ngân hàng, bởi các ngân
hàng phát triển đồng đều và vững mạnh tạo điều kiện cho công tác quản lý và thu thuế
thuận lợi, chính xác, tránh được thất thu thuế.
- Ngoài ra, hiện nay, chúng ta chưa có các trường đào tạo thuế riêng mà mới chỉ có các
chuyên ngành nhỏ trong các trường đại học,do đó sinh viên chỉ có kiến thức cơ bản, điều
này sẽ làm tốn một khoản chi phí lớn để đào tạo làm thực tế. Vì vậy, đầu tư cho các lớp

đào tạo cán bộ thuế là rất cần thiết.
Tóm lại để hoàn thiện thuế GTGT thì Nhà nước cần áp dụng rất nhiều biện pháp cả về
chính sách lẫn phương diện quản lý. Các biện pháp này phải được kết hợp một cách đồng
bộ chứ không thể tổ chức riêng lẻ.
Kết luận chung
Tài liệu tham khảo

×