I, MỞ BÀI
Trong bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Quốc hội
là đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất.
Nguyên tắc này lần đầu tiên được quy định trong Hiến pháp năm 1946 : “Nghị
viện nhân dân là cơ quan có quyền lực cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa.” (điều 22).Tiếp đó nguyên tắc này được củng cố và quy định rõ ràng hơn
trong Hiến pháp năm 1959: “ Tất cả quyền lực trong nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa đều thuộc về nhân dân, nhân dân sử dụng quyền lực của mình thông
qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp do nhân dân bầu ra và chịu trách
nhiệm trước nhân dân” ( Điều 4). Tại điều 82 Hiến pháp năm 1980 và điều 83
Hiến pháp 1992 đã khẳng định lại vị trí quan trọng của Quốc hội: “ Quốc hội là
cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất
của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”
II . GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1 , Quốc hội – đại biểu cao nhất của nhân dân .
Hiến pháp - luật cơ bản của Nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tại Điều 2 đã khẳng định : “Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên
minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức.” .Quốc hội
được xem là đại biểu cao nhất của nhân dân, thay mặt nhân dân thực hiện quyền
lực nhà nước.Tính đại diện cao nhất của Quốc hội nước ta thể hiện trên các 4
yếu tố sau:
1.1 , Về cách thức thành lập
Quốc hội khóa I của nước ta được thành lập vào năm 1946 dưới tên gọi là
Nghị viện nhân dân từ con đường bầu cử . Cách thức thành lập đến qua con
đường bầu cử trực tiếp được duy trì cho những nhiệm kì tiếp theo và cho đến
nay là Quốc hội khóa XIII.
Quốc hội là cơ quan duy nhất do cử tri cả nước bầu ra theo 4 nguyên tắc :
phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. ( Điều 1 ,Luật tổ chức Quốc hội
năm 2001 ) . Cử tri cả nước (tức là những công dân Việt Nam đủ 18 tuổi và
năng lực hành vi ) bầu ra những đại biểu Quốc hội thật sự ưu tú để nhân dân ủy
quyền, thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực Nhà nước của nhân dân . Thông
qua các đại biểu của mình cũng như các hình thức hoạt động của Quốc hội ,
nhân dân thể hiện quyền làm chủ của mình.
Trong nhiệm kỳ, nếu đại biểu nào tỏ ra không còn xứng đáng với sự tín
nhiệm của nhân dân có thể bị cử tri bãi nhiệm, miễn nhiệm . Đại biểu bị bãi
nhiệm khi có quá nửa tổng số cử tri đơn vị bầu cử hoặc ít nhất 2/3 tổng số đại
biểu bỏ phiếu bãi nhiệm.
1,2. Về cơ cấu, thành phần đại biểu
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ : “các đại biểu trong Quốc hội này không
phải đại diện cho một đảng phái nào mà đại diện cho toàn thể quốc dân Việt
Nam”, “Quốc hội là tiêu biểu cho ý chí thống nhất của dân tộc ta, một ý chí sắt
đá không gì lay chuyển nổi”.
Quốc hội là nơi quy tụ được bộ phận tinh hoa của các tầng lớp nhân dân, các
dân tộc anh em đang sống trên mọi vùng lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam . Quốc
hội thể hiện khối đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh công nông dưới sự
lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam ,phản ánh tiếng nói toàn dân tộc. Để đảm
bảo có số lượng thích đáng , số đại biểu là dân tộc thiểu số , phụ nữ do Uỷ ban
thường vụ Quốc hội dự kiến theo đề nghị của Hội đồng dân tộc ,Đoàn Chủ tịch
Ban chấp hành trung ương Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam ( theo điều 10, điều
10a Luật bầu cử Quốc hội năm 2001.)
Trong Quốc hội khóa I , có 333 đại biểu được bầu ra trong đó có 34 đại biểu
các dân tộc thiểu số và 57 % đại biểu các đảng phái khác nhau . Hiện nay , trong
Quốc hội khóa XIII , tổng số đại biểu là 500 người, trong đó: 33.4% đại biểu ở
các cơ quan trung ương; 65.8% đại biểu ở địa phương; 15.6% đại biểu là người
2
dân tộc thiểu số; 24.4% đại biểu là phụ nữ; 8.4% đại biểu là người ngoài Đảng;
12.2% đại biểu là trẻ tuổi (dưới 40); 33.2% là đại biểu Quốc hội khóa XII tái cử;
98,2% đại biểu có trình độ đại học và trên đại học; 7% đại biểu thuộc khối
doanh nghiệp; 33% đại biểu hoạt động chuyên trách ở các cơ quan của Quốc hội
và các Đoàn đại biểu Quốc hội; 0.8% đại biểu là người tự ứng cử
1.3 , Về thẩm quyền
Quốc hội có nhiệm vụ và quyền hạn to lớn để thiết lập trật tự chính trị,
pháp lý trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội của đất nước. Ở nước ta,
Quốc hội là cơ quan duy nhất có thẩm quyền quyết định những vấn đề thuộc chủ
quyền quốc gia, những vấn đề trọng đại của đất nước : Quốc hội là cơ quan duy
nhất có quyền lập hiến và lập pháp, quyết định những chính sách cơ bản về đối
nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước,
những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, về
quan hệ xã hội và hoạt động của công dân, thực hiện quyền giám sát tối cao đối
với toàn bộ hoạt động của Nhà nước ( Điều 1, Luật tổ chức Quốc hội năm
2001 ). Các quyết định của Quốc hội đều bắt nguồn từ ý chí, nguyện vọng của
nhân dân cả nước và tất cả đều nhằm phục vụ cho lợi ích chung của dân tộc, của
nhân dân và của đất nước.
Trong kỳ họp Quốc hội, Đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn về các vấn
đề của đất nước, khác với đa số các nước tư bản với sự chất vấn chỉ là đại diện
cho đơn vị bầu cử ra các nghị sĩ. Đây chính là một điểm tiến bộ của chế độ xã
hội chủ nghĩa.
1.4, Quốc hội chịu trách nhiệm trước nhân dân
Tính đại diện của Quốc hội còn thể hiện ở việc Quốc hội chịu sự giám sát
và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Đây là mối quan hệ ràng buộc hai chiều
giữa đại biểu Quốc hội với nhân dân.
Một trong những tiêu chuẩn của Đại biểu Quốc hội là : “ Liên hệ chặt chẽ
với nhân dân ,lắng nghe ý kiến của nhân dân, được nhân dân tín nhiệm .” ( trích
Điều 3 ,Luật bầu cử đại biểu Quốc hội năm 2001 ). Như vậy , Bắt nguồn từ nhân
dân và được sự tín nhiệm của nhân dân, các đại biểu quốc hội có trách nhiệm
gần gũi, lắng nghe ý kiến của nhân dân, phản ánh tâm tư nguyện vọng của nhân
dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân, phải xuất phát từ lợi ích của đông đảo
nhân dân để quyết định các vấn đề thuộc chức năng, nhiệm vụ của Quốc hội.
Quốc hội và các đại biểu Quốc hội chịu sự giám sát của nhân dân thông
qua việc bảo đảm cho nhân dân theo dõi quá trình làm việc của Quốc hội . Quốc
hội họp công khai , khi Quốc hội họp công khai công chúng có thể được đến dự
theo giấy mời của Văn phòng Quốc hội .Các cơ quan thông tấn, báo chí được
mời dự các phiên họp công khai của Quốc hội để phản ánh kịp thời ,chính xác
các hoạt động của Quốc hội đến với quần chúng nhân dân .
Đại biểu Quốc hội là những người ưu tú thuộc mọi dân tộc trong cả nước
được nhân dân tín nhiệm bầu ra nên chịu sự giám sát chặt chẽ của nhân dân,
hoạt động phục vụ cho lợi ích của quần chúng nhân dân. Điều này đã được quy
định rõ trong điều 97 Hiến pháp năm 1992( sửa đổi bổ sung năm 2001 ); các
điều 51, 52, 53, 54 chương IV của Luật tổ chức Quốc hội năm 2001. Theo đó:
Để cử tri có thể thực hiện được quyền giám sát của mình, Đại biểu Quốc hội
3
phải thường xuyên tiếp xúc với cử tri, tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của cử tri;
báo cáo với cử tri hoạt động của mình. Mỗi năm ít nhất một lần đại biểu phải
báo cáo với cử tri về việc thực hiện nhiệm vụ của mình. Tiếp dân là nhiệm vụ
thường xuyên của đại biểu Quốc hội, Đại biểu Quốc hội tiếp dân để nghe nhân
dân góp ý xây dựng nhà nước đồng thời giúp dân giải quyết những thắc mắc,
kiến nghị, khiếu nại và tố cáo …
Nhiệm kì của Quốc hội là 5 năm, việc tuyển cử các đại biểu Quốc hội mới
đảm bảm cho nhân dân có thể lựa chọn và bổ sung những đại diện mới vào cơ
quan quyền lực nhà nước cao nhất của mình.
2, Quốc hội – cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Vấn đề này đã được khẳng định trong 4 bản Hiến pháp nước ta.
Điều 22 Hiến pháp năm 1946 quy định: “ Nghị viện nhân dân là cơ quan có
quyền lực cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa “.Điều đó được quy
định rõ ràng hơn trong Hiến pháp năm 1959 : “ Quốc hội là cơ quan quyền
lực Nhà nước cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa “ (điều 43).
Trong hai bản Hiến pháp năm 1980 và 1992 vai trò của Quốc hội tiếp tục
được khẳng định : “ Quốc hội là cơ quan… quyền lực Nhà nước cao nhất của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.”
Tính quyền lực cao nhất thể hiện trong chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của Quốc hội:
Điều 83 Hiến pháp năm 1992 đã quy định rõ chức năng của Quốc hội bao
gồm ba phương diện chính sau:
“… Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp
Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ
kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về
tổ chưc và hoạt động của bộ máy Nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của
công dân.
Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà
nước.”
Các chức năng của Quốc hội đã được cụ thể hóa thành các nhiệm vụ và
quyền hạn của Quốc hội. Các nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội được quy
định trong điều 84 Hiến pháp năm 1992 và được cụ thể hóa trong Luật tổ chức
Quốc hội của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2001 . Bao gồm
những lĩnh vực :
• Trong lĩnh vực lập hiến và lập pháp:
Quyền “ đặt ra pháp luật ” của Quốc hội đã được quy định trong điều
23 Hiến pháp năm 1946 của nước ta. Đến Hiến pháp năm 1959, quyền lập pháp
của Quốc hội được khẳng định tại điều 44: “ Quốc hội là cơ quan duy nhất có
quyền lập hiên của nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa.” .Trên cơ sở đó Hiến pháp
năm 1980 đã quy định: “… Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và
lập pháp...” (điều 82) ,có quyền làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp , làm luật
và sửa đổi luật ( khoản 1, khoản 2 điều 83). Hiến pháp năm 1992 đã bổ sung
4
quyền quyết định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh để đảm bảo cho hoạt
động lập pháp của Quốc hội có hiệu quả hơn.
Điều 84 Hiến pháp hiện hành quy định chỉ Quốc hội có nhiệm vụ và
quyền hạn: “ Làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp, làm luật và sửa đổi luật, quyết
định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh.”
“Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là luật cơ bản của
Nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất . ( điều 146 HIến phăp năm 1992 ), quy
định các vấn đề quan trọng nhất về quyền lực Nhà nước và cách thức tổ chức
quyền lực Nhà nước, về chế độ chính trị, chế độ kinh tế, chế độ văn hoá – xã
hội, về cơ cấu tổ chức bộ máy Nhà nước, về quan hệ giữa Nhà nước và cá nhân,
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân… Hiến pháp và Luật thể hiện đường lối
cơ bản và những chủ trương lớn của Đảng đã được Nhà nước thể chế hoá và có
hiệu lực thi hành trên toàn lãnh thổ nước ta. Luật là văn bản có hiệu lực pháp lý
cao sau Hiến pháp.Các văn bản qui phạm pháp luật khác do các cơ quan nhà
nước ban hành phải căn cứ vào Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của Quốc hội và
không được trái với tinh thần, nội dung của Hiến pháp, Luật và Nghị quyết của
Quốc hội.
Chính vì vậy, chỉ có Quốc hội _ cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất mới
có quyền định ra các quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lí cao nhất, điều
chỉnh các quan hệ xã hội cơ bản nhất của xã hội ta. Quyền lập hiến và lập pháp
của Quốc hội xuất phát chính từ vị trí, tính chất của cơ quan quyền lực cao nhất
đó. Phải là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất mới có quyền định ra các quy
phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao nhất, điều chỉnh các quan hệ xã hội cơ
bản nhất của xã hội ta. Quốc hội giữ quyền làm hiến pháp thì cũng có quyền sửa
đổi hiến pháp; Quốc hội có quyền làm luật thì cũng có quyền sửa đổi luật.Quốc
hội còn có quyền quyết định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh.
• Trong lĩnh vực quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước:
Là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, Quốc hội có quyền quyết định
những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế – xã hội,
quốc phòng, an ninh của đất nước, qui định những nguyên tắc chủ yếu về tổ
chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của
công dân.
Trong Hiến pháp năm 1946, thẩm quyền của Quốc hội được quy định
chung tại Điều 23: “Nghị viện nhân dân giải quyết mọi vấn đề chung cho toàn
quốc, đặt ra các pháp luật, biểu quyết ngân sách, chuẩn y các hiệp ước mà Chính
phủ ký với nước ngoài”.Trong Hiến pháp 1980, phạm vi thẩm quyền của Quốc
hội trong việc thực hiện chức năng quyết định những vấn đề quan trọng của đất
nước được mở rộng hơn. Theo Điều 82 của Hiến pháp năm 1980, “Quốc hội
quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, những mục tiêu phát
triển kinh tế và văn hóa, những quy tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân”.
Hiến pháp năm 1992 khẳng định vị trí của Quốc hội là cơ quan đại biểu
cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội có chức năng quyết định các vấn đề quan
trọng của đất nước. Đến năm 2001, Hiến pháp 1992 được sửa đổi, bổ sung,
5