I, ĐẶT VẤN ĐỀ
Hội đồng dân tộc và các ủy ban của Quốc hội là các cơ quan của Quốc hội giữ
một vai trò hết sức quan trọng trong vấn điề giúp việc cho Quốc hội .Và các cơ
quan này ngày càng khẳng định được vai trò,vị trí của mình trong cơ quan
quyền lực cao nhất của cả nước_Quốc hội.Thông qua các hoạt động của mình
các cơ quan này đã phát huy được hết sức mạnh cũng như vai trò cua mình.Để
làm rõ hơn vấn đề này nhóm chúng em xin phân tích : “hoạt động của Hội đồng
dan tộc và các Uỷ ban của Quốc hội ”
II, GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1, Khái quát chung :
a : Vị trí của Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban thường trực của Quốc hội
Theo đó, Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội là các cơ quan
thường trực của Quốc hội, làm việc theo chế độ tập thể và quyết định theo đa
số. Hội đồng dân tộc các Uỷ ban của Quốc hội chịu trách nhiệm và báo cáo
công tác trước Quốc hội, trong thời gian Quốc hội không họp thì có nhiệm vụ
báo cáo công tác trước Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Các thành viên của Hội
đồng dân tộc và các Uỷ ban thường trực của Quốc hội do Quốc hội quyết định
số lượng thành viên và bầu trong số các đại biểu Quốc hội. Quốc hội có quyền
bãi nhiệm miễn nhiệm đối cới các thành viên của Hội đồng dân tộc và các thành
viên của ban Thường trực Quốc hội.
Từ góc độ pháp lý, Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội hoạt
động thường xuyên, liên tục trong suốt nhiệm kì của mình và đóng vai trò của
các cơ quan chuyên môn, tư vấn và giúp việc cho Quốc hội trong các lĩnh vực
thuộc chức năng của Quốc hội.
1
Tóm lại, với vị trí là cơ quan thường trực do Quốc hội thành lập, hội
đồng dân tộc và các Uỷ ban giữ vai trò như một cơ quan giúp việc
b : Nhiệm vụ quyền hạn của Hội đồng dân tộc và các ủy ban của Quốc hội
Trước hết về nhiệm vụ của Hội đồng dân tộc là nghiên cứu và kiến nghị,với
Quốc hội về vấn đề dân tộc.Thực hiện việc giám sát thi hành chính sách dân
tộc,các trương trình phát triển kinh tế xã hội miền núi,và vùng có đồng bào đân
tộc thiểu số.Chủ tịch Hội đòng dân tộc được tham dự các phiên họp của Uỷ ban
thường vụ Quốc hội.Được mời tham dự các phiên họp của chính phủ,bàn về
việc thực hiện chính sách dân tộc.Khi ban hành các chính sách về dân tộc Chính
phủ phải tham khảo ý kiến của Hội đồng dân tộc.
Còn đối với các Uỷ ban của Quốc hội có nhiệm vụ quyền hạn giúp Quốc hội
thực hiện tốt nhiệm vụ quyền hạn của mình.Các Uỷ ban Quốc hội làm việc khi
Quốc hội họp và cả khi Quốc hội không họp.Các Uỷ ban của Quốc hội nghiên
cứu thẩm tra,và đề xuất những ý kiến,giúp Quốc hội và Uỷ ban thường vụ Quốc
hội giải quyết tốt vấn đề quan trọng thuộc thẩm quyền của mình.Đồng thời cồn
thu hút các đại biểu vào việc thực hiện công tác chung của Quốc hội.
c : Thực trạng hoạt động của Hội đồng dân tộc và các ủy ban của Quốc hội
• Đối với việc thực hiện chức năng thẩm tra của Hội đồng và Ủy ban
Trong hoạt động thẩm tra dự án dự thảo thực tế hoạt động của Hội đồng dân
tộc và các ủy ban Quốc hội thời gian qua đã đạt được những thành tựu đáng ghi
nhận .Số lượng các dự án luật pháp lệnh nghị quyết,mà Hội đồng dân tộc và Uỷ
ban thẩm tra ngày càng tăng lên “riêng nhiệm kỳ quốc hội khóa XI thông qua 8
bộ luật , luật 15 nghị quyết có chứa quy phạm xem xét thông qua 34 pháp
2
lệnh.”.Hoạt động thẩm tra dự án dự thảo ngày càng có chất lượng tuy nhiên vẫn
bộc lộ một số tồn tại cần khắc phục :
Thứ nhất,các Ủy ban quốc hội đang phải dứng trước một thực trạng khối
lượng các dự án luật phải thẩm tra ngày càng lớn nội dung vấn đề xem xét ngày
càng phức tạp . Theo kết quả nghiên cứu mới đây của trung tâm thông tin thư
viện và nghiên cứu khoa học cho thấy đang có tình trạng quá tải trong hoạt
đồng quốc hội…riêng nhiệm kì quốc hội khóa XII,quốc hội đưa vào chương
trình xây dựng luật pháp lệnh 140 luật,pháp lệnh.Nhu cầu về sự phát triển
nhanh chóng của khoa học công nghệ,sự phát triển đa dạng quan hệ xã hội đòi
hỏi quốc hội ban hành dự án luật có tính chuyên sâu.
Thứ hai,trong quy trình làm việc của quốc hội giai đoạn xem xét dự án tại ủy
được đặt trước giai đoạn xem xét tại phiên họp toàn thể đay là một lợi thế của
ủy ban tuy nhiên vai trò của hội đồng dân tộc và ủy ban quốc hội chỉ được coi
như cơ quan tư vấn cho Quốc hội. Ủy ban và hội đồng chưa có thẩm quyền
quyết định trình hay không trình trước quốc hội.Bên cạnh đó nhiều dự án được
cơ quan soạn thảo chuẩn bị chậm chỉ gửi cho ủy ban khi bắt đầu thẩm tra khiến
các thành viên ủy ban không có thời gian nghiên cứu sâu nên chất lượng thẩm
tra hạn chế.
Thứ ba, thành phần tham gia thẩm tra thường chỉ là thành viên Ủy ban mà
thiếu vắng các nhà khoa học, các chuyên gia am hiểu về luật. Mặt khác, thành
viên Ủy ban thường được cơ cấu từ các đại biểu công tác từ các cơ quan hành
chính địa phương nên khi thẩm tra báo cáo thường ít nhận được ý kiến đóng
góp của các thành viên này.
Thứ tư, luật chưa quy định cụ thể, rõ ràng về trách nhiệm của cơ quan đại
diện, trách nhiệm của cơ quan thẩm tra hoặc Thường trực cơ quan thẩm tra khi
3
phát biểu ý kiến của cơ quant ham gia thẩm tra, trình tự, nguyên tắc, phương
thức tiến hành thẩm tra dự án, đề án của cơ quan tham gia thẩm tra. Trên thực tế
năng lực Ủy ban dự kiến những vấn đề Quốc hội thảo luận tại phiên toàn thể
vẫn còn hạn chế.
• Đối với việc thực hiện chức năng giám sát
Theo nhận xét chung, sau khi Luật hoạt động giám sát của Quốc hội có hiệu
lực, các cơ quan của quốc hội thực hiện quyền giám sát chủ động, tích cực đầy
đủ hơn, có nề nếp hơn, theo chương trình, kế hoạch, có kết quả và thực sự có
chuyển biến. Trong quá trình cải cách và nâng cao chất lượng hoạt động giám
sát của Quốc hội nói chung, hoạt động giám sát của Hội đồng dân tộc và các Ủy
ban đang đứng trước đòi hỏi là yêu cầu nội dung giám sát ngày càng phải mang
tính chuyên môn, hoạt động giám sát phải theo chương trình được phê duyệt có
kế hoạch. Ví dụ như tại kì họp thứ 6 Quốc hội khóa 12, Quốc hội đã biểu quyết
thông qua chương trình hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2010 tại kì họp
thứ 7 trong đó có giám sát chuyên về thực hiện chính sách, pháp luật về thành
lập trường, đầu tư và đảm bảo chất lượng đào tạo đối với giáo dục đại học.
Trước yêu cầu đó, nhìn chung hoạt động giám sát của Hội đồng dân tộc, các
Ủy ban của Quốc hội còn bộc lộ một số hạn chế sau:
Thứ nhất, hoạt động giám sát chưa được tiến hành thường xuyên toàn diện:
nội dung, hình thức và số lượng các cuộc giám sát đã được đưa vào chương
trình, kế hoạch hằng năm nhiều hơn hẳn so với trước, nhưng vẫn còn ít và chưa
cân đối so với hoạt động lập pháp; việc giám sát các hoạt động điều tra, truy tố,
xét xử, thi hành án, giải quyết khiếu nại, tố cáo chưa làm được nhiều. bên cạnh
đó, lĩnh vực được giao giám sát lại quá rộng nên chưa thể bao quát hết nội dung
mà chương trình giám sát của Ủy ban đã đề ra. Theo báo cáo công tác và thực
4
tiễn hoạt động của Quốc hội hiện nay thì các nội dung giám sát lớn, quan trọng
chưa được phân công, bố trí hợp lí, còn tập trung nhiều vào một số Ủy ban. Một
số nội dung giám sát quan trọng chưa làm được nhiều, như giám sát việc quản
lí, sử dụng ngân sách, công tác cải cách hành chính, giám sát văn bản quy phạm
pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ, cơ quan ngang Bộ…
Thứ hai, hoạt động giám sát của Hội đồng dân tộc, các Ủy ban còn nhiều
điểm chưa phân định rạch ròi với hoạt động giám sát của Ủy ban thường vụ
Quốc hội. ví dụ như Ủy ban thường vụ quốc hội, Ủy ban tư pháp đều có nhiệm
vụ, quyền hạn giám sát hoạt động của các cơ quan tư pháp. Nhưng nhiệm vụ,
phương thức và phạm vi thẩm quyền giám sát của mỗi cơ quan này chưa được
quy định cụ thể.
Thứ ba, hoạt động giám sát chỉ dừng lại ở việc nghe báo cáo để nắm tình
hình. Hiệu lực và hiệu quả của giám sát chưa cao, nhất là đối với vấn đề trong
lĩnh vực kinh tế - xã hội,đấu tranh chống tham nhũng,văn hóa-xã hội,môi
trường.Các ủy ban của quốc hội vẫn đi nhiều,xuống địa phương,cơ sở làm việc
nhiều và báo cáo gửi Quốc hội,gửi các cơ quan hữu quan cũng nhiều nhưng
không thấy rõ hiệu quả và không biết,các cơ quan hữu quan có đọc báo cáo đó
không? Về phía mình báo cáo gửi rồi cũng không theo dõi sâu sát yêu cầu trả
lời. Như vậy công tác giám sát của các Uỷ ban Quốc hội có tình trạng giám sát
rồi, kiến nghị rồi, nhưng lại không theo ý kiến ấy đến cùng, không buộc được
việc chấp hành đến cùng.
Thứ tư, trình tự thủ tục giám sát còn chưa hợp lý. Hiện nay trình tự thủ tục
giám sát còn chung chung chưa có trình tự thủ tục riêng cho những lĩnh vực đặc
thù, ví dụ như vấn đề giám sát ngân sách, giám sát tư pháp. Mặt khác các chủ
thể tham gia giám sát thực hiện thủ tục này còn mang tính qua loa hình thức.
5