Tải bản đầy đủ (.pdf) (176 trang)

Vai trò của chính quyền địa phương cấp tỉnh trong phát triển du lịch bền vững tỉnh Ninh Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.47 MB, 176 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

















NGUYỄN MẠNH CƯỜNG




VAI TRÒ CỦA CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG
CẤP TỈNH TRONG PHÁT TRIỂN DU LỊCH
BỀN VỮNG TỈNH NINH BÌNH

Chuyên ngành: KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Mã số: 62310102



LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ








Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS. ĐÀO THỊ PHƯƠNG LIÊN
2. TS. HÀ VĂN SIÊU


HÀ NỘI - 2015


i
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan bản luận án là công trình nghiên cứu độc lập của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và có
nguồn gốc rõ ràng.


Hà Nội, ngày tháng năm 2015
TÁC GIẢ LUẬN ÁN




Nguyễn Mạnh Cường


ii
LỜI CẢM ƠN

Để có thể hoàn thành luận án một cách hoàn chỉnh, bên cạnh sự nỗ lực cố
gắng của bản thân là sự hướng dẫn nhiệt tình của quý Thầy Cô, sự quan tâm, tạo
điều kiện của cơ quan nơi tôi công tác cũng như sự động viên ủng hộ của gia đình,
bạn bè và đồng nghiệp trong suốt thời gian học tập nghiên cứu và thực hiện luận án
tiến sĩ
Lời đầu tiên, tôi xin chân thành cảm ơn đến toàn thể quý Thầy, Cô giáo trong
khoa Lý luận Chính trị, Viện đào tạo sau đại học trường Đại học kinh tế Quốc dân,
nhất là PGS.TS Đào Thị Phương Liên và TS. Hà Văn Siêu, người đã trực tiếp
hướng dẫn tôi hoàn thành luận án. Với những lời chỉ dẫn, những tài liệu, sự tận
tình hướng dẫn và những lời động viên của Thầy, Cô đã giúp tôi vượt qua nhiều khó
khăn trong quá trình thực hiện luận án này.
Xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Ban tổ chức Tỉnh ủy, Văn phòng Tỉnh ủy,
Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và HĐND, Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh
Ninh Bình, gia đình, bạn bè và đồng nghiệp những người đã luôn động viên, hỗ trợ
và tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu và
thực hiện luận án.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày tháng năm 2015
TÁC GIẢ LUẬN ÁN




Nguyễn Mạnh Cường



iii
MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN i
LỜI CẢM ƠN ii
MỤC LỤC iii
BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN vi
DANH MỤC CÁC BẢNG, HÌNH, SƠ ĐỒ viii
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN
QUAN ĐẾN CHỦ ĐỀ CỦA LUẬN ÁN 5
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN VỀ VAI TRÒ
CỦA CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG CẤP TỈNH TRONG PHÁT TRIỂN DU
LỊCH BỀN VỮNG 17
2.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG 17
2.1.1. Phát triển bền vững 17
2.1.2. Phát triển du lịch bền vững 20
2.1.3. Mục tiêu và các nguyên tắc cơ bản của phát triển du lịch bền vững 22
2.1.4. Đánh giá tính bền vững của phát triển du lịch 25
2.2. VAI TRÒ CỦA CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG CẤP TỈNH TRONG
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG 28
2.2.1. Cơ sở khách quan quy định vai trò của chính quyền địa phương cấp tỉnh
trong phát triển du lịch bền vững 28
2.2.2. Nội dung vai trò của chính quyền địa phương cấp tỉnh trong phát triển du
lịch bền vững 31
2.2.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến vai trò của chính quyền địa phương cấp

tỉnh trong phát triển du lịch bền vững 39
2.3. KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VÀ TRONG NƯỚC VỀ NÂNG CAO VAI TRÒ
CỦA CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG TRONG PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN
VỮNG VÀ BÀI HỌC CHO CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG TỈNH NINH BÌNH 42
2.3.1.Kinh nghiệm quốc tế về vai trò của chính quyền địa phương trong phát
triển du lịch bền vững 42
2.3.2. Kinh nghiệm trong nước về vai trò của chính quyền địa phương trong
phát triển du lịch bền vững 45


iv
2.3.3. Bài học kinh nghiệm cho chính quyền địa phương tỉnh Ninh Bình về
phát triển du lịch bền vững trên địa bàn tỉnh 46
Chương 3: THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA CHÍNH QUYỀN CẤP TỈNH
TRONG PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG TỈNH NINH BÌNH 48
3.1. TIỀM NĂNG, CÁC NGUỒN LỰC VÀ TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN DU
LỊCH TỈNH NINH BÌNH 48
3.1.1. Tiềm năng và các nguồn lực phát triển du lịch Ninh Bình 48
3.1.2. Tình hình phát triển du lịch tỉnh Ninh Bình giai đoạn 2005 - 2013 58
3.2. HIỆN TRẠNG VAI TRÒ CỦA CHÍNH QUYỀN CẤP TỈNH TRONG
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG TỈNH NINH BÌNH 62
3.2.1. Vai trò của chính quyền địa phương cấp tỉnh trong xây dựng chiến lược
phát triển du lịch bền vững tỉnh Ninh Bình 62
3.2.2. Vai trò của chính quyền địa phương cấp tỉnh trong việc ban hành các văn
bản pháp quy tạo dựng hành lang pháp lý cho phát triển du lịch bền vững tỉnh
Ninh Bình 71
3.2.3. Vai trò của chính quyền địa phương cấp tỉnh trong xây dựng tổ chức bộ
máy và quản lý phát triển du lịch bền vững tỉnh Ninh Bình 83
3.2.4. Vai trò của chính quyền địa phương cấp tỉnh trong thanh tra, kiểm tra
phát triển du lịch bền vững tỉnh Ninh Bình 98

3.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA CHÍNH QUYỀN
ĐỊA PHƯƠNG CẤP TỈNH TRONG PHÁT TRIỂN DU LỊCH TỈNH NINH
BÌNH THEO TIÊU CHÍ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG 99
3.3.1. Những mặt tích cực 100
3.3.2. Tồn tại và nguyên nhân 105
3.3.3. Những vấn đề đặt ra đối với vai trò của chính quyền địa phương cấp tỉnh
trong phát triển du lịch bền vững của tỉnh Ninh Bình 108
Chương 4: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO VAI
TRÒ CỦA CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG CẤP TỈNH TRONG PHÁT
TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG TỈNH NINH BÌNH 111
4.1. BỐI CẢNH QUỐC TẾ VÀ TRONG NƯỚC CÓ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VAI
TRÒ CỦA CHÍNH QUYỀN TỈNH NINH BÌNH TRONG TRIỂN DU LỊCH
BỀN VỮNG 111
4.1.1. Bối cảnh quốc tế 111
4.1.2. Bối cảnh trong nước 114


v
4.2. QUAN ĐIỂM NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA CHÍNH QUYỀN ĐỊA
PHƯƠNG CẤP TỈNH TRONG PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG TỈNH
NINH BÌNH 116
4.2.1. Định hướng và một số chỉ tiêu phát triển bền vững du lịch Ninh Bình 116
4.2.2. Quan điểm nâng cao vai trò của chính quyền địa phương trong phát triển
du lịch bền vững tỉnh Ninh Bình 118
4.3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG
TRONG PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở NINH BÌNH 123
4.3.1. Giải pháp liên quan đến vai trò của chính quyền địa phương cấp tỉnh
trong xây dựng chiến lược phát triển du lịch tỉnh Ninh Bình theo tiêu chí phát
triển bền vững 123
4.3.2. Giải pháp liên quan đến vai trò của chính quyền địa phương cấp tỉnh

trong xây dựng cơ chế vận dụng Luật pháp và chính sách của Nhà nước về
phát triển du lịch tỉnh Ninh Bình theo tiêu chí phát triển bền vững 133
4.3.3. Giải pháp liên quan đến vai trò của chính quyền địa phương cấp tỉnh
trong xây dựng tổ chức bộ máy quản lý và phát triển du lịch tỉnh Ninh Bình
theo tiêu chí phát triển bền vững 137
4.3.4.Giải pháp liên quan đến vai trò của chính quyền địa phương cấp tỉnh
trong thanh tra, kiểm tra công tác tổ chức, quản lý và kinh doanh du lịch tỉnh
Ninh Bình theo tiêu chí phát triển bền vững 148
4.3.5. Nhóm các giải pháp điều kiện 148
4.4. KIẾN NGHỊ 157
4.4.1. Kiến nghị đối với ủy ban Nhân dân Tỉnh 157
4.4.2. Kiến nghị đối với Sở VH-TT-DL và các huyện, thị 158
KẾT LUẬN 159
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


vi
BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN

ADB Asian Development Bank Ngân hàng phát triển Châu á
APTA Association for Promotion of
Tourism to Africa
Hiệp hội xúc tiến Du lịch Châu Phi
BCG Boston Consulting Group Tập đoàn tư vấn Boston
BOO Build - Owner – Operate Xây dựng-Sở hữu-Vận hành
BOT Built-Operation-Transfer Xây dựng-Vận hành-Chuyển giao
BT Built-Transfer Xây dựng-Chuyển giao
BTO Built-Transfer-Operation Xây dựng-Chuyển giao-Vận hành
CTA Caribbean Travel Association Hiệp hội du lịch Caribe

EU European Union Cộng đồng Châu Âu
FDI
Foreign Direct Investment

Đầu tư trực tiếp nước ngoài
GDP Gross Domestic Product Tổng sản phẩm quốc nội
HTV Ho Chi Minh Television Đài truyền hình Thành phố HCM
IUCN International Union for
Conservation of Nature
Hiệp hội bảo vệ thiên nhiên thế giới
JATA Japan Association of Travel
Agents
Hiệp hội du lịch Nhật Bản
MICE Meetings, incentives,
conferencing, exhibitions
Hội họp, hội thảo, khen thưởng, triển
lãm
ODA Official Development Assistance Hỗ trợ phát triển chính thức
PATA Parcific Asia Travel Association Hiệp hội Du lịch Châu á Thái Bình
Dương
PPP Public–Private Partnership Hợp tác công tư
PRA
Participatory Rural Appraisal
Phương pháp thúc đẩy sự tham gia đánh
giá
PUM Programma Uitzending
Managers(Netherlands senior
experts)
Chuyên gia cao cấp Hà Lan
SBU Strategic Business Unit Đơn vị kinh doanh chiến lược

UNCED United Nations Conference on
Environment and Development
Hội nghị Liên hợp quốc về môi trường
và phát triển
UNDP United Nations Development Chương trình phát triển Liên hợp quốc


vii
Programme
UNESCO United Nations Educational,
Scientific and Cultural
Organization
Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa
Liên hợp quốc
UNWTO United National World Tourist
Organization
Tổ chức du lịch Thế giới
VCTV1 Vietnam Cab Television 1 Truyền hình cáp VCTV1
VTOS Vietnam Tourism Occupational
Standards
Tiêu chuẩn nghề du lịch Việt Nam
VTV1 Vietnam Television 1 Đài truyền hình VTV1
WB World Bank Ngân hàng thế giới
WCED World Commission on
Environment and Development
Ủy ban môi trường và phát triển thế giới
WTO World Tourism Organization Tổ chức Du lịch thế giới
WTTC World Travel and Tourism
Council
Hội đồng lữ hành và du lịch thế giới

AFTA ASEAN Free Trade Area Khu vực Thương mại tự do các nước
Đông Nam Á
APEC Asia-Pacific Economic
Cooperation
Diễn đàn Hợp tác kinh tế Châu Á – Thái
Bình Dương
ASEAN Association of Southeast Asian
Nations
Tổ chức Hiệp hội các nước Đông Nam Á
CNH,
HĐH
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CHXHCN Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
DNNN Doanh nghiệp Nhà nước
HĐND Hội đồng Nhân dân
Nxb Nhà Xuất bản
Tr. Đồng Triệu đồng
UBND Ủy ban Nhân dân
XHCN Xã hội Chủ nghĩa





viii
DANH MỤC CÁC BẢNG, HÌNH, SƠ ĐỒ

BẢNG
Bảng 2.1: Du lịch bền vững và du lịch không bền vững 21
Bảng 2.2: Các chỉ tiêu chung cho du lịch bền vững 26

Bảng 2.3: Các chỉ tiêu đặc thù của điểm du lịch 26
Bảng 2.4: Hệ thống chỉ tiêu môi trường dùng để đánh giá nhanh 27
Bảng 2.5: Vai trò chính quyền địa phương 30
Bảng 3.1: Kết quả hoạt động kinh doanh của ngành du lịch Ninh Bình thời kỳ
2005 -2013 61
Bảng 3.2: Công suất phòng khách sạn Trung bình cả nước 2006-2013 62
Bảng 3.3: Tổng hợp các dự án đầu tư xây dựng cơ bản từ năm 2001-2013 85
Bảng 3.4: Cơ sở lưu trú của tỉnh Ninh Bình 93
Bảng 3.5: Đánh giá của khách du lịch về dịch vụ lưu trú 94
Bảng 3.6: Đánh giá của du khách về chất lượng dịch vụ ăn uống 95
Bảng 3.7: Đánh giá của khách du lịch về dịch vụ vận chuyển 96
Bảng 3.8: Lao động ngành du lịch Ninh Bình 98
Bảng 3.9: Số lượng khách du lịch đến Ninh Bình 100
Bảng 3.10: Doanh thu từ hoạt động du lịch tại Ninh Bình 101
Bảng 4.1: Tổng hợp các chỉ tiêu phát triển du lịch tỉnh Ninh Bình đến năm 2020 118
HÌNH VẼ
Hình 2.1: Tam giác phát triển bền vững 18
Hình 2.2: Mô hình lục giác với 6 yếu tố 31
Hình 2.3: Cơ cấu của quá trình kinh doanh du lịch 32
Hình 4.1: Mô hình phát triển du lịch bền vững trên địa bàn tỉnh Ninh Bình 119
Hình 4.2: Các hướng chiến lược có thể lựa chọn cho danh mục sản phẩm du lịch 126

SƠ ĐỒ
Sơ đồ 3.1: Bản đồ du lịch tỉnh Ninh Bình 48


1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài Luận án

Trong hơn ba thập kỷ qua, nhiều giáo trình, tài liệu và các thoả ước quốc tế đã
đề cập đến chủ đề phát triển bền vững (Baker và cộng sự, 1997; BKGTW, 2003). Tại
Việt Nam, phát triển bền vững đã trở thành đường lối, quan điểm và chính sách của
Đảng và Nhà nước. Chỉ thị số 36-CT/TW ngày 25 tháng 6 năm 1998 của Bộ Chính trị
về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước nhấn
mạnh: "Bảo vệ môi trường là một nội dung cơ bản không thể tách rời trong đường lối,
chủ trương và kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của tất cả các cấp, các ngành, là cơ
sở quan trọng bảo đảm phát triển bền vững, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước" (BCT, 1998). Quan điểm phát triển bền vững đã
được tái khẳng định trong các văn kiện của Đại hội của Đảng Cộng sản Việt Nam và
trong Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2001-2010 là: "Phát triển nhanh, hiệu quả
và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo
vệ môi trường" và "Phát triển kinh tế-xã hội gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi
trường, bảo đảm sự hài hoà giữa môi trường nhân tạo với môi trường thiên nhiên, giữ
gìn đa dạng sinh học" (BCHTWĐ, 2001).
Để thực hiện mục tiêu phát triển bền vững và thực hiện cam kết quốc tế, Chính
phủ Việt Nam đã ban hành "Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt
Nam" (CTNS 21, 2004) theo Quyết định 153/QĐ-TTg ngày 17/8/2004 làm cơ sở
cho việc xây dựng các chiến lược, quy hoạch tổng thể và kế hoạch phát triển kinh
tế-xã hội của đất nước cũng như của các ngành và địa phương
Phát triển du lịch bền vững đang trở thành chủ đề ngày càng được các quốc
gia quan tâm. Nhận thức phổ biến trên thế giới cho rằng, để đạt được sự phát triển
du lịch bền vững đòi hỏi phải quản lý tất cả các dạng tài nguyên theo cách nào đó để
chúng ta có thể đáp ứng các nhu cầu kinh tế, xã hội và thẩm mỹ trong khi vẫn duy
trì được bản sắc văn hoá, các quá trình sinh thái cơ bản, đa dạng sinh học và các hệ
đảm bảo sự sống. Mục tiêu của Du lịch bền vững là: phát triển, gia tăng sự đóng
góp của du lịch vào kinh tế và môi trường; cải thiện tính công bằng xã hội trong
phát triển; cải thiện chất lượng cuộc sống của cộng đồng bản địa; đáp ứng cao độ
nhu cầu của du khách và duy trì chất lượng môi trường.
Ninh Bình - nằm ở cực Nam đồng bằng châu thổ sông Hồng, là một tỉnh cửa

ngõ từ miền Bắc vào miền Trung và miền Nam đất nước, nơi đây vừa là gạch nối,


2
vừa là ngã ba của ba nền văn hoá lớn: sông Hồng - sông Mã - Hoà Bình. Ninh Bình
có 3 đường quốc lộ chính (1A, 10, 12A) và đường sắt xuyên Bắc - Nam chạy qua,
tạo cho Ninh Bình vị trí là cầu nối giữa hai miền Nam Bắc, giữa các tỉnh miền núi
Tây Bắc với miền xuôi, giữa các tỉnh duyên hải Bắc bộ với Hải Phòng. Vùng đất
này lại được bao bọc bởi những dãy núi đá vôi, tạo nên nhiều danh lam thắng cảnh
kỳ thú với những dòng sông thơ mộng, những hồ nước mênh mông, tất cả như đang
thầm thì câu chuyện muôn đời của non và nước. Bên cạnh đó Ninh Bình còn có
nhiều di tích lịch sử nhân văn và danh lam thắng cảnh nổi tiếng của đất nước như
Cố đô Hoa Lư, khu du lịch sinh thái Tràng An được ví như "Hạ Long trên cạn" (
khu hang động Tràng An, khu Tam Cốc - Bích Động), Chùa Bái Đình, quần thể
Nhà thờ đá Phát Diệm, Vườn quốc gia nguyên sinh Cúc Phương, khu thiên nhiên
ngập nước Vân Long, suối nước nóng kênh gà, phòng tuyến Tam Điệp Biện Sơn…
Tất cả những điều kiện đó đã tạo cho Ninh Bình một tiềm năng to lớn để phát triển
đa dạng các loại hình du lịch hấp dẫn.
Thực tế trong những năm qua, ngành du lịch Ninh Bình đã có những đổi mới,
có bước phát triển nhanh đang dần trở thành ngành kinh tế quan trọng, góp phần
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giải quyết việc làm cho người lao động, cải thiện đời
sống nhân dân, mở rộng các mối quan hệ, hợp tác của tỉnh, làm thay đổi hình ảnh
Ninh Bình trong nhận thức của bạn bè trong nước và quốc tế. Hạ tầng du lịch của tỉnh
được đầu tư lớn, các khu du lịch được hình thành và phát triển. Lượng khách du lịch
đến Ninh Bình giai đoạn 2005-2013 ngày càng tăng. Tuy nhiên, những kết quả đã đạt
được chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế; hiệu quả hoạt động kinh doanh du
lịch còn thấp, chất lượng dịch vụ chưa cao; khách lưu trú, đặc biệt là khách quốc tế
còn rất ít. Tại một số điểm tài nguyên có giá trị, mặc dù đã có được sự đầu tư khai
thác, song thời gian qua những giá trị tài nguyên này chưa phát huy được để tạo thành
sản phẩm du lịch hấp dẫn tương xứng. Nguyên nhân là do việc thu hút đầu tư còn

chưa rộng mở, đầu tư còn dàn trải, sản phẩm du lịch tại các điểm, tuyến du lịch chưa
đa dạng, thiếu tính hấp dẫn để thu hút khách; hoạt động kinh doanh lữ hành và vận
chuyển khách chưa được quan tâm đúng mức; quảng bá du lịch thiếu tính chuyên
nghiệp và chưa đồng bộ Nếu không nghiên cứu một cách cụ thể, không đánh giá
một cách khách quan về tiềm năng và thực trạng để đề ra định hướng, giải pháp khai
thác có hiệu quả các tiềm năng du lịch thì không những không đạt được kết quả mong
muốn mà còn gây ra tác động rất lớn đối với môi trường, làm cạn kiệt tài nguyên, ảnh
hưởng tới nhịp độ phát triển kinh tế chung của toàn tỉnh.


3
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu đề tài: Đề xuất giải pháp tăng cường vai trò của chính quyền
địa phương cấp tỉnh trong phát triển du lịch bền vững trên địa bàn tỉnh Ninh Bình tới
năm 2020 và tầm nhìn 2030. Theo đó, luận án thực hiện được các nhiệm vụ sau:
- Hệ thống hoá các vấn đề lý luận về phát triển du lịch bền vững; vai trò của
chính quyền cấp tỉnh trong phát triển du lịch bền vững.
- Phân tích, đánh giá thực trạng vai trò của chính quyền cấp tỉnh trong phát
triển du lịch bền vững trên địa bàn tỉnh Ninh Bình thời gian qua.
- Đề xuất các nhóm giải pháp tăng cường vai trò của chính quyền trong phát
triển du lịch bền vững trên địa bàn Ninh Bình đến năm 2020 và tầm nhìn 2030.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp có tính liên
ngành, liên vùng và xã hội hoá cao. Tuy nhiên, Luận án này chỉ tập trung nghiên
cứu vai trò của chính quyền cấp tỉnh trong phát triển du lịch bền vững trên địa bàn
cụ thể - tỉnh Ninh Bình.
- Phạm vi nghiên cứu: Vai trò chính quyền tỉnh Ninh Bình trong phát triển bền
vững ngành du lịch trên địa bàn từ 2005 – 2013; đề xuất giải pháp đến năm 2020 và
tầm nhìn 2030;
4. Phương pháp nghiên cứu

Luận án sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử làm
phương pháp nghiên cứu cơ bản. Đồng thời, sử dụng tổng hợp các phương pháp
nghiên cứu cụ thể như: trừu tượng hóa khoa học, lôgic-lịch sử, phân tích-tổng hợp,
thống kê, mô hình hóa, phỏng vấn sâu, điều tra khảo sát
5. Những đóng góp mới của luận án
- Nghiên cứu lý luận chung về phát triển du lịch bền vững; ý nghĩa, mục tiêu,
các yêu cầu, các nguyên tắc, các tiêu chí đánh giá phát triển du lịch bền vững; vai
trò của chính quyền địa phương cấp tỉnh trong phát triển du lịch bền vững; kinh
nghiệm phát triển du lịch bền vững của một số quốc gia trên thể giới và một số địa
phương trong nước, từ đó rút ra bài học cho phát triển bền vững du lịch Ninh Bình;
- Nghiên cứu và xác định được những vấn đề cơ bản liên quan đến vai trò của
chính quyền địa phương cấp tỉnh trong phát triển du lịch bền vững ở Ninh Bình bao
gồm: xây dựng quy hoạch tổng thể, kế hoạch phát triển du lịch; tổ chức triển khai
thực hiện các chính sách, pháp luật của nhà nước trong lĩnh vực du lịch; xây dựng
cơ chế, chính sách nhằm thu hút đầu tư phát triển du lịch và ban hành văn bản quy


4
phạm pháp luật đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước về du lịch ở địa phương; hỗ trợ
nâng cao năng lực cho doanh nghiệp du lịch địa phương; tổ chức và hỗ trợ đào tạo,
bồi dưỡng nguồn nhân lực du lịch; quảng bá, xúc tiến du lịch, mở rộng thị trường
khách du lịch; mở rộng liên kết, hợp tác phát triển du lịch; thanh tra, kiểm tra đối
với hoạt động du lịch, Từ đó, khái quát được những vấn đề đặt ra đối với phát
triển du lịch bền vững trên các mặt kinh tế - xã hội – môi trường;
- Đề xuất hệ thống các giải pháp đồng bộ và cụ thể đã được nghiên cứu
nhằm phát huy những lợi thế và hạn chế bất cập để góp phần đảm bảo sự phát
triển du lịch bền vững ở Ninh Bình theo những nguyên lý đã được xác định. Các
giải pháp cụ thể này được phân tích và đưa ra trong các nhóm giải pháp cơ bản
liên quan đến các góc độ đảm bảo phát triển du lịch bền vững bao gồm: Nhóm các
giải pháp về xây dựng chiến lược phát triển du lịch bền vững tỉnh Ninh Bình; Giải

pháp về xây dựng, ban hành các văn bản pháp quy phát triển du lịch bền vững tỉnh
Ninh Bình; Giải pháp về xây dựng tổ chức bộ máy và tổ chức quản lý; Giải pháp
về thanh tra, kiểm tra và các giải pháp điều kiện để phát triển du lịch bền vững
tỉnh Ninh Bình.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận án được chia làm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan đến chủ đề của
luận án
Chương 2: Cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về vai trò của chính quyền
địa phương cấp tỉnh trong phát triển du lịch bền vững
Chương 3: Thực trạng vai trò của chính quyền cấp tỉnh trong phát triển du
lịch bền vững tỉnh Ninh Bình
Chương 4: Phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao vai trò của chính
quyền địa phương cấp tỉnh trong phát triển du lịch bền vững tỉnh Ninh Bình








5
Chương 1
TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN CHỦ ĐỀ CỦA LUẬN ÁN

Sự phát triển nhanh và mạnh của ngành công nghiệp không khói trong những
năm qua đã và đang mang lại nguồn thu quan trọng cho các nền kinh tế. Hơn nữa,

với tiềm năng to lớn của mình, du lịch ngày càng được xem là một trong những
ngành kinh tế lớn của thế giới. Tuy nhiên, cũng như các ngành kinh tế khác, phát
triển của ngành du lịch ngày càng nhận được nhiều sự quan tâm hơn của mỗi quốc
gia, cũng như mỗi vùng địa phương và đã được đặt trong bối cảnh của sự phát triển
hướng tới tính bền vững. Vì thế, chủ đề phát triển du lịch bền vững đang được nhiều
nhà khoa học, các nhà quản lý trong và ngoài nước hết sức quan tâm. Liên quan đến
chủ đề nghiên cứu, có thể chia thành các nhóm sau:
Nhóm 1: Nhóm các nghiên cứu về phát triển vùng địa phương và vai trò
của Chính quyền địa phương cấp tỉnh trong phát triển các ngành và lĩnh vực
tại địa phương. Liên quan đến nội dung này, trước hết phải kể đến Lý thuyết phát
triển vành đai nông nghiệp (Thunen, 1833); lý thuyết về điểm trung tâm
(Christaller, 1933); Lý thuyết cực phát triển (Perroux, 1949); Lý thuyết về phân bố
doanh nghiệp trong phát triển lãnh thổ (Schoon). Tại Việt Nam, có một số công
trình nghiên cứu về vấn đề này như bài viết “Đổi mới nội dung hoạt động của các
cấp chính quyền địa phương trong kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế”
(Nguyễn Ký và cộng sự, 2006). Các tác giả tập trung phân tích làm rõ vai trò của
nhà nước trong nền kinh tế thị trường, trong đó có sự so sánh giữa vai trò của Nhà
nước trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung và kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, từ đó các tác giả đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
thực hiện chức năng kinh tế của Nhà nước trong thời kỳ đổi mới. Tác giả Lương
Xuân Quỳ (2002) tập trung làm rõ những vấn đề lý luận về quản lý nhà nước trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, trong đó
tác giả đặc biệt chú ý đến thẩm quyền, trách nhiệm của các cấp, các ngành trong
việc xây dựng, triển khai quy hoạch, kế hoạch, nhất là đối với quy hoạch vùng. Các
tác giả trong cuốn “Đổi mới nội dung hoạt động của các cấp chính quyền địa
phương trong kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế” thì tập trung nghiên cứu quá
trình hình thành các cấp hành chính và điều chỉnh quy mô các đơn vị hình chính địa
phương ở Việt nam cũng như đòi hỏi của nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế



6
đối với các cấp chính quyền địa phương (Nguyễn Ký và cộng sự, 2006). Từ đó, các
tác giả đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm đổi mới nội dung hoạt động của các
cấp chính quyền địa phương trước yêu cầu của kinh tế thị trường và hội nhập quốc
tế. Đối với tác giả Hoàng Văn Hoan (2002), dù kinh tế thị trường phát triển đến
mức độ nào thì vai trò của Nhà nước vẫn rất quan trọng, nó trực tiếp hoặc gián tiếp
thúc đẩy kinh tế - xã hội (Hoàng Văn Hoan, 2002). Tác giả Vũ Ngọc Nhung thì tập
trung phân tích những nội dung cơ bản xung quanh vai trò của nhà nước trong nền
kinh tế thị trường như vai trò điều chỉnh, tạo sân chơi chung, bảo hộ cho sản xuất
trong nước, Đồng thời, tác giả cũng chỉ ra những vấn đề cơ bản xung quanh vai trò
của Nhà nước Việt Nam trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Với
tác giả Vũ Anh Tuấn, có hai vấn đề được đề cập: quan hệ giữa Nhà nước với thị
trường và vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Tác giả đã chỉ ra tầm
quan trọng của nhà nước với tư cách là chủ thể “trong” thị trường và “trên” thị
trường góp phần đảm bảo sự ổn định và phát triển nền kinh tế thị trường,
Các lý thuyết này đều cho rằng, vai trò hỗ trợ của chính quyền địa phương ngày
càng trở nên quan trọng. Chính quyền cũng phải sáng tạo để hỗ trợ, cổ vũ sự sáng tạo
của doanh nghiệp. Đồng thời, các doanh nghiệp lại đặt các vùng vào tình thế cạnh tranh
với nhau theo các tiêu chí như nhân công tại chỗ, dịch vụ cho các doanh nghiệp, cơ sở
hạ tầng Trong thực tế, một số quốc gia đã thành công với việc phát triển kinh tế vùng
và đã đem lại những thành công cho vùng và cả các quốc gia đó, như Vùng Baden -
Wurttemberd, Đức; Thành phố công nghiệp Worcester, Masachusett (Mỹ); Đặc khu
kinh tế Thâm Quyến và Hải Nam (Trung Quốc).
Nhóm 2: Nhóm các nghiên cứu có liên quan đến phát triển bền vững và
phát triển bền vững các ngành của nền kinh tế. Xét về nguồn gốc triết lý "phát
triển bền vững" đã có những nhìn nhận trước đây. Học thuyết Mác đã coi con người
là một bộ phận không thể tách rời của giới tự nhiên. Chính Ăngghen đã cảnh báo về
“sự trả thù của giới tự nhiên” khi chúng bị tổn thương. Trong thập kỷ 1960 và 1970,
các vấn đề môi trường đã được nhận thức với sự tiên đoán của những người theo
chủ nghĩa Malthus mới (neo-Malthusian) về sự bùng nổ dân số ở các nước đang

phát triển hay sự cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên, sự gia tăng ô nhiễm môi
trường. Tuy vậy, đến Hội nghị của Liên hợp quốc (LHQ) về Môi trường con người
(năm 1972 tại Stockholm), tầm quan trọng của vấn đề môi trường mới chính thức
được thừa nhận. Trong báo cáo “Tương lai chung của chúng ta” (còn được gọi là
Báo cáo Brundtland) của Uỷ ban Thế giới về Môi trường và Phát triển (WCED)


7
năm 1987, người ta đã thừa nhận mối liên kết chặt chẽ giữa môi trường và phát triển
và lần đầu tiên khái niệm phát triển bền vững mới được hiểu một cách đầy đủ "phát
triển bền vững là sự phát triển vừa đáp ứng được nhu cầu của các thế hệ hiện tại mà
không làm tổn hại đến các thế hệ tương lai trong việc đáp ứng các yêu cầu của họ"
(Brundtland, 1987) . Từ đó đến nay, khái niệm này liên tục được phát triển và hoàn
thiện, đặc biệt kể từ sau Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về Môi trường và Phát triển
(năm 1992 tại Rio de Janeiro, Braxin) và Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về Phát
triển bền vững (năm 2002 tại Johannesburg, Nam Phi). Vấn đề cốt lõi nhất của phát
triển bền vững chính là sự phát triển bảo đảm sự bền vững trên cả ba mặt kinh tế, xã
hội và môi trường.
Ở Việt Nam, do sớm nhận thức được tầm quan trọng, tính bức thiết của vấn đề
môi trường và phát triển bền vững, ngay sau Tuyên bố Rio, Đảng và Nhà nước đã
ban hành hệ thống các cơ chế, chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường và phát
triển bền vững và các chính sách, pháp luật đó đã bước đầu đi vào cuộc sống. Học
giả Ngô Doãn Vịnh (2005) cũng có một số công trình nghiên cứu liên quan. Trong
tác phẩm "Bàn về phát triển kinh tế (Nghiên cứu con đường dẫn tới giàu sang)", học
giả đã tập trung luận giải những vấn đề liên quan đến phát triển bền vững và đã đưa
ra khái niệm "phát triển đến ngưỡng cho phép"; đồng thời những vấn đề cơ sở lý
luận và thực tiễn liên quan đến cơ cấu kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và mối
quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững cũng đã được phân tích,
làm sáng tỏ phần nào. Gần đây, được sự quan tâm đầu tư của Nhà nước, một số
công trình nghiên cứu liên quan đến những vấn đề nêu trên đối với Vùng kinh tế

trọng điểm Bắc Bộ cũng đã và đang được tiến hành; trong đó, điển hình là các
nghiên cứu do Viện chiến lược phát triển thực hiện về quy hoạch tổng thể phát triển
kinh tế - xã hội địa bàn trọng điểm Bắc Bộ (VCL, 1995); quy hoạch tổng thể phát
triển kinh tế- xã hội Vùng KTTĐBB thời kỳ 2006 – 2020 (VCL, 2006b) và Đề tài
thu thập, xây dựng hệ thống chỉ tiêu và đánh giá tiềm năng thế mạnh hiện trạng phát
triển kinh tế - xã hội các vùng KTTĐ Việt Nam (VCL, 2006a).
Nhóm 3: Nhóm các nghiên cứu tổng quan về du lịch: Nhóm các công trình
này có rất nhiều nội dung và đi vào từng lĩnh vực cụ thể của ngành du lịch, nhưng
chủ yếu là tập trung vào các ngành nghề kinh doanh du lịch và phát triển ngành du
lịch để du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của quốc gia hoặc địa phương; các
bài viết trên mới chỉ nghiên cứu một số khía cạnh, đưa ra hướng giải quyết từng
phần về tour, tuyến, điểm du lịch. Cụ thể là Giáo trình Kinh tế Du lịch (Nguyễn


8
Văn Đính và Trần Thị Minh Hòa, 2004); Kinh tế Du lịch (Nguyễn Hồng Giáp,
2002); Du lịch và Kinh doanh du lịch (Trần Nhạn, 1996); Kinh tế học du lịch,
(Lanque, 1993); Tổ chức phục vụ các dịch vụ du lịch (Trần Văn Mậu, 2001); Kinh
tế du lịch và Du lịch học (Đổng Ngọc Minh và Vương Đình Lôi, 2000); Nghiên cứu
đề xuất đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền quảng bá du lịch Việt Nam tại một số thị
trường du lịch quốc tế trọng điểm, (Đỗ Thanh Hoa, 2006). Cùng với đó là một số
luận án tiến sĩ đã bảo vệ tại Trường Đại học Kinh tế Quốc dân có liên quan đến đề
tài du lịch, như: Một số vấn đề về tổ chức và quản lý các hoạt động kinh doanh du
lịch ở Việt Nam (Trịnh Xuân Dũng, 1989); Những giải pháp chủ yếu để phát triển
du lịch trên địa bàn Hà Nội (Bùi Thị Nga, 1996); Những giải pháp cơ bản phát
triển ngành du lịch Quảng Trị (Nguyễn Văn Dùng, 1997); Những điều kiện và giải
pháp chủ yếu để phát triển Du lịch Việt Nam thành ngành kinh tế mũi nhọn (Vũ
Đình Thụy, 1997); Những giải pháp tổ chức và quản lý hệ thống khách sạn trên địa
bàn Hà Nội (Võ Quế, 2001); Hoàn thiện quản lý nhà nước về lao động trong kinh
doanh du lịch ở Việt Nam (Hoàng Văn Hoan, 2002); Những giải pháp nhằm phát

triển kinh doanh du lịch lữ hành trên địa bàn Hà Nội (Nguyễn Văn Mạnh, 2002);
Phương hướng và một số giải pháp để đa dạng hoá loại hình và sản phẩm du lịch ở
Quảng Nam- Đà Nẵng (Trương Sỹ Quý, 2003); Khai thác và mở rộng thị trường du
lịch quốc tế của các doanh nghiệp lữ hành trên địa bàn Hà Nội (Phạm Hồng
Chương, 2003). Điều kiện và các giải pháp chủ yếu để phát triển du lịch
Campuchia thành ngành kinh tế mũi nhọn (Ouk Vanna, 2004); Một số giải pháp
nâng cao chất lượng chương trình du lịch cho khách du lịch quốc tế đến Hà Nội của
các công ty lữ hành trên địa bàn Hà Nội (Lê Thị Lan Hương, 2004); Phát triển kinh
doanh lưu trú du lịch tại Vùng du lịch Bắc bộ của Việt Nam (Hoàng Thị Lan
Hương, 2011),…
Nhóm 4: Nghiên cứu về phát triển du lịch bền vững. Các nghiên cứu này có
thể nêu thành một số nội dung sau:
Thứ nhất, quan điểm về du lịch bền vững và du lịch không bền vững. Du lịch
bền vững được một số công trình đề cập đến như Ecotourism and Sustainable
Development: Who Owns Paradise? (Honey, 1998); Sustainable Tourism in
Protected Areas: Guidelines for Planning and Management (Eagles và cộng sự,
2002); "Du lịch bền vững Cái gì là thực sự?"; Tourism and Environment (Hens,
1998); Báo cáo của WCED (WCED, 1996); Sustainable Tourism Management
(Swarbrook, 1999);


9
Tổ chức Du lịch thế giới (United National World Tourist Organization,
(UNWTO) định nghĩa như sau: "Sự phát triển bền vững của ngành du lịch đáp ứng
nhu cầu hiện tại của du khách và của địa phương du lịch, đồng thời bảo vệ và thúc
đẩy cơ hội phát triển cho tương lai. Butler (1993) cho rằng phát triển du lịch bền
vững là quá trình phát triển và duy trì trong một không gian và thời gian nhất định
(ở đó tồn tại cộng đồng, môi trường), thêm nữa sự phát triển sẽ không làm giảm khả
năng thích ứng môi trường của con người trong khi vẫn có thể ngăn chặn những tác
động tiêu cực tới sự phát triển lâu dài. Đây là quan điểm đã nhận được sự đồng

thuận của các tác giả khác như Murphy (1994), Mowforth và Munt (1998). Trong
khi đó, Machado (2003) lại nhấn mạnh đến tính bền vững của các sản phẩm trong
phát triển du lịch. Nghiên cứu của Tosun (1998) đề xuất phát triển du lịch bền vững
là một thành phần của phát triển du lịch và nó tạo ra những đóng góp đáng kể hoặc
ít hoặc phủ nhận sự duy trì các nguyên tắc của sự phát triển trong thời kỳ nhất định
mà không tổn hại đến khả năng đáp ứng các nhu cầu và mong muốn của thế hệ
tương lai. Bổ sung vào quan điểm này, Hens (1998) chỉ ra rằng phát triển du lịch
bền vững đòi hỏi sự quan tâm của các bên liên quan đến việc quản lý các nguồn tài
nguyên theo các cách thức khác nhau nhằm khai thác và cung cấp các sản phẩm du
lịch đáp ứng các nhu cầu kinh tế, xã hội và thẩm mỹ trong khi vẫn duy trì được bản
sắc văn hóa, đa dạng hệ sinh thái và đảm bảo sự sống cho thế hệ mai sau.
Tuy có nhiều khái niệm về du lịch bền vững nhưng tập trung lại nó phải có
những nội dung chủ yếu sau đây: Giảm thiểu các tác động tiêu cực đến môi trường
tự nhiên và môi trường nhân văn. Du lịch phải thân thiện với môi trường; Đảm bảo
lợi ích nhiều mặt của cộng đồng dân cư địa phương. Tăng thu nhập cho địa phương;
Phải có trách nhiệm về phát triển du lịch hôm nay và cả mai sau. Vì vậy du lịch bền
vững đồng nghĩa với du lịch trách nhiệm.
Du lịch bền vững khác với du lịch đại chúng như thế nào? Du lịch đại chúng
không được lập kế hoạch cẩn thận cho việc nâng cao công tác bảo tồn hoặc giáo
dục, không mang lại những lợi ích cho cộng đồng địa phương và có thể phá huỷ
nhanh chóng các môi trường nhạy cảm. Và kết quả là có thể phá huỷ hoặc làm thay
đổi một cách không thể nhận ra được các nguồn lợi và văn hoá mà chúng phụ thuộc
vào. Ngược lại, du lịch bền vững thì được lập kế hoạch một cách cẩn thận từ lúc
bắt đầu để mang lại những lợi ích cho cộng đồng địa phương, tôn trọng văn hoá,
bảo tồn nguồn lợi tự nhiên và giáo dục du khách và cả cộng đồng địa phương. Du
lịch bền vững có thể tạo ra một lợi tức tương tự như du lịch đại chúng, nhưng có


10
nhiều lợi ích được nằm lại với cộng đồng địa phương và các nguồn lợi tự nhiên, các

giá trị văn hoá của vùng được bảo vệ.
Trong nhiều trường hợp, các hoạt động du lịch đại chúng trong quá khứ có thể
mang đến những tác động xấu đến bảo tồn cảnh quan do việc thiếu các điều khiển
quản lý và cơ chế lập kế hoạch hiệu quả. Ngược lại, du lịch bền vững có những kế
hoạch được tính toán cẩn thận để giảm thiểu các tác động xấu của du lịch, đồng thời
còn đóng góp vào công tác bảo tồn và sức khoẻ của cộng đồng về cả mặt kinh tế và xã
hội. Du lịch bền vững cũng tạo ra lợi nhuận như du lịch đại chúng, tuy nhiên cộng đồng
địa phương được hưởng nhiều hơn từ lợi tức đó, và các nguồn lợi tài nguyên thiên
nhiên và văn hoá của vùng được bảo vệ. Trong một số trường hợp, các hoạt động du
lịch đại chúng trước đây đã gây ra những đe doạ cho bảo tồn biển do thiếu các cơ chế
quản lý và các kế hoạch hiểu quả. Ngược lại, du lịch bền vững cân nhắc tìm kiếm để
giảm thiểu đến mức tối thiểu các tác động xấu của du lịch, trong khi đóng góp cho bảo
tồn và các giá trị tốt cho cộng đồng địa phương, cả về kinh tế và xã hội. Du lịch đại
chúng không cung cấp nguồn quỹ tài trợ cho cả các chương trình bảo tồn lẫn cộng
đồng địa phương bảo vệ vùng tránh khỏi những hoạt động và phát triển mà có thể gây
hại đến cảnh đẹp tự nhiên của vùng. Những cơ hội và các đe doạ có thể chỉ được điều
khiển thông qua du lịch bền vững đã được lập kế hoạch và quản lý cẩn thận.
Muốn củng cố khái niệm du lịch bền vững, nhiều nhà nghiên cứu đã nghiên
cứu tác động của du lịch và so sánh các yếu tố được coi là bền vững với các yếu tố
được coi là không bền vững. Có một số cuộc nghiên cứu đã chỉ ra tác động của du
lịch trên cả ba lĩnh vực kinh tế, môi trường, xã hội đã đưa ra so sánh các yếu tố
được coi là không bền vững và các yếu tố được coi là bền vững trong phát triển du
lịch (Eagles và cộng sự, 2002; Hens, 1998; Machado, 2003).
Thứ hai, các nghiên cứu khẳng định vai trò của phát triển du lịch bền vững:
Ngay từ những năm 1980, khi các vấn đề về phát triển bền vững bắt đầu được đề
cập đã có nhiều nghiên cứu khoa học được thực hiện nhằm phân tích những ảnh
hưởng của du lịch đến sự phát triển bền vững. trọng tâm của các nghiên cứu này
nhằm giải thích cho sự cần thiết phải đảm bảo tính vẹn toàn của môi trường sinh
thái trong khi tiến hành các hoạt động khai thác tài nguyên phục vụ phát triển du
lịch tạo nền tảng cho sự phát triển bền vững. Krippendorf (1975) và Jungk (1980)

là những nhà khoa học đầu tiên trên thế giới cảnh báo về những suy thoái do hoạt
động du lịch gây ra và đưa ra khái niệm “du lịch rắn” (hard tourism) để chỉ kiểu
du lịch ồ ạt và “du lịch mềm” (soft tourism) để chỉ một chiến lược du lịch mới


11
tôn trọng môi trường. Inskeep (1991) nhấn mạnh về sự đóng góp của của hoạt
động du lịch đối với môi trường và kinh tế. Tác giả nhấn mạnh, để phát triển du
lịch bền vững phải đạt 4 mục đích: tối ưu hoá các lợi ích kinh tế - xã hội; bảo tồn
môi trường và tài nguyên thiên nhiên, văn hoá, xã hội và khai thác có hiệu quả
các tài nguyên này; bảo vệ các giá trị bản địa truyền thống và khai thác tốt các
giá trị này; bảo đảm chia sẻ lợi ích kinh tế một cách công bằng cho cộng đồng
dân cư và sự tham gia tích cực của cộng đồng địa phương trong hoạt động du
lịch. Ngày 14/6/1992, tại Hội nghị của Liên hiệp quốc về môi trường và phát
triển (UNCED) đã diễn ra hội nghị thượng định về Trái đất (The Earth summit).
Tại hội nghị này 182 chính phủ đã thông qua CTNS 21 (2004), một chương trình
hành động toàn diện nhằm đảm bảo một tương lai bền vững cho nhân loại bước
vào thế kỷ XXI. Chương trình nghị sự 21 đã nêu ra các vấn để liên quan đến môi
trường và phát triển có nguy cơ gây ra những tác động nguy hại về kinh tế và
sinh thái từ đó đề ra chiến lược nhằm hướng tới các hoạt động mang tính bền
vững hơn.
Từ đầu những năm 1990, nhiều nghiên cứu về phát triển du lịch bền vững
nhằm hạn chế các tác động tiêu cực của hoạt động du lịch, đảm bảo sự phát triển lâu
dài. Một số loại hình du lịch quan tâm đến môi trường đã bắt đầu xuất hiện như: du
lịch sinh thái, du lịch gắn với thiên nhiên, du lịch khám phá, du lịch thay thế, du lịch
mạo hiểm, … đã góp phần nâng cao hình ảnh về một loại hình du lịch có trách
nhiệm, đảm bảo sự phát triển bền vững.
Năm 1996, hưởng ứng chương trình Nghị sự Trái đất, ngành du lịch toàn cầu
đại diện bởi ba tổ chức quốc tế gồm: Hội đồng lữ hành du lịch thế giới (WTTC), Tổ
chức du lịch thế giới (WTO) và Hội đồng Trái đất (Earth council) đã ứng dụng

những nguyên tắc của Agenda 21 vào du lịch, phối hợp xây dựng một chương trình
hành động với tên gọi “Chương trình nghị sự 21 về du lịch: Hướng tới sự phát triển
về môi trường”. Chương trình này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các doanh
nghiệp du lịch, các chính phủ, các cơ quan du lịch quốc gia, các tổ chức thương mại
và người đi du lịch.
Chương trình nghị sự 21 về du lịch đã đưa ra các lĩnh vực ưu tiên hành động
với mục đích xác định và dự kiến các bước tiến hành. Chương trình này nhấn mạnh
sự cần thiết phối hợp hành động giữa các chính phủ, phân tích tầm quan trọng về
chiến lược và kinh tế của ngành du lịch, đồng thời nêu bật những lợi ích to lớn của
việc phát triển du lịch theo hướng bền vững.


12
Thứ ba, các nghiên cứu nêu những nguyên tắc cơ bản đảm bảo phát triển du
lịch bền vững. Có lẽ hơn bất cứ hoạt động nào khác, ngành du lịch phụ thuộc rất
nhiều vào chất lượng của môi trường cũng như tài nguyên du lịch thiên nhiên và
nhân văn. Nhìn chung, ngành du lịch mang đặc tính phát triển nhanh, ngắn hạn và
hội chứng "bùng nổ" thường làm tổn hại đến "tài sản" của chính ngành du lịch. Du
lịch thường tìm mọi cách khai thác triệt để tài nguyên du lịch vì mục đích lợi nhuận
và khi "tài sản du lịch" ở một nơi nào đó bị tổn thương nghiêm trọng, tàn lụi thì
cách làm của du lịch đơn giản là chuyển hoạt động du lịch đi nơi khác. Nếu du lịch
không muốn làm tăng thêm sự xuống cấp của môi trường và tự phá huỷ mình trong
quá trình hoạt động, nhất là trong tương lai, thì ngành du lịch cũng giống như các
ngành kinh doanh khác phải nhận biết được trách nhiệm của mình đối với môi
trường, kinh tế, xã hội và phải biết làm thế nào để du lịch trở nên bền vững hơn. Để
cho sự phát triển du lịch được bền vững, đòi hỏi phải đề cập đúng mức đến môi
trường rộng hơn về kinh tế, chính trị, xã hội. Chính vì lẽ đó, phát triển du lịch bền
vững cần phải tuân thủ các nguyên tắc của mình. Các công trình của các tác giả đề
cập đến vấn đề này như: Tourism and Environment (Hens, 1998); Tourism and
Sustainability: New Tourism in the Third World (Mowforth và Munt, 1998).

National and Regional Tourism planning: Metholodogies and Case Studies
(Inskeep, 1995). Mowforth và Munt (1998) có đề cập đến phát triển du lịch bền
vững và đưa ra một số nguyên tắc bền vững thường được dùng trong du lịch bao
gồm: bền vững sinh thái, bền vững văn hoá, bền vững kinh tế, có tính cách giáo
dục, có sự tham gia của cộng đồng.
Thứ tư, các nghiên cứu chỉ ra những dấu hiệu nhận biết về phát triển du lịch
bền vững: "Chỉ tiêu cho phát triển bền vững: Lý thuyết, Phương pháp, áp dụng" bài
viết trong Hội thảo về “Du lịch sinh thái và Phát triển bền vững ở Việt Nam, Hà
Nội; Sustainable Tourism Management (Swarbrook, 1999). Trong cuốn Definition
and Ecotourism Principles của TIES (2004): Du lịch bền vững có 3 hợp phần
chính, đôi khi được ví như “ba chân”, đó là: i) Thân thiện môi trường, du lịch
bền vững có tác động thấp đến nguồn lợi tự nhiên và các khu bảo tồn nói riêng. Nó
giảm thiểu các tác động đến môi trường (động thực vật, các sinh cảnh sống, nguồn
lợi sống, sử dụng năng lượng và ô nhiễm …) và cố gắng có lợi cho môi trường; 2i)
Gần gũi về xã hội và văn hoá, Nó không gây hại đến các cấu trúc xã hội hoặc văn
hoá của cộng đồng nơi mà chúng được thực hiện. Thay vào đó thì nó lại tôn trọng
văn hoá và truyền thống địa phương. Khuyến khích các bên liên quan (các cá nhân,


13
cộng đồng, nhà điều hành tour, và quản lý chính quyền) trong tất cả các giai đoạn
của việc lập kế hoạch, phát triển và giám sát, giáo dục các bên liên quan về vai trò
của họ; 3i) Có kinh tế, nó đóng góp về mặt kinh tế cho cộng đồng và tạo ra những
thu nhập công bằng và ổn định cho cộng đồng địa phương cũng như càng nhiều bên
liên quan khác càng tốt. Nó mang lợi ích cho người chủ, cho nhân viên và cả người
xung quanh. Nó không bắt đầu một cách đơn giản để sau đó sụp đổ nhanh do các
hoạt động kinh doanh nghèo nàn. Theo đó, một đơn vị kinh doanh du lịch mà có đủ
3 tiêu chí trên thì “sẽ kinh doanh tốt nhờ làm tốt”. Điều này có nghĩa là việc thực
hiện kinh doanh du lịch trong nhiều cách có thể không phá huỷ các nguồn lợi tự
nhiên, văn hoá và kinh tế, nhưng cũng khuyến khích đánh giá cao những nguồn lợi

mà du lịch phụ thuộc vào. Việc kinh doanh mà được thực hiện dựa trên 3 tiêu chí
này có thể tăng cường việc bảo tồn nguồn lợi tự nhiên, đánh giá cao giá trị văn hoá
và mang lợi tức đến cho cộng đồng và có thể cũng sẽ thu lợi tức. Wall và cộng sự
(1993) đề ra một số chỉ tiêu đánh giá cho phát triển du lịch bền vững. Có thể xem là
các tiêu chuẩn chung cho đánh giá sự thành công của phát triển du lịch bền vững, cụ
thể là: i) Nhóm loại hình du lịch nằm trong phạm trù du lịch bền vững, bao gồm: Du
lịch sinh thái: hướng đến các điểm thiên nhiên, bảo tồn tài nguyên môi trường và cải
thiện phúc lợi cho người dân địa phương; Du lịch bền vững: không làm giảm nguồn
lực của thiên nhiên. Du lịch trách nhiệm: làm giảm thiểu các yếu tố tiêu cực của du
lịch ảnh hưởng đến môi trường; Du lịch thiên nhiên: các hoạt động du lịch và trải
nghiệm tập trung vào thiên nhiên; Du lịch văn hóa: du khách trải nghiệm nền văn
hóa tại điểm đến; Du lịch khám phá. Du lịch sức khỏe và spa: các hoạt động vật lý
trị liệu, giải pháp xả căng thẳng…
Theo nghiên cứu của tổ chức chuyên gia cao cấp Hà Lan (PUM), hiện có 12
quốc gia tham gia xu hướng du lịch bền vững là Mỹ, Anh, Đức, Úc, Pháp, Thụy
Điển, Hà Lan, Đan Mạch, Na Uy, Áo, Canada và Ireland. Đặc điểm đi du lịch của
du khách các nước này là đi một vài cá nhân hoặc nhóm người, có độ tuổi trên 60,
lập kế hoạch và tự tổ chức, tìm hiểu thông tin du lịch tại các điểm đến chủ yếu qua
internet; thường tham gia các hoạt động du lịch ngoài trời gắn với thiên nhiên, khám
phá, trị liệu, tham quan các bản làng dân tộc, vùng hoang sơ…
Thứ năm, các nghiên cứu chỉ ra những tiêu chí đánh giá tính bền vững của du
lịch. Là một ngành kinh tế trọng yếu của thế giới, du lịch phụ thuộc rất nhiều vào sự
thành công của các lĩnh vực kinh tế khác, đồng thời du lịch có thị trường biến động
rất nhanh. Chính vì vậy, du lịch là ngành kinh tế đặc biệt mong manh, rất dễ bị tổn


14
thương dưới tác động không chỉ của các điều kiện kinh tế, văn hoá, xã hội mà còn
chính trị và cả thiên nhiên. Một thảm hoạ thiên tai, một vụ khủng bố, một cuộc nổi
loạn, một thay đổi về chính trị hay một vụ việc nhỏ như ô nhiễm một bãi biển nào

đó cũng có thể tác động khốc liệt đến các hoạt động du lịch ở đây; vì đơn giản
khách du lịch sẽ chọn một điểm du lịch khác. Để đánh giá tính bền vững của các
hoạt động du lịch tại một điểm du lịch, khu du lịch, cần phải có những phương pháp
thích hợp, rẻ tiền và tốn ít thời gian. Những phương pháp này một mặt là để đo sự
thành công của công tác điều hành, quản lý du lịch, mặt khác, là để xây dựng hệ
thống cảnh báo giúp cho các nhà quản lý phát hiện sớm tình trạng lâm nguy của một
điểm du lịch, khu du lịch để đưa ra những giải pháp cụ thể, kịp thời và có hiệu quả.
Hiện nay, có hai phương pháp đánh giá tính bền vững của du lịch được sử dụng:
dựa vào việc xác định sức chứa (khả năng tải) và dựa vào bộ chỉ tiêu môi trường.
Theo D'Amore (1983), "sức chứa là điểm trong quá trình tăng trưởng du lịch mà
người dân địa phương bắt đầu thay mất cân bằng do mức độ tác động xã hội không
thể chấp nhận được của hoạt động du lịch". Shelby và Heberlein, 1987 thì cho rằng
"sức chứa là mức độ sử dụng mà vượt qua nó thì vi phạm tiêu chuẩn môi trường".
Năm 1990, Bob đã đưa ra "sức chứa là số lượng du khách cực đại sử dụng điểm du
lịch có thể thoả mãn nhu cầu cao nhưng ít gây tác động xấu đến tài nguyên". Còn
theo Hens (1998) thì "sức chứa là số lượng người cực đại có thể sử dụng điểm du
lịch mà không gây suy thoái đến mức không thể chấp nhận được đối với môi trường
tự nhiên và không làm suy giảm đến mức không thể chấp nhận được việc thoả mãn
các nhu cầu của du khách". Tổ chức du lịch thế giới UNWTO định nghĩa "sức chứa
là số lượng người tối đa đến thăm một điểm du lịch trong cùng một thời điểm mà
không gây thiệt hại tới môi trường sống, môi trường kinh tế và môi trường văn hoá -
xã hội; đồng thời không làm giảm sự thoả mãn của du khách tham quan".
Đối với điểm du lịch, phương pháp xác định sức chứa gặp những trở ngại sau:
Ngành du lịch phụ thuộc nhiều thuộc tính của môi trường - mỹ học, cuộc sống
hoang dã, lối ra bờ biển và khả năng hỗ trợ những cách sử dụng tích cực như thể
thao chẳng hạn. Mỗi thuộc tính đó có phản ứng riêng của nó tới nhiều cấp độ sử
dụng khác nhau; Hoạt động của con người tác động lên hệ thống có thể từ từ và có
thể tác động lên những bộ phận khác nhau của hệ thống với những mức độ khác
nhau; Mọi môi trường du lịch là môi trường đa mục tiêu, cho nên phải tính đến cả
việc sử dụng vào các mục đích khác, đồng thời xác định chính xác mức độ sử dụng

cho du lịch; Cách sử dụng khác nhau sẽ dẫn đến tác động khác nhau. Tác động của
100 người đi bộ thì khác với 100 người đi xe đạp; 10 nhà nhiếp ảnh thì có tác động


15
khác với 10 tay thợ săn; Các nền văn hoá khác nhau có mức độ nhạy cảm khác nhau
với thay đổi. (Machado, 1990; Manning, 1996)
Boullón (1985) đã đưa ra một công thức chung đơn giản để xác định sức chứa
của một khu du lịch. Đánh giá tính bền vững của các hoạt động du lịch dựa vào bộ
chỉ tiêu môi trường của Tổ chức du lịch thế giới UNWTO. Ngoài các chỉ tiêu chung
cho ngành du lịch, một số chỉ tiêu đặc thù của điểm du lịch cũng đã được UNWTO
đưa ra, nhằm đánh giá tính bền vững của một điểm du lịch cụ thể. Bộ chỉ tiêu của
UNWTO đã được sử dụng nhiều nơi để đánh giá tính bền vững của một điểm du lịch
và hoạt động du lịch. Tuy nhiên, nhiều chỉ tiêu không xác thực, khó đánh giá và rất
khó xác minh chính xác như mức độ thoả mãn của du khách dựa trên phiếu thăm dò,
loại bảo vệ điểm du lịch, tỷ lệ động vật trên bờ biển động vật dưới biển, độ xói mòn
đất, lượng tiền rò rỉ… Chính vì vậy, việc áp dụng các chỉ thị này chưa thật rộng rãi.
Tháng 10/2008, nhà sáng lập đồng thời là chủ tịch Quỹ tài trợ Liên hợp quốc
(United Nations Foundation), ông Ted Turner, đã tập hợp Liên minh Rừng nhiệt
đới, Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP) và Tổ chức Du lịch Thế giới
Liên hợp quốc (UNWTO) nhằm công bố tiêu chí du lịch bền vững toàn cầu lần đầu
tiên tại Hội nghị Bảo tồn Thế giới của IUCN. Bộ tiêu chí mới này được xây dựng
dựa trên cơ sở hàng nghìn các tiêu chí đã được áp dụng thực tiễn hiệu quả trên khắp
thế giới. Các tiêu chuẩn này được phát triển để cung cấp một khung hướng dẫn hoạt
động du lịch bền vững, giúp các doanh nhân, người tiêu dùng, chính phủ, các tổ
chức phi chính phủ và các cơ sở giáo dục bảo đảm rằng hoạt động du lịch là nhằm
giúp đỡ chứ không làm hại cộng đồng và môi trường địa phương. Dự án xây dựng
Tiêu chuẩn toàn cầu về du lịch bền vững là một nỗ lực nhằm hướng đến mục tiêu
giúp mọi người hiểu biết thấu đáo về du lịch bền vững. Đối với các nhà kinh doanh
du lịch đó là những tiêu chí đầu tiên cần đạt đến. Tiêu chuẩn du lịch bền vững toàn

cầu hướng tới 4 mục tiêu chính: hoạch định phát triển bền vững và hiệu quả, nâng
cao lợi ích kinh tế xã hội cho cộng đồng địa phương, gìn giữ di sản văn hóa và giảm
thiểu những ảnh hưởng tiêu cực đối với môi trường (IUCN, 1980).
Thứ sáu, các nghiên cứu đề xuất giải pháp nhằm phát triển du lịch bền vững
tại các vùng địa phương. Điển hình là công trình - Mô hình lý thuyết về phát triển
du lịch bền vững ở Phong Nha - Kẻ Bàng (Trần Tiến Dũng, 2006); Giải pháp phát
triển du lịch bền vững: Để phát triển du lịch bền vững, các nghiên cứu cũng cho
rằng cần thực hiện các giải pháp sau đây:
1. Bảo vệ và khai thác hợp lý môi trường tự nhiên (bãi biển, dòng sông, cánh
rừng, hệ sinh thái,…)
2. Bảo vệ và tôn tạo môi trường nhân văn (danh lam thắng cảnh, di sản văn


16
hóa lịch sử, truyền thống bản sắc dân tộc và địa phương,…)
3. Xây dựng kế hoạch quy hoạch khu du lịch một cách khoa học và xây dựng
tầm nhìn.
4. Tính toán kỹ và quản lý chặt chẽ sức chứa du khách (không lạm dụng và
tăng số lượng du khách quá sức chứa).
5. Đào tạo cán bộ và nhân viên du lịch có tính chuyên nghiệp cao (Kể cả
ngành hướng dẫn du lịch và ngành khách sạn – nhà hàng – resort).
6. Gắn kết chặt chẽ giữa các tổ chức, hiệp hội du lịch, công ty du lịch và chính
quyền địa phương trong việc quản lý du lịch bền vững ở các khu du lịch.
7. Nâng cao trách nhiệm bảo vệ môi trường đối với khách du lịch.
8. Đảm bảo phúc lợi xã hội và thu nhập cho cộng đồng dân cư địa phương.
Giáo dục truyền thống hiếu khách và giao lưu văn hóa.
9. Nâng cao vai trò quản lý giám sát của các cấp chính quyền từ trung ương
đến địa phương đối với các khu du lịch.
Tóm lại, qua sơ lược lịch sử các nghiên cứu về các vấn đề liên quan, chúng ta
có thể khái quát thành những điểm sau:

- Trên thế giới, lĩnh vực du lịch và du lịch bền vững đã được nhiều nhà khoa
học và các tổ chức quốc tế quan tâm nghiên cứu. Các ấn phẩm về lý luận và thực tiễn
về vấn đề phát triển du lịch bền vững là những tài liệu bổ ích cho việc nghiên cứu và
vận dụng cho các quốc gia bắt đầu tham gia tìm hiểu về loại hình du lịch này.
- Ở Việt Nam, du lịch bền vững là một lĩnh vực còn mới mẻ, các vấn đề về lý
luận của du lịch bền vững đang tiếp tục được thảo luận để đi đến thống nhất về nhận
thức và quan điểm trong các nhà nghiên cứu và điều hành du lịch. Từ đó, Luận án
lựa chọn hướng nghiên cứu là vai trò của Chính quyền địa phương cấp tỉnh trong
phát triển du lịch bền vững ở Việt Nam, trong đó đi sâu vào trường hợp cụ thể là địa
phương tỉnh Ninh Binh.
- Vận dụng cơ sở lí thuyết vai trò kinh tế của Nhà nước trong kinh tế thị
trường áp dụng vào phân tích vai trò của Chính quyền địa phương cấp tỉnh trong
phát triển du lịch bền vững tỉnh Ninh Bình, Luận án đánh giá thực trạng và đề xuất
định hướng nhằm tăng cường vai trò của chính quyền địa phương cấp tỉnh trong
phát triển du lịch bền vững tỉnh Ninh để đảm bảo sự đóng góp tích cực của du
lịch đối với sự phát triển kinh tế xã hội và sử dụng bền vững tài nguyên, môi
trường địa phương.

×