Tải bản đầy đủ (.docx) (39 trang)

Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa - nghiên cứu điển hình tại công ty cổ phần đầu tư xây dựng Quang Trung

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (232 KB, 39 trang )

TÓM LƯỢC
Trong một vài năm trở lại đây, Nhà nước đã thực hiện đường lối đổi mới cơ chế
kinh tế với sự thừa nhận đa hình thức sở hữu, đa hình thức kinh doanh. Quá trình đổi
mới kinh tế ở nước ta hiện nay đã đạt được những thành tựu nổi bật. Nhưng quá trình
đó càng đi vào chiều sâu và bề rộng thì càng bộc lộ rõ những vấn đề mới cần giải
quyết. Tự do, năng động, sáng táo, nhạy bén là thuộc tính khách quan và là yêu cầu
của nền kinh tế thị trường, nhưng gắn liền với nó là nguy cơ tự do về Chính phủ, gian
lận kinh doanh, thương mại… Hơn nữa, trong giai đoạn này nước ta đã thực sự hội
nhập vào nền kinh tế quốc tế (gia nhập WTO) thì càng cần thiết đòi hỏi Nhà nước phải
có một khung pháp lý Thương mại hoàn chỉnh để điều chỉnh các hoạt động đó đúng
chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước.
Hoạt động thương mại luôn luôn đi đôi với việc ký kết và thực hiện hợp đồng.
Việc trao đổi và mua bán hàng hóa trên thị trường, muốn có được một thỏa thuận
chung, hợp lý và thỏa mãn mong muốn của cả hai bên thì việc đi tới ký kết một bản
hợp đồng là đương nhiên. Nhưng để thực hiện đúng được bản hợp đồng đó còn có
nhiều yếu tố tác động tới, vì thế, không thể tránh khỏi việc vi phạm cũng như làm trái
hợp đồng, kể cả là cố ý hay vô tình. Pháp luật Việt Nam hiện nay đã có những quy
phạm pháp luật để xử phạt những hành vi vi phạm đó, cụ thể gồm: phạt vi phạm, bồi
thường thiệt hại, buộc thực hiện hợp đồng và chế tài hủy hợp đồng. Tuy nhiên, các chế
tài phát sinh nhiều bất cập trong việc thực thi, áp dụng nó vào thực tế.
Là một sinh viên chuyên ngành luật thương mại cùng những kết quả thu được
trong quá trình thực tập tại công ty cổ phần đầu tư xây dựng Quang Trung, em quyết
định lựa chọn đề tài: “ Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa - nghiên
cứu điển hình tại công ty cổ phần đầu tư xây dựng Quang Trung.” làm đề tài khóa luận
tốt nghiệp.
1
1
LỜI CẢM ƠN.
Em xin chân thành cảm ơn Th.s Phùng Bích Ngọc, giảng viên bộ môn luật
chuyên ngành, khoa kinh tế - luật, trường Đại học Thương Mại trong thời gian qua đã
tận tình giúp đỡ em trong quá trình viết và hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này.


Em xin cảm ơn Ban lãnh đạo cùng các anh chị cán bộ công nhân viên trong
công ty cổ phần đầu tư xây dựng Quang Trung đã giúp đỡ và tạo điều kiện cho em
nắm bắt thông tin để thực hiện đề tài.
Với thời gian thực tập và nghiên cứu có hạn, cùng khả năng của bản thân còn
hạn chế, bài viết của em không tránh khỏi gặp phải một số thiếu sót. Em rất mong có
được sự góp ý, đánh giá của thầy cô để nội dung bài khóa luận này được hoàn chỉnh
hơn, góp một phần nào đó vào giải quyết vấn đề nhằm hoàn thiện hơn hệ thống pháp
luật về trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên
Đào Thị Tuyết
2
2
MỤ LỤC
3
3
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu khóa luận.
Trong xu hướng toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới, với chính sách mở cửa và hội
nhập, Việt Nam đang từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật thương mại. Năm 1997,
Luật Thương mại Việt Nam ra đời đánh dấu một bước phát triển lớn trong chặng
đường xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật nước ta. Kế thừa và phát huy những
điều tích cực đó, Luật Thương mại năm 2005 ra đời hoàn chỉnh hơn, khắc phục được
phần lớn những khuyết điểm của Luật Thương mại năm 1997, trong đó đáng kể nhất là
các điều khoản điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa, đáp ứng nguyện vọng và
mong muốn của các thương nhân trong nước cũng như nước ngoài muốn hoạt động
thương mại tại Việt Nam.
Bên cạnh đó Bộ luật dân sự được Quốc hội thông qua ngày 14/06/2005 và bắt
đầu có hiệu lực từ ngày 01/01/2006 có nhiều quy định mới, tiến bộ về điều chỉnh pháp
luật đối với hợp đồng nói chung và hợp đồng trong kinh doanh nói riêng.

Các chế tài trong thương mại là những quy định ảnh hưởng trực tiếp đến việc
thực hiện hợp đồng thương mại, bởi thông qua đó, chúng ta có thể điều tiết hành vi của
các thương nhân trong quá trình thực hiện hợp đồng, tạo ra sự ổn định tương đối cho
sự phát triển của nền kinh tế. Tuy nhiên, thực tiễn xử lý các hành vi vi phạm hợp đồng
thương mại trong thời gian qua vẫn còn một số vấn đề gây tranh cãi, gây khó khăn cho
các cơ quan giải quyết tranh chấp và các bên trong việc xác định hình thức xử lý đối
với bên có hành vi vi phạm hợp đồng. Những vấn đề này phần lớn xuất phát từ sự bất
cập của các quy định về chế tài trong thương mại. Đi sâu phân tích về một số bất cập
của chế tài thương mại để nghiên cứu sửa đổi đạt được hiệu quả cao hơn trong quá
trình điều chỉnh các vấn đề hoạt động thương mại.
Khi tranh chấp hợp đồng xảy ra giữa các bên, theo quy định của Bộ luật tố tụng
dân sự hiện hành thì bên đưa ra yêu cầu có nghĩa vụ đưa ra các chứng cứ chứng minh
cho yêu cầu của mình. Đối với cả yêu cầu phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại, bên
đưa ra yêu cầu đều phải chứng minh được hành vi vi phạm của bên kia trước Tòa án.
Sau khi xác định được là có hành vi vi phạm, đối với yêu cầu phạt vi phạm các bên chỉ
cần căn cứ vào mức phạt đã được thỏa thuận trong Hợp đồng để xác định.
Tuy nhiên đối với yêu cầu bồi thường thiệt hại, trên thực tế bên đưa ra yêu cầu
thường gặp khó khăn trong việc xác định thực tế thiệt hại xảy ra để có thể đưa ra mức
tiền yêu cầu bồi thường hợp lý.
Với những bất cập cũng như điều luật sửa đổi hiện nay vẫn có những điều chưa
thực sự phù hợp trong việc áp dụng các chế định trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua
bán hàng hóa tại các doanh nghiệp. Để hiểu rõ hơn cũng như tìm ra được sai sót và biện
pháp khắc phục những yếu điểm đó đòi hỏi cần phải có những nghiên cứu cần thiết.
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan.
4
4
Chế định trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa là vấn đề thu hút
được sự quan tâm của nhiều người. Trong những năm qua, giới nghiên cứu khoa học
pháp lý đã có một số công trình, bài nghiên cứu liên quan đến vấn đề này với những
phạm vi và mức độ khác nhau như:

− Luận án tiến sĩ của PGS.TS Phạm Hữu Nghị năm 1996 “Chế độ Hợp đồng trong nền
kinh tế thị trường Việt Nam ở giai đoạn hiện nay”
− Bài viết của tác giả Phạm Thị Trong “Vi phạm hợp đồng được dự đoán trước – sự cần
thiết phải điều chỉnh trong pháp luật hợp đồng của Việt Nam” năm 1998.
− Luận văn thạc sĩ của tác giả Đào Anh Tuấn “Mối tương quan giữa Hợp đồng kinh tế -
Hợp đồng dân sự - Hợp đồng thương mại” năm 2000.
− Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Văn Hùng năm 2002 “Một số vấn đề về Hợp đồng dân
sự - Hợp đồng kinh tế - Hợp đồng thương mại và các giải pháp hoàn thiện chế định
pháp luật hợp đồng”.
− Luận án tiến sĩ của Trương Văn Dũng năm 2003 “Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế và vấn đề hoàn thiện pháp luật Việt Nam”
− Bài viết của tác giả Phan Chí Hiếu “Hoàn thiện chế định Hợp đồng”, tạp chí nghiên
cứu lập pháp số 04/2005.
− Bài viết của tác giả Dương Anh Sơn và Lê Thị Bích Thọ “Một số ý kiến về phạt vi
phạm do vi phạm hợp đồng theo quy định của pháp luật Việt Nam”, tạp chí khoa học
pháp lý số 01/2005.
− Bài viết của tác giả Đỗ Văn Đại “Phạt vi phạm hợp đồng trong pháp luật thực định
Việt Nam”, tạp chí Tòa án Nhân dân số 19/2007.
− Bài viết của tác giả Đào Huy Trường “Tác động của hình thức lỗi đến việc xác định
trách nhiệm hợp đồng nhìn từ góc độ nguyên tắc trung thực và thiện chí”, tạp chí khoa
học pháp lý số 01/2007.
− Bài viết của tác giả Trần Việt Anh “ Những bất cập và kiến nghị hoàn thiện chế định
trách nhiệm dân sự trong hợp đồng hay trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng”, tạp
chí nghiên cứu lập pháp số 198, tháng 7-2011.
Trong những công trình nghiên cứu trên, các tác giả chỉ tập trung luận giải một
số vấn đề lý luận và thực tiễn xung quanh yêu cầu xây dựng và hoàn thiện pháp luật
hợp đồng thương mại của Việt Nam. Tuy nhiên, do mục đích nghiên cứu của các công
trình đặt ra khác nhau nên các công trình không đi sâu vào vấn đề trách nhiệm do vi
phạm hợp đồng mua bán hàng hóa. Vì vậy, trên cơ sở các công trình nghiên cứu nói
trên là những tài liệu rất quý giá cho tác giả nghiên cứu đề tài “Trách nhiệm do vi

phạm hợp đồng mua bán hàng hóa – nghiên cứu điển hình tại công ty cổ phần đầu tư
xây dựng Quang Trung.”
3. Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu.
Quan hệ mua bán hàng hóa là một quan hệ quan trọng trong giao lưu thương
mại. Trong quan hệ này các chủ thể chịu sự ràng buộc với nhau về mặt pháp lý thông
5
5
qua một hợp đồng, đó chính là hợp đồng mua bán hàng hóa. Để điều chỉnh hợp đồng
này, hiện nay ở Việt Nam có nhiều văn bản luật khác nhau nhưng quan trọng và chủ
yếu nhất là Luật Thương mại 2005. Tuy nhiên qua một thời gian dài áp dụng, Luật
Thương mại đã bộc lộ một số điểm còn hạn chế, thiếu sót.
Bên cạnh đó, trong xu thế phát triển và hội nhập hiện nay, để theo kịp tiến trình
phát triển của nền kinh tế thế giới, đòi hỏi chúng ta phải có một nền kinh tế thị trường
tự do, năng động, sáng tạo và nhạy bén. Trên cơ sở đó, vấn đề nghiên cứu, hoàn thiện
pháp luật để tạo khung pháp lý về trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa
là một điều hết sức cần thiết.
Nghiên cứu đề tài : “Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa -
nghiên cứu điển hình tại công ty cổ phần đầu tư xây dựng Quang Trung” nhằm
góp phần làm sáng tỏ những quy định của Luật Thương mại năm 2005 về trách nhiệm
do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa và đưa ra một số phân tích, bình luận về vấn
đề này. Đây là một đề tài khóa luận có ý nghĩa quan trọng cả về phương diện lý luận
cũng như thực tiễn.
Khóa luận nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận cơ bản về chế
định trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa. Phân tích, đánh giá một
cách khách quan thực trạng áp dụng Luật Thương mại năm 2005 về chế định trách
nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa tại Công ty cổ phần đầu tư xây dựng
Quang Trung, từ đó chỉ ra những bất cập, hạn chế, đặc biệt những điểm không tương
thích với thực tiễn cũng như pháp luật thương mại quốc tế. Khóa luận đã đề xuất
phương hướng và những giải pháp cụ thể để tiếp tục hoàn thiện các quy định của Luật
Thương mại Việt Nam năm 2005 về chế định trách nhiệm hợp đồng mua bán hàng

hóa, nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng và phát triển kinh tế cũng như yêu cầu phát triển
của hoạt động mua bán hàng hóa và pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa trong
giai đoạn hiện nay, đặc biệt trước xu thế hội nhập kinh tế quốc tế.
4. Đối tượng, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu.
4.1. Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những quy định của Luật Thương mại năm
2005 về chế định trách nhiệm của các bên do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa, cụ
thể là: khái niệm trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa, các hành vi vi
phạm hợp đồng, các căn cứ quy định trách nhiệm do vi phạm hợp đồng, các hình thức
quy định trách nhiệm do vi phạm hợp đồng, các trường hợp miễn trách nhiệm và việc
vận dụng các hình thức trách nhiệm trong thực tiễn.
4.2. Mục tiêu nghiên cứu.
− Dựa trên việc phân tích cơ sở lý luận về chế định trách nhiệm do vi phạm hợp đồng
mua bán hàng hóa, trên cơ sở tìm hiểu, đánh giá một cách khách quan thực trạng thực
thi các quy định của Luật Thương mại Việt Nam năm 2005 về chế định trách nhiệm do
6
6
vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa cùng với việc tìm ra những bất cập, hạn chế
trong các quy định của Luật Thương mại năm 2005, khóa luận đề xuất những giải
pháp cụ thể nhằm hoàn thiện các quy định của luật liên quan tới chế định trách nhiệm
do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
Để đạt được mục tiêu trên, khóa luận tập trung giải quyết những nhiệm vụ cụ
thể sau đây:
− Nghiên cứu và phân tích những vấn đề lý luận cơ bản về chế định trách nhiệm do vi
phạm hợp đồng mua bán hàng hóa.
− Phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định về chế định trách nhiệm do vi phạm
hợp đồng mua bán hàng hóa theo Luật Thương mại năm 2005 tại Công ty cổ phần đầu
tư xây dựng Quang Trung.
− Phân tích, đánh giá một cách sâu sắc những bất cập, hạn chế trong các quy định của
Luật Thương mại năm 2005 về chế định trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán

hàng hóa.
− Đề xuất phương hướng và những giải pháp cụ thể nhằm tiếp tục hoàn thiện các quy
định của Luật Thương mại Việt Nam về chế định trách nhiệm do vi phạm hợp đồng
mua bán hàng hóa.
4.3. Phạm vi nghiên cứu.
Ở phạm vi hẹp trong bài khóa luận này, em nghiên cứu những quy định có liên
quan của Luật Thương mại năm 2005 về các chế định trách nhiệm do vi phạm hợp
đồng mua bán hàng hóa được áp dụng như thế nào tại Công ty cổ phần đầu tư xây
dựng Quang Trung.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Khi nghiên cứu đề tài, tác giả khóa luận sử dụng phương pháp luận của Chủ
nghĩa Mac – Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm chủ trương đường lối của
Đảng và Nhà nước về pháp luật. Đặc biệt, khóa luận được thực hiện trên cơ sở vận
dụng những quan điểm cơ bản của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước ta trong sự
nghiệp đổi mới nhằm xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần,
vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế.
Khóa luận sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể, như: phương
pháp tổng hợp và phân tích, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh luật học,
phương pháp logic và lịch sử… Trong đó, phương pháp tổng hợp và phân tích là phương
pháp chủ yếu được sử dụng trong quá trình nghiên cứu hoàn thành khóa luận này.
6. Kết cấu khóa luận tốt nghiệp.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và các phụ lục, nội dung của đề tài được phân bổ
thành ba chương:
7
7
Chương 1: Những lý luận cơ bản về pháp luật điều chỉnh chế định trách nhiệm
do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa.
Chương 2: Thực trạng pháp luật điều chỉnh chế định trách nhiệm do vi phạm
hợp đồng mua bán hàng hóa.

Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật điều chỉnh chế định trách
nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa.
8
8
CHƯƠNG 1
NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH CHẾ ĐỊNH
TRÁCH NHIỆM DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA.
1.1. Một số khái niệm cơ bản liên quan đến trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua
bán hàng hóa.
1.1.1. Hợp đồng mua bán hàng hóa.
a) Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa theo Luật Thương mại 2005.
Điều 3 – Khoản 8 – Luật Thương mại năm 2005 có đưa ra định nghĩa mua bán
hàng hóa là hoạt động thương mại, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển
quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận thanh toán; bên mua có nghĩa vụ thanh
toán cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hóa theo thỏa thuận.
Luật Thương mại năm 2005 không đưa ra định nghĩa về hợp đồng mua bán
hàng hóa, nhưng chúng ta có thể xác định hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương
mại dựa vào quy định của Bộ luật dân sự về hợp đồng mua bán tài sản. Từ đó cho thấy
hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại là một dạng cụ thể của hợp đồng mua
bán tài sản. Một hợp đồng mua bán có thể là thỏa thuận về việc mua bán hàng hóa ở
hiện tại hoặc mua bán hàng hóa sẽ có ở một thời điểm nào đó trong tương lai.
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra một định nghĩa khái quát về hợp đồng
mua bán hàng hóa là sự thỏa thuận giữa các chủ thể nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm
dứt các quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa các chủ thể trong quan hệ mua bán hàng hóa.
b) Những đặc điểm cơ bản của hợp đồng mua bán hàng hóa.
• Chủ thể của hợp đồng.
Các chủ thể giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa tương ứng là bên mua và bên
bán trong quan hệ hợp đồng này. Theo Luật Thương mại năm 2005, hợp đồng mua bán
hàng hóa có thể được giao kết giữa các thương nhân hoặc ít nhất một bên là thương
nhân.

Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt
động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh.
Ngoài chủ thể là thương nhân, các tổ chức, cá nhân không phải là thương nhân
cũng có thể trở thành chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa. Khác với bên là thương
nhân, bên không phải là thương nhân có thể là mọi chủ thể có đủ năng lực hành vi để
tham gia giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa theo quy định của pháp
luật. Hoạt động của bên chủ thể không phải là thương nhân và không nhằm mục đích
sinh lợi trong quan hệ mua bán hàng hóa phải tuân theo luật thương mại khi chủ thể
này lựa chọn áp dụng luật thương mại.
• Đối tượng của hợp đồng.
Theo quy định của Luật Thương mại, đối tượng của hợp đồng mua bán hàng
hóa là hàng hóa. Hàng hóa là những sản phẩm lao động của con người, được tạo ra
9
9
nhằm mục đích trao đổi để thỏa mãn nhu cầu của con người. Hàng hóa có thể là vật, là
sức lao động của con người, là các quyền tài sản. Dưới góc độ kinh tế, hàng hóa được
phân thành tài sản hữu hình và tài sản vô hình; dưới góc độ pháp luật, hàng hóa được
phân thành động sản và bất động sản.
Khoản 2 – Điều 3 Luật Thương mại năm 2005 đã mở rộng quy định hàng hóa.
Theo đó, hàng hóa bao gồm tất cả các động sản, kể cả động sản hình thành trong tương
lai; và các vật gắn liền với đất đai. Tuy nhiên, khái niệm về hàng hóa vẫn còn có sự
hạn chế, chúng ta dễ dàng nhận thấy hàng hóa chỉ bao gồm các loại tài sản hữu hình.
Như vậy, các loại tài sản vô hình khác như quyền sử dụng đất, quyền sở hữu trí tuê…
chưa được thừa nhận là hàng hóa. Như vậy, không phải mọi loại hàng hóa đều được
coi là đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại mà chỉ những hàng
hóa bằng hiện vật theo quy định của Luật Thương mại và được phép kinh doanh mới
là đối tượng của hợp đồng.
• Nội dung của hợp đồng.
Nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa là sự thỏa thuận của các bên về việc
xác lập quyền và nghĩa vụ của họ trong việc mua bán. Do đó, nội dung của hợp đồng

mua bán hàng hóa trước hết là những điều khoản do các bên thỏa thuận. Điều 402 Bộ
luật dân sự cũng chỉ quy định các bên “có thể thỏa thuận” mà không đòi hỏi phải thỏa
thuận những nội dung chủ yếu nào. Trên cơ sở các quy định của Bộ luật dân sự và
Luật Thương mại, xuất phát từ tính chất của quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa
trong thương mại, có thể thấy những điều khoản quan trọng của hợp đồng mua bán
hàng hóa bao gồm: đối tượng, chất lượng, giá cả, phương thức thanh toán, thời hạn và
địa điểm giao nhận hàng.
Mặc dù nội dung của hợp đồng do các bên thỏa thuận, nhưng trong mọi quan hệ
hợp đồng nói chung và trong quan hệ mua bán hàng hóa nói riêng, các bên không chỉ
chịu sự ràng buộc bởi các điều khoản mà các bên thỏa thuận mà còn chịu sự ràng buộc
bởi những quy định của pháp luật.
• Hình thức của hợp đồng.
Hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa là cách thức thể hiện sự thỏa thuận
của các bên trong quan hệ mua bán hàng hóa. Hợp đồng mua bán có thể được thể hiện
dưới hình thức lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể của các bên giao kết.
Khi các bên thỏa thuận giao kết hợp đồng bằng hình thức nhất định thì hợp đồng được
coi là đã giao kết khi đã tuân thủ theo hình thức đó. Trong trường hợp pháp luật có quy
định hợp đồng mua bán hàng hóa phải được thể hiện bằng văn bản, phải được chứng
nhận của công chứng nhà nước, chứng thực, đăng ký hoặc xin phép thì phải tuân thủ
theo những quy định đó.
10
10
Hình thức văn bản bao gồm cả điện báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu và các
hình thức khác tương đương. Nếu một hợp đồng không tuân thủ các quy định của pháp
luật về hình thức, hợp đồng đó sẽ bị coi là vô hiệu.
1.1.2. Chế định trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa.
Trách nhiệm pháp lý do vi phạm hợp đồng là hậu quả pháp lý bất lợi mà bên vi
phạm hợp đồng phải gánh chịu khi có hành vi vi phạm hợp đồng đã cam kết.
Theo Khoản 12 và 13 – Điều 3 – Luật Thương mại năm 2005:
Vi phạm hợp đồng là việc một bên không thực hiện, thực hiện không đầy đủ

hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ theo thỏa thuận giữa các bên hoặc theo quy định
của Luật Thương mại.
Bên vi phạm hợp đồng kinh tế phải chịu trách nhiệm tài sản khi việc vi phạm
hội đủ các căn cứ mà pháp luật quy định: có hành vi trái pháp luật, hành vi vi phạm là
có lỗi, việc vi phạm hợp đồng đã gây ra thiệt hại cho bên bị vi phạm,…
− Có hành vi vi phạm hợp đồng kinh tế: Đó là hành vi vi phạm thỏa thuận trong hợp
đồng. Các hành vi này thông thường là không thực hiện hợp đồng hoặc thực hiện
không đầy đủ, không đúng với các cam kết trong hợp đồng.
− Có thiệt hại xảy ra những thiệt hại này phải là thiệt hại vật chất tính toán được và thiệt
hại phải có thực. Nội dung thiệt hại vật chất bao gồm: những khoản mất mát hao hụt
về mặt vật chất; những khoản chi phí bên bị thiệt hại bỏ ra ngăn ngừa, hạn chế thiệt
hại; những khoản thất thu. Bên bị vi phạm phải chứng minh được bên vi phạm đã gây
thiệt hại cho mình.
− Bên vi phạm có lỗi: lỗi là thái độ chủ quan của bên vi phạm hợp đồng kinh tế, thể hiện
ở sự vô ý hoặc cố ý trong việc thực hiện hành vi vi phạm. Bên bị vi phạm phải chứng
minh được bên vi phạm có lỗi. Nếu hành vi vi phạm hoàn toàn do nguyên nhân khách
quan thì bên vi phạm không phải chịu trách nhiệm pháp lý đối với hành vi vi phạm của
mình.
− Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại xảy ra: Đây là mối quan hệ
biện chứng giữa hành vi vi phạm với thiệt hại xảy ra. Thiệt hại xảy ra phải là hậu quả
của hành vi vi phạm hợp đồng kinh tế.
1.2. Cơ sở ban hành và nội dung pháp luật điều chỉnh trách nhiệm do vi phạm
hợp đồng mua bán hàng hóa.
1.2.1. Cơ sở ban hành.
Các văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước ban hành hoặc
phối hợp ban hành theo thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục được quy định trong
đó có quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung, được Nhà nước bảo đảm thực
hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Để tạo một môi trường pháp lý ổn định và đón đầu sự phát triển của nền kinh tế,
Nhà nước ta đã tiến hành rất nhiều cải cách và đổi mới về pháp luật. Hệ thống pháp

11
11
luật đã dần được hoàn thiện nhằm tạo ra một hành lang pháp lý vững vàng cho các
doanh nghiệp hoạt động kinh doanh hiệu quả. Việc sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp
luật, đặc biệt là các văn bản trong lĩnh vực kinh doanh thương mại, được thực hiện
theo hướng phù hợp với pháp luật quốc tế nhưng cũng đảm bảo những lợi ích hợp
pháp của các doanh nghiệp trong nước.
Để đáp ứng đầy đủ những yêu cầu cấp thiết trong quá trình hoạt động mua bán
hàng hóa Bộ luật dân sự năm 2005 và Luật Thương mại năm 2005 ra đời, được sửa đổi
bổ sung từ Bộ luật dân sự năm 1995 và Luật Thương mại năm 1997 để khắc phục
những hạn chế, bất cập của quy định của những văn bản quy phạm pháp luật cũ giúp
cho doanh nghiệp dễ dàng hơn trong việc thực hiện, áp dụng pháp luật trong hoạt động
kinh doanh.
1.2.2. Nội dung pháp luật điều chỉnh trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa.
1.2.2.1. Căn cứ làm phát sinh trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa.
• Hành vi vi phạm hợp đồng là căn cứ phát sinh trách nhiệm.
Hành vi vi phạm hợp đồng là xử sự của các chủ thể không phù hợp với các
nghĩa vụ trong hợp đồng hoặc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hoặc thực
hiện không đầy đủ các nghĩa vụ.
Hành vi vi phạm hợp đồng là căn cứ pháp lí để áp dụng đối với tất cả các hình
thức chế tài do vi phạm hợp đồng. Chỉ khi các chủ thể hợp đồng thực hiện đúng
nguyên tắc chấp hành mua bán hàng hóa sau:
− Thực hiện đúng hợp đồng, đúng đối tượng, chất lượng, số lượng, chủng loại, thời hạn,
phương thức và các thỏa thuận khác.
− Thực hiện một cách trung thực, theo tinh thần hợp tác và có lợi nhất cho các bên, bảo
đảm tin cậy lẫn nhau.
− Không được xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp
pháp của người khác.
Có thực hiện đúng các nguyên tắc này thì các bên mới được coi là không vi
phạm hợp đồng tức là không vi phạm pháp luật và được pháp luật bảo vệ quyền lợi

chính đáng.
Yếu tố “hợp đồng” được hiểu bao gồm “thỏa thuận” và “quy định” của pháp
luật gắn liền với hợp đồng. Điều này có nghĩa trong quan hệ hợp đồng mua bán thì các
bên không chỉ phải thực hiện những nghĩa vụ thỏa thuận trong hợp đồng (ghi vào hợp
đồng) mà còn có thể phải thực hiện những nghĩa vụ theo quy định của pháp luật. Vi
phạm hợp đồng tức là không thực hiện đúng thỏa thuận trong hợp đồng hoặc quy định
của pháp luật liên quan đến hợp đồng.
• Có thiệt hại vật chất thực tế xảy ra.
Thiệt hại vật chất thực tế do vi phạm hợp đồng mua bán gây ra là yếu tố cần
thiết, đặc biệt trong trường hợp muốn quy trách nhiệm đòi bồi thường thiệt hại thì đây
12
12
là căn cứ bắt buộc phải có. Đối với các chế tài khác, thiệt hại thực tế có thể được coi là
tình tiết để xác định mức độ nặng nhẹ của chế tài được áp dụng. Thông thường, thiệt
hại mà bên bị vi phạm phải gánh chịu có thể là thiệt hại vật chất và thiệt hại tinh thần.
Song, Luật Thương mại Việt Nam năm 2005 cũng như luật các nước thường chỉ thừa
nhận những thiệt hại tài sản (thiệt hại về vật chất) mới là yếu tố để quy trách nhiệm.
Thiệt hại thực tế là những thiệt hại có thể tính được thành tiền mà bên bị vi
phạm hợp đồng phải gánh chịu. Thiệt hại thực tế được chia làm hai loại là thiệt hại
trực tiếp và thiệt hại gián tiếp. Trong đó thiệt hại trực tiếp là những thiệt hại đã xảy ra
trên thực tế, có thể tính toán một cách dễ dàng và chính xác.
Thiệt hại gián tiếp là những thiệt hại phải dựa trên sự suy đoán khoa học (trên
cơ sở những chứng cứ, tài liệu) mới có thể xác định được. Biểu hiện cụ thể của thiệt
hại gián tiếp là thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút, khoản lợi đáng lẽ được hưởng mà
bên có quyền lợi bị vi phạm phải chịu. Đây chính là những khoản lợi mà khi ký kết
hợp đồng, các bên đều mong đợi. Những khoản lợi này dù trên thực tế nếu không có vi
phạm hợp đồng, bên bị vi phạm có nhận được hay không không quan trọng mà cứ có
vi phạm gây thiệt hại làm mất khoản lợi dự ước đó, bên bị vi phạm vẫn được quyền
đòi bên vi phạm.
• Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại thực tế.

Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại thực tế xảy ra
là một căn cứ quan trọng để áp dụng trách nhiệm đối với bên vi phạm. Mối quan hệ
này thể hiện ở chỗ vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra các thiệt hại, còn
thiệt hại thực tế là hậu quả trực tiếp của những hành vi đó. Bên có hành vi vi phạm
hợp đồng chỉ phải bồi thường thiệt hại khi thiệt hại xảy ra là kết quả tất yếu của hành
vi vi phạm hợp đồng. Trong trường hợp thiệt hại xảy ra không phải do hành vi vi phạm
gây nên thì bên có hành vi vi phạm không phải chịu trách nhiệm về thiệt hại đó.
• Có lỗi của bên vi phạm.
Lỗi của bên vi phạm hợp đồng là căn cứ bắt buộc phải có để áp dụng đối với tất
cả các hình thức chế tài do vi phạm hợp đồng. Trong khoa học pháp lí, lỗi được hiểu là
trạng thái tâm lí và mức độ nhận thức của một người đối với hành vi của họ và hậu quả
của hành vi đó. Vấn đề trạng thái tâm lí và nhận thức chỉ được đặt ra đối với các chủ
thể là cá nhân. Trong khi đó bên vi phạm hợp đồng có thể là cá nhân hoặc tổ chức. Vì
vậy, khi xác định lỗi của chủ thể là tổ chức vi phạm hợp đồng để áp dụng trách nhiệm
hợp đồng phải căn cứ vào lỗi của người đại diện cho tổ chức đã giao kết và thực hiện
hợp đồng.
13
13
Luật Thương mại Việt Nam không quy định ai có lỗi mà lỗi được xác định theo
nguyên tắc suy đoán. Khi một bên vi phạm hợp đồng thì bên kia có quyền suy đoán
bên vi phạm có lỗi và vì vậy, bên vi phạm phải chịu trách nhiệm. Pháp luật Việt Nam
đã có sự phân biệt rõ ràng hai hình thức lỗi là lỗi cố ý và lỗi vô ý tuy nhiên trong việc
xác định trách nhiệm do vi phạm hợp đồng thì hình thức của lỗi hoàn toàn không ảnh
hưởng đến giới hạn và phạm vi của trách nhiệm, hay nói đúng hơn là không ảnh hưởng
đến mức độ bồi thường thiệt hại.
Khi bị quy trách nhiệm, bên vi phạm muốn thoát trách nhiệm phải chứng minh
là mình không có lỗi, chừng nào không chứng minh được thì đương nhiên vẫn bị coi là
có lỗi và phải chịu trách nhiệm.
1.2.2.2. Các hình thức trách nhiệm pháp lý.
• Buộc thực hiện đúng hợp đồng.

Khi một bên trong hợp đồng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ
nghĩa vụ quy định trong hợp đồng thì bên có quyền lợi bị vi phạm có quyền yêu cầu
bên vi phạm thực hiện đúng hợp đồng hoặc áp dụng biện pháp khác để hợp đồng được
thực hiện và bên vi phạm phải chịu phí tổn phát sinh (Điều 297 – Luật Thương mại).
Thông thường, đây là biện pháp được ưu tiên áp dụng trước khi áp dụng các biện pháp
khác. Chế tài này áp dụng trong trường hợp:
− Khi bên vi phạm giao thiếu hàng thì phải giao đủ hàng theo đúng thỏa thuận trong hợp
đồng. Trường hợp bên vi phạm giao hàng hóa kém chất lượng thì phải loại trừ khuyết
tất của hàng hóa hoặc giao hàng khác thay thế theo đúng hợp đồng. Bên vi phạm
không được dùng tiền hoặc hàng khác chủng loại để thay thế nếu không được sự chấp
nhận của bên bị vi phạm.
− Khi bên vi phạm không thực hiện theo quy định nêu trên thì bên bị vi phạm có quyền
mua hàng của người khác để thay thế theo đúng loại hàng hóa ghi trong hợp đồng và
bên vi phạm phải trả khoản tiền chênh lệch và các chi phí liên quan nếu có; có quyền
tự sửa chữa khuyết tật của hàng hóa và bên vi phạm phải trả các chi phí thực tế hợp lý.
− Bên bị vi phạm phải nhận hàng và thanh toán tiền hàng nếu bên vi phạm đã thực hiện
đầy đủ nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật.
Cụ thể hơn, buộc thực hiện đúng hợp đồng trong kinh doanh thương mại là hình
thức chế tài, theo đó bên vi phạm nghĩa vụ hợp đồng trong kinh doanh, thương mại
phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ theo yêu cầu của bên bị vi phạm. Căn cứ để áp dụng
chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng là: có hành vi vi phạm hợp đồng và có lỗi của
bên vi phạm. Những trường hợp bên bị vi phạm và bên vi phạm thỏa thuận gia hạn
thực hiện nghĩa vụ hoặc thỏa thuận thay thế nghĩa vụ này bằng nghĩa vụ khác, không
được coi là áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng. Theo Điều 297 Luật
Thương mại, khi áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng, bên bị vi phạm có thể
14
14
lựa chọn hoặc yêu cầu bên vi phạm thực hiện đúng hợp đồng hoặc lựa chọn các biện
pháp khác để hợp đồng được thực hiện và bên vi phạm phải chịu chi phí phát sinh.
Chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng theo Luật Thương mại được đặt ra khi có vi

phạm các điều khoản về số lượng, chất lượng hàng hóa, yêu cầu kỹ thuật của công
việc.
• Phạt vi phạm.
Điều 300 – Luật Thương mại quy định: “Phạt vi phạm là việc bên bị vi phạm yêu
cầu bên vi phạm trả một khoản tiền phạt do vi phạm hợp đồng nếu trong hợp đồng có thỏa
thuận, trừ các trường hợp miễn trách nhiệm theo quy định của Luật Thương mại”.
Theo Luật Thương mại, chế tài phạt vi pham được áp dụng khi có các căn cứ:
− Các bên có thỏa thuận về việc áp dụng chế tài này.
− Có hành vi vi phạm hợp đồng.
− Có lỗi của bên vi phạm hợp đồng.
Theo Luật Thương mại (2005), chế tài phạt vi phạm hợp đồng chỉ được áp dụng
khi các bên “có sự thỏa thuận” trong hợp đồng. Nếu hợp đồng không có sự thỏa thuận
về phạt vi phạm thì bên bị vi phạm mất quyền đòi phạt vi phạm hợp đồng và chỉ có
quyền đòi bồi thường thiệt hại.
Phạt vi phạm hợp đồng được áp dụng phổ biến đối với các hành vi vi phạm hợp
đồng. Tuy vậy, có những vi phạm mà không có cá nhân, tổ chức nào đặt vấn đề áp
dụng trách nhiệm đối với hành vi vi phạm đó, như: vi phạm điều khoản về giải quyết
tranh chấp, điều khoản về trách nhiệm do vi phạm hợp đồng thương mại. Khi đề cập
đến căn cứ áp dụng chế tài phạt hợp đồng, Luật Thương mại (2005) cũng không đề cập
đến yếu tố lỗi. Tuy nhiên, không có nghĩa là pháp luật đã cho phép áp dụng phạt hợp
đồng đối với mọi hành vi vi phạm (không thực hiện, thực hiện không đúng hoặc thực
hiện không đầy đủ nghĩa vụ theo thỏa thuận mà không cần tính đến yếu tố lỗi). Pháp
luật quy định, được miễn trách nhiệm hợp đồng khi bên vi phạm không có lỗi (do bất
khả kháng hoặc do lỗi của bên đối tác, xảy ra trường hợp miễn trách nhiệm mà các bên
đã thỏa thuận, do thực hiện quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền). Điều đó
cho thấy, lỗi vẫn là yếu tố cần thiết để áp dụng chế tài phạt vi phạm hợp đồng và các
hình thức chế tài khác trong trách nhiệm hợp đồng.
Nội dung của chế tài phạt vi phạm là bên bị vi phạm buộc bên vi phạm phải trả
một khoản tiền nhất định. Mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức
phạt đối với nhiều vi phạm do các bên thỏa thuận trong hợp đồng, nhưng không vượt

quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm, trừ trường hợp quy định tại Điều
266 Luật Thương mại năm 2005.
• Bồi thường thiệt hại.
Bồi thường thiệt hại là việc buộc bên vi phạm trả tiền bồi thường những tổn thất
do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra. Giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm giá trị tổn
15
15
thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi
trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm (Điều
300 và Điều 301 – Luật Thương mại).
Các căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm:
− Có hành vi vi phạm hợp đồng.
− Có thiệt hại thực tế.
− Mối quan hệ trực tiếp giữa hành vi vi phạm hợp đồng của một bên và thiệt hại vật chất
của bên kia.
Nội dung của chế tài bồi thường thiệt hại là bên vi phạm phải trả cho bên bị vi
phạm giá trị vật chất bị tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng của mình gây ra.
Khi áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại, cần lưu ý một số điểm sau đây:
− Chỉ buộc bên vi phạm phải bồi thường các thiệt hại mà bên bị vi phạm yêu cầu khi bên
bị vi phạm có đầy đủ các căn cứ để chứng minh cho các tổn thất do hành vi vi phạm
hợp đồng gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu
không có hành vi vi phạm hợp đồng. Bên yêu cầu bồi thường thiệt hại phải chứng
minh tổn thất, mức độ tổn thất do hành vi vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà
mình đãng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm hợp đồng.
− Phải xem xét bên bị vi phạm đã áp dụng các biện pháp hợp lý để ngăn chặn hạn chế
tổn thất xảy ra hay không. Nếu bên bị vi phạm không áp dụng biện pháp hạn chế mà
để mặc cho tổn thất xảy ra thì bên vi phạm có quyền yêu cầu giảm bớt giá trị bồi
thường thiệt hại bằng mức tổn thất đãng lẽ có thể hạn chế được nếu bên bị vi phạm đã
áp dụng biện pháp khắc phục.
− Khi áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại cũng cần lưu ý mối quan hệ giữa phạt hợp

đồng và bồi thường thiệt hại. Các bên có quyền thỏa thuận về việc bên vi phạm không
phải nộp tiền phạt vi phạm hợp đồng mà chỉ phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải
nộp tiền phạt vi phạm hợp đồng và vừa phải bồi thường thiệt hại. Theo Luật Thương
mại (2005), trong trường hợp các bên của hợp đồng không có thỏa thuận phạt vi phạm
thì bên bị vi phạm chỉ có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại; trường hợp các bên có
thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm có quyền áp dụng cả chế tài phạt vi phạm
và buộc bồi thường thiệt hại.
• Tạm ngừng thực hiện hoạt động.
Đây là một chế tài mới quy định tại Luật Thương mại, theo đó một bên tạm thời
không thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng thuộc một trong các trường hợp sau:
− Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên thỏa thuận là điều kiện để tạm ngừng thực hiện
hợp đồng.
− Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng. Các căn cứ này cũng phù hợp với quy
định của Điều 293, Luật Thương mại (2005) quy định, trừ trường hợp có thỏa thuận
khác, bên bị vi phạm không được áp dụng chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng đối
với vi phạm không cơ bản. Vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng là sự vi phạm hợp đồng
16
16
của một bên gây thiệt hại cho bên kia đến mức làm cho bên kia không đạt được mục
đích của việc giao kết hợp đồng.
Khi hợp đồng bị tạm ngừng thực hiện thì hợp đồng đó vẫn có hiệu lực. Trong
khi đó bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật
Thương mại.
Trong lĩnh vực thương mại, việc tạm ngừng hợp đồng có ảnh hưởng rất lớn đến
lợi ích của các bên, đặc biệt là bên vi phạm hợp đồng. Vì vậy, bên bị vi phạm không
đương nhiên có quyền đơn phương tạm ngừng, trừ khi pháp luật có quy định khác.
Bên bị vi phạm chỉ có quyền đơn phương tạm ngừng hợp đồng đã có thỏa thuận
vi phạm của bên kia là điều kiện để tạm ngừng hợp đồng.
• Đình chỉ thực hiện hoạt động.
Đình chỉ thực hiện hợp đồng là việc một bên chấm dứt thực hiện nghĩa vụ hợp

đồng. Khi hợp đồng thương mại bị đình chỉ thực hiện thì hợp đồng chấm dứt hiệu lực
từ thời điểm một bên nhận được thông báo đình chỉ. Các bên không phải tiếp tục thực
hiện nghĩa vụ hợp đồng. Bên đã thực hiện nghĩa vụ có quyền yêu cầu bên kia thanh
toán hoặc thực hiện nghĩa vụ đối ứng.
Chế tài đình chỉ hợp đồng được áp dụng khi có một trong các điều kiện sau:
− Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thỏa thuận là điều kiện để đình chỉ hợp đồng.
− Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng.
• Hủy bỏ hợp đồng.
Điều 312 – Luật Thương mại quy định, bên có quyền lợi bị vi phạm có quyền
tuyên bố hủy hợp đồng nếu việc vi phạm của bên kia là điều kiện để hủy hợp đồng mà
các bên đã thỏa thuận. Chế tài hủy hợp đồng mua bán hàng hóa do các bên thỏa thuận
và cần phải ghi vào hợp đồng trong điều khoản: “điều kiện hủy hợp đồng”. Chế tài hủy
hợp đồng còn được áp dụng trong các trường hợp một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ
hợp đồng.
Hủy bỏ hợp đồng là sự kiện pháp lý mà hậu quả của nó làm cho nội dung hợp
đồng bị hủy bỏ không có hiệu lực từ thời điểm giao kết. Hủy bỏ hợp đồng có thể là
hủy bỏ một phần hoặc hủy bỏ toàn bộ hợp đồng.
− Hủy bỏ một phần hợp đồng là việc bãi bỏ thực hiện một phần nghĩa vụ hợp đồng, các
phần còn lại trong hợp đồng vẫn còn hiệu lực.
− Hủy bỏ toàn bộ hợp đồng là việc bãi bỏ hoàn toàn việc thực hiện tất cả các nghĩa vụ
của hợp đồng đối với toàn bộ hợp đồng. Khi một hợp đồng trong thương mại bị hủy bỏ
toàn bộ, hợp đồng được coi là không có hiệu lực kể từ thời điểm giao kết. Các bên
không phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ đã thỏa thuận trong hợp đồng, trừ thỏa thuận về
các quyền và nghĩa vụ sau khi hủy bỏ hợp đồng và về giải quyết tranh chấp.
Một bên có quyền tuyên bố hủy bỏ hợp đồng khi xảy ra hành vi vi phạm mà các
bên đã thỏa thuận là điều kiện để hủy bỏ hợp đồng hoặc một bên vi phạm cơ bản nghĩa
vụ hợp đồng. Kể từ thời điểm đó, các bên chấm dứt quyền và nghĩa vụ đối với nhau
17
17
theo hợp đồng và trở về trạng thái ban đầu như trước khi ký hợp đồng. Đồng thời bên

vi phạm nếu gây ra thiệt hại thì phải chịu trách nhiệm bồi thường.
1.2.2.3. Các trường hợp miễn trách nhiệm.
Điều 294 – Luật Thương mại quy định trong một số trường hợp bên vi phạm
được miễn trách nhiệm. Cụ thể bên vi phạm hợp đồng được miễn trách nhiệm trong
các trường hợp sau đây:
• Xảy ra trường hợp miễn trách nhiệm mà các bên đã thỏa thuận.
Miễn trách nhiệm trong kinh doanh thương mại là việc bên vi phạm nghĩa vụ
theo hợp đồng trong kinh doanh không phải chịu các hình thức chế tài do vi phạm hợp
đồng. Các bên trong hợp đồng có quyền thỏa thuận về giới hạn trách nhiệm và miễn
trách nhiệm hợp đồng trong những trường hợp cụ thể do các bên dự liệu khi giao kết
hợp đồng.
• Xảy ra sự kiện bất khả kháng.
Sự kiện bất khả kháng là căn cứ miễn trách nhiệm phổ biến được quy định trong
các hợp đồng được quy định tại Khoản 1, Điều 161, Bộ luật Dân sự (2005). Một sự
kiện được coi là bất khả kháng với tính chất là căn cứ để miễn trách nhiệm hợp đồng
phải thỏa mãn các dấu hiệu sau: Xảy ra sau khi các bên đã giao kết hợp đồng và trong
thời hạn thực hiện hợp đồng; có tính chất khách quan, bất thường mà các bên không
thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng biện pháp cần
thiết như mưa, giông, bão, lốc, lụt, sấm sét, hạn hán, động đất, chiến tranh, phá hoại,
…; là nguyên nhân dẫn đến sự vi phạm hợp đồng. Với cách hiểu như vậy, các trường
hợp bất khả kháng thường găp trong thực tế, bao gồm: thiên tai, hỏa hoạn, chiến tranh,
đình công, sự thay đổi chính sách pháp luật của nhà nước.
• Hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia.
Căn cứ miễn trách nhiệm trong trường hợp này phải do lỗi của bên bị vi phạm.
Lỗi này có thể là hành động hoặc không hành động của bên bị vi phạm. Ngoài ra, cũng
có thể là một hành vi vi phạm hợp đồng của bên bị vi phạm, tức là cả hai bên đều có
hành vi vi phạm hợp đồng.
• Hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý Nhà
nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp
đồng.

Khi một bên do thực hiện quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà
khi giao kết hợp đồng các bên không thể biết được dẫn đến hành vi vi phạm hợp đồng
thì cũng có thể được miễn trách nhiệm hợp đồng. Tuy nhiên, quy định này của Luật
Thương mại (2005) cũng cần được bàn định, bởi không phải trong mọi trường hợp
hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền mà khi giao kết hợp đồng các bên không thể biết trước được đều được miễn
trách nhiệm hợp đồng.
18
18
Khi áp dụng các trường hợp miễn trách nhiệm hợp đồng, việc chứng minh các
trường hợp được miễn trách nhiệm thuộc nghĩa vụ của bên có hành vi vi phạm hợp
đồng. Ngoài ra, khi xảy ra trường hợp được miễn trách nhiệm hợp đồng, bên vi phạm
hợp đồng còn phải thông báo ngay (bằng văn bản) cho bên kia về trường hợp được
miễn trách nhiệm và những hậu quả có thể xảy ra. Nếu bên vi phạm không thông báo
hoặc thông báo không kịp thời cho bên kia thì phải bồi thường thiệt hại.
1.3. Yêu cầu về pháp luật điều chỉnh trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán hàng
hóa.
Luật Thương mại 2005 và Bộ luật Dân sự 2005 đã có hiệu lực nhưng trên thực
tế chưa thực sự được các doanh nghiệp quan tâm. Nguyên nhân một phần do thói quen
chủ quan của các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp hiện đang thực hiện theo các văn
bản cũ nếu sửa đổi, bổ sung theo luật mới thì sẽ phải thay đổi cả một hệ thống các văn
bản, đồng thời để tìm hiểu được đầy đủ quy định mới của pháp luật cũng mất nhiều
công sức. Mặt khác, các doanh nghiệp cũng cho rằng Luật Thương mại 2005 so với
Luật Thương mại 1997 không có khác nhau gì nhiều nên vẫn tiến hành áp dụng theo
luật cũ. Một nguyên nhân khác cũng là do nhà nước cũng chư có sự tuyên truyền rộng
rãi pháp luật cho nhân dân.
Vì vậy, để phát huy hơn nữa từ những lợi ích của việc đổi mới, cải cách pháp
luật, nhà nước ta cần phổ biến sâu rộng kiến thức pháp luật đến mọi người, nhất là đối
với các doanh nghiệp, không chỉ về pháp luật Việt Nam mà cả pháp luật quốc tế thông
qua các hội thảo, chuyên đề…

Đồng thời, Nhà nước cần có những kế hoạch triển khai thực hiện pháp luật đầy
đủ, nhanh chóng. Mỗi đạo luật ban hành đều có các văn bản dưới luật kèm theo để quy
định chi tiết và hướng dẫn thực hiện. Để việc thực hiện Luật Thương mại 2005 có hiệu
quả, Chính phủ và các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nên có những quy định cụ
thể, rõ ràng hướng dẫn cho các doanh nghiệp thực hiện. Ví dụ, trong Luật Thương mại
có quy định về vi phạm cơ bản là sự vi phạm hợp đồng của một bên gây thiệt hại cho
bên kia đến mức làm cho bên kia không đạt được mục đích của việc giao kết hợp
đồng. Nhưng trong thực tế áp dụng rất khó xác định được mức độ vi phạm đến đâu
mới được xét là vi phạm cơ bản.
Bên cạnh đó, cần xây dựng một hệ thống thông tin giữa cơ quan quản lý Nhà
nước và các doanh nghiệp. Thông tin phản hồi từ hai phía sẽ giúp tăng cường công tác
kiểm tra, giám sát việc thi hành luật; đồng thời cũng thấy được những hạn chế, vướng
mắc trong việc áp dụng luật tại doanh nghiệp.
19
19
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH TRÁCH NHIỆM DO VI PHẠM
HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA.
2.1. Tổng quan tình hình và các nhân tố ảnh hưởng đến trách nhiệm do vi phạm
hợp đồng mua bán hàng hóa.
2.1.1. Tổng quan tình hình.
Nhìn chung các quy định về các hình thức chế tài về trách nhiệm do vi phạm
hợp đồng mua bán hàng hóa đã tạo được một môi trường pháp lý để đảm bảo quyền
lợi cho bên bị vi phạm trong hợp đồng, góp phần nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật
của chủ thể tham gia hợp đồng. Những hình thức chế tài được quy định trong Luật
thương mại (2005) nói chung khá chặt chẽ, khái quát được hệ thống các hình thức chế
tài. Tuy nhiên các quy định của hợp đồng mua bán hàng hóa dường như chưa đạt đến
độ “sâu”, vẫn còn mang nặng tính “chung chung”. Thêm nữa, việc quy định mức phạt
vi phạm còn chưa chưa hợp lý với mức phạt tối đa 8% giá trị nghĩa vụ vi phạm không
thống nhất với mức phạt vi phạm tùy theo thỏa thuận trong Bộ Luật dân sự. Tất nhiên

khi áp dụng luật sẽ ưu tiên áp dụng luật chuyên ngành nhưng như thế cũng tạo ra một
môi trường pháp lý không hòa đồng. Vấn đề quy định mức phạt vi phạm trong Luật
thương mại chưa phù hợp với thực tế áp dụng tại các doanh nghiệp. Chế định phạt vi
phạm này được sử dụng với hai mục đích đồng thời: răn đe, ngăn chặn vi phạm hợp
đồng (trong trường hợp có vi phạm thì bên vi phạm sẽ phải nộp phạt không phụ thuộc
vào việc thực tế vi phạm đó có gây ra thiệt hại cho bên kia không); bồi thường thiệt hại
theo mức định trước (tức là nếu có vi phạm gây thiệt hại thì bên bị thiệt hại không
được quyền đòi bồi thường thiệt hại theo mức thiệt hại thực tế mà chỉ được đòi khoản
tiền đã xác định mặc dù thực tế không có thiệt hại hoặc thiệt hại có thể là thấp hơn
hoặc cao hơn mức tiền phạt này). Quy định về “giới hạn trên” của mức phạt (8%) là
không hợp lý vì nó nếu một bên thấy mức thiệt hại mà họ phải chịu nếu thực hiện hợp
đồng còn cao hơn mức thiệt hại do nộp phạt thì họ sẽ “cố ý” vi phạm. Mục đích răn đe
do đó sẽ không thực hiện được. Hơn nữa quy định này cũng can thiệp vào quyền tự do
thỏa thuận của các bên. Quy định này trong Luật thương mại (2005) gây ra nhiều bất
cập trong việc thi hành và ảnh hưởng đến quyền lợi của bên bị vi phạm.
2.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng.
2.1.2.1. Đối tượng của hợp đồng.
Trong mua bán hàng hóa, đối tượng của hợp đồng là một hàng hóa nhất định
đây là điều khoản cơ bản của một hợp đồng mua bán hàng hóa, mà khi thiếu nó hợp
đồng mua bán hàng hóa không thể hình thành được do người ta không thể hình dung
được các bên tham gia hợp đồng nhằm mục đích gì, trao đổi cái gì, đối tượng của hợp
đồng mua bán hàng hóa được xác định thông qua tên gọi của hàng hóa. Trong hợp
20
20
đồng mua bán hàng hóa các bên có thể ghi rõ tên hàng bằng tên thông thường, tên
thương mại … để tránh có sự hiểu sai lệch về đối tượng hợp đồng.
2.1.2.2. Số lượng hàng hóa.
Điều khoản về số lượng hàng hóa xác định về mặt lượng đối với đối tượng của
hợp đồng. Các bên có thể thỏa thuận và ghi trong hợp đồng về một số lượng hàng hóa
cụ thể hoặc số lượng được xác định bằng đơn vị đo lường theo tập quán thương mại

như chiếc, bộ, tá, mét, mét vuông, mét khối hay bằng một đơn vị nào khác tùy theo
tính chất của hàng hóa.
2.1.2.3. Chất lượng hàng hóa.
Chất lượng hàng hóa giúp xác định chính xác đối tượng của hợp đồng, cái mà
người mua biết tường tận với những yêu cầu về tính năng, tác dụng, quy cách, kích
thước, công suất, hiệu quả… xác định cụ thể chất lượng của sản phẩm thường cũng là
cơ sở để xác định giá cả một cách tốt nhất. Trách nhiệm của các bên thường khác nhau
tương ứng với mỗi phương pháp xác định chất lượng được thỏa thuận. Thông thường
có các biện pháp xác định chất lượng như dựa vào mẫu hàng, dựa vào các tiêu chuẩn,
dựa vào mô tả tỉ mỉ, dựa vào nhãn hiệu hàng hóa hoặc điều kiện kỹ thuật…
2.1.2.4. Giá cả hàng hóa.
Các bên có quyền thỏa thuận giá cả và phải được ghi cụ thể trong hợp đồng
hoặc nếu không ghi cụ thể thì phải xác định rõ phương hướng xác định giá, vì đây là
điều khoản quan trọng trong các cuộc thương lượng để đi đến ký kết hợp đồng. Để
mang lại lợi ích cho cả hai bên, các bên cũng có thể thỏa thuận với nhau lựa chọn hình
thức giảm giá phù hợp ghi trong hợp đồng, như giảm giá giao hàng sớm, do mua số
lượng nhiều và quy định rõ mức giá giảm.
2.1.2.5. Hình thức thanh toán.
Phương thức thanh toán là các cách thức mà bên mua và bên bán thỏa thuận,
theo đó bên mua phải thanh toán cho bên bán tiền hàng đã mua theo một phương thức
nhất định. Có nhiều phương thức thanh toán nhưng việc lựa chọn phương thức nào
cũng xuất phát từ nhu cầu của người bán là thu tiền nhanh, đầy đủ và yêu cầu của
người mua là nhận được hàng đúng số lượng, chất lượng, thời hạn như đã thỏa thuận
và không có rủi ro trong thanh toán.
2.1.2.6. Thời gian và địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng.
Thời gian thực hiện hợp đồng là khoảng thời gian mà bên bán phải hoàn thành
nghĩa vụ giao hàng cho bên mua theo đúng đối tượng của hợp đồng, đúng địa điểm đã
thỏa thuận trong hợp đồng. Bên mua có nghĩa vụ nhận hàng đúng thời gian và địa
điểm, trả tiền cho bên bán. Các bên có thể thỏa thuận với nhau sao cho hợp lý , căn cứ
vào tình hình thực tiễn, khả năng thực hiện của mỗi bên. Địa điểm giao hàng có thể do

hai bên thỏa thuận, phù hợp với điều kiện thực tế, thuận tiện và có lợi cho cả hai bên.
21
21
Khi thỏa thuận cần thỏa thuận cụ thể địa chỉ giao hàng, đảm bảo nguyên tắc phù hợp
với khả năng đi lại của phương tiện vận chuyển, đảm bảo an toàn cho phương tiện.
Trong mua bán hàng hóa, việc giao nhận hàng hóa có thể được thực hiện trực
tiếp đối với người mua hoặc thông qua người thứ ba. Vì vậy các bên phải thỏa thuận rõ
thời hạn và địa điểm, từ đó xác định quyền và nghĩa vụ mỗi bên cũng như xác định rủi
ro mà mỗi bên phải gánh chịu.
2.1.2.7. Nội dung của hợp đồng.
Mặc dù nội dung của hợp đồng do các bên thỏa thuận, nhưng trong mọi quan hệ
hợp đồng nói chung và trong quan hệ mua bán hàng hóa nói riêng, các bên không chỉ
chịu sự ràng buộc bởi các điều khoản mà các bên thỏa thuận mà còn chịu sự ràng buộc
bởi những quy định của pháp luật. Như vậy, nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa
không chỉ là các điều khoản do các bên thỏa thuận mà còn có thể bao gồm những điều
khoản do các bên không thỏa thuận nhưng theo quy định của pháp luật các bên có
nghĩa vụ phải thực hiện.
2.1.2.8. Quyền và nghĩa vụ của bên bán.
• Nghĩa vụ của bên bán
Bên bán phải giao hàng hóa phù hợp với quy định của hợp đồng về số lượng,
chất lượng, cách thức đóng gói, bảo quản và các quy định khác trong hợp đồng. Điều
35 – Luật Thương mại quy định bên bán phải giao hàng vào đúng thời điểm giao hàng
đã thỏa thuận trong hợp đồng. Trường hợp bên bán giao hàng trước thời hạn đã thỏa
thuận thì bên mua có quyền nhận hoặc không nhận hàng nếu có thỏa thuận khác (Điều
38 – Luật Thương mại).
Nghĩa vụ giao chứng từ liên quan đến hàng hóa được quy định tại Điều 42 –
Luật Thương mại. Trường hợp có thỏa thuận về việc giao chứng từ thì bên bán có
nghĩa vụ giao chứng từ liên quan đến hàng hóa cho bên mua vào thời hạn, tại địa điểm
và bằng hình thức đã thỏa thuận.
Một trong các nghĩa vụ của bên bán là phải kiểm tra hàng hóa trước khi giao

hàng. Bên bán phải chịu những khiếm khuyết của hàng hóa mà bên mua hoặc đại diện
của bên mua đã kiểm tra nếu các khiếm khuyết của hàng hóa không thể phát hiện được
trong quá trình kiểm tra bằng biện pháp thông thường và bên bán biết hoặc không thể
không biết về các khiếm khuyết đó nhưng không thông báo cho bên mua (Điều 44 –
Khoản 5 – Luật Thương mại).
Bên bán còn có nghĩa vụ bảo đảm quyền sở hữu đối với hàng hóa. Theo đó, bên
bán phải bảo đảm: quyền sở hữu của bên mua đối với hàng hóa đã bán không bị tranh
chấp bởi bên thứ ba; hàng hóa đó phải hợp pháp; việc chuyển giao hàng hóa là hợp pháp.
Ngoài ra, bên bán không được bán hàng hóa vi phạm quyền sở hữu trí tuệ (Điều
46 – Luật Thương mại). Trường hợp hàng hóa mua bán có bảo hành thì bên bán phải
chịu trách nhiệm bảo hành hàng hóa đó theo nội dung và thời hạn đã thỏa thuận và
22
22
phải chịu các chi phí về việc bảo hành, trừ trường hợp có thỏa thuận khác (Điều 49 –
Luật Thương mại)
• Quyền của bên bán
Bên bán có quyền nhận tiền bán hàng theo thỏa thuận trong hợp đồng mua bán
hàng hóa. Nếu bên bán chậm nhận được hoặc không nhận được tiền bán hàng do lỗi
của bên mua thì bên bán có quyền áp dụng các biện pháp do Luật Thương mại quy
định để bảo vệ lợi ích chính đáng của mình.
Điều 306 – Luật Thương mại quy định bên bán có quyền yêu cầu trả tiền lãi trên
số tiền chậm trả đó theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm
thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc
pháp luật có quy định khác. Ngoài ra bên bán có thể áp dụng các hình thức chế tài theo
quy định của Luật Thương mại.
2.1.2.9. Quyền và nghĩa vụ của bên mua.
• Nghĩa vụ của bên mua
Điều 50, Điều 55 – Luật Thương mại quy định bên mua có nghĩa vụ:
− Thanh toán tiền mua hàng và nhận hàng theo thỏa thuận.
− Tuân thủ các phương thức thanh toán, thực hiện việc thanh toán theo trình tự, thủ tục

đã thỏa thuận và theo quy định của pháp luật.
− Thanh toán cho bên bán vào thời điểm bên bán giao hàng hoặc giao chứng từ liên quan
đến hàng hóa; bên mua vẫn phải thanh toán tiền hàng trong trường hợp hàng hóa mất
mát hư hỏng sau thời điểm rủi ro được chuyển từ bên bán sang bên mua, trừ trường
hợp mất mát, hư hỏng do lỗi của bên bán gây ra.
Ngoài ra, bên mua mất quyền sở hữu đối với hàng hóa, quyền sở hữu trí tuệ đối
với hàng hóa nếu bên mua không thông báo ngay cho bên bán về khiếu nại của bên thứ
ba đối với hàng hóa được giao sau khi bên mua đã biết hoặc phải biết về khiếu nại đó,
trừ trường hợp bên bán biết hoặc phải biết về khiếu nại của bên thứ ba (Điều 45, Điều
46 – Khoản 1 – Luật Thương mại)
• Quyền của bên mua
Bên mua có quyền ngừng thanh toán tiền mua hàng trong các trường hợp:
− Bên mua có bằng chứng về việc bên bán lừa dối thì có quyền tạm ngừng việc thanh
toán.
− Bên mua có bằng chứng về việc hàng hóa đang là đối tượng bị tranh chấp thì có quyền
tạm ngừng thanh toán cho đến khi việc tranh chấp đã được giải quyết.
− Bên mua có bằng chứng về việc bên bán đã giao hàng không phù hợp với hợp đồng thì
có quyền tạm ngừng thanh toán cho đến khi bên bán đã khắc phục được sự không phù
hợp đó.
2.2. Phân tích thực trạng các quy phạm pháp luật điều chỉnh trách nhiệm do vi phạm
hợp đồng mua bán hàng hóa.
Khi vi phạm hợp đồng trong hoạt động mua bán hàng hóa, bên vi phạm phải
chịu trách nhiệm trước bên bị vi phạm thông qua các hình thức trách nhiệm gọi là chế
23
23
tài. Theo pháp luật thương mại Việt Nam, các chế tài thương mại được hiểu là những
biện pháp pháp lý mang tính tài sản do bên bị vi phạm lựa chọn để áp dụng đối với bên
vi phạm nhằm mục đích ngăn ngừa, trừng trị và giáo dục. Như vậy, các chế tài thương
mại được áp dụng là để khôi phục về mặt vật chất cho bên bị vi phạm hoặc là để ngăn
ngừa thiệt hại hay có ý nghĩa trừng phạt về mặt vật chất đối với bên vi phạm hợp đồng.

Do đó, các chế tài này được các bên áp dụng cho các vi phạm xuất hiện từ lúc ký kết,
thực hiện và chấm dứt hợp đồng.
Tùy thuộc vào các quy phạm và các quy định khác nhau trong hợp đồng mà các
chế tài khác nhau được áp dụng. Luật thương mại Việt Nam giành hẳn mục 1 Chương
IV để quy định các chế tài áp dụng cho việc vi phạm hợp đồng trong hoạt động mua
bán hàng hóa.
2.2.1. Buộc thực hiện đúng hợp đồng.
Điều 223, Khoản 1 Luật thương mại quy định: “Buộc thực hiện đúng hợp đồng
là việc bên có quyền lợi bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm thực hiện đúng hợp đồng
hoặc dùng các biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện và bên vi phạm phải chịu
phí tổn phát sinh.”
Vậy những trường hợp nào có thể áp dụng được chế tài buộc thực hiện đúng
hợp đồng. Theo Điều 223, Khoản 2, chế tài này được áp dụng trong các trường hợp:
giao hàng thiếu; giao hàng kém chất lượng, cung ứng hàng hóa không đúng hợp đồng.
Trong trường hợp giao thiếu hàng, chế tài này quy định rằng bên vi phạm phải giao đủ
hàng theo đúng như đã thỏa thuận trong hợp đồng, tức là phải giao hàng đúng về số
lượng, chất lượng, chủng loại, xuất xứ, mẫu mã … Đối với việc giao hàng kém chất
lượng, bên vi phạm phải tìm cách loại trừ các khuyết tật của hàng hóa. Trong trường hợp
này, Luật thương mại còn quy định thêm rằng bên vi phạm có thể giao hàng khác để thay
thế hàng kém chất lượng, tuy nhiên “không được dùng tiền hoặc hàng khác chủng loại để
thay thế, nếu không được sự chấp nhận của bên có quyền lợi bị vi phạm.”
Trên thực tế, khi một bên vi phạm nghĩa vụ hợp đồng, để bảo vệ quyền lợi cho
mình, bên bị vi phạm không phải lúc nào cũng cứng nhắc đòi bên kia thực hiện đúng
nghĩa vụ như giao hàng thêm (nếu giao hàng thiếu), hay tìm biện pháp khắc phục
khuyết tật của hàng hóa hoặc thay thế bằng hàng hóa khác (nếu giao hàng kém chất
lượng), nhất là trong trường hợp bên vi phạm gặp nhiều khó khăn và chi phí để làm
được như vậy và thậm chí bên bị vi phạm cũng có thể bị thiệt hại hơn.
Trong trường hợp này, tức là khi bên vi phạm không thực hiện theo các quy
định trên, tại Điều 223, Khoản 3 và 4 của Luật thương mại cũng thể hiện sự linh hoạt
khi quy định cụ thể rằng: Bên có quyền lợi bị vi phạm có quyền mua hàng của người

khác để thay thế theo đúng loại hàng hóa ghi trong hợp đồng. Khi đó, bên vi phạm
phải bù chênh lệch nếu có. Đây cũng là giải pháp mà Công ước viên 1980 đưa ra khi
24
24
bên bán không giao hàng hoặc giao thiếu hàng. Ví dụ khi bên vi phạm giao hàng thiếu,
bên bị vi phạm không nhất thiết phải chờ bên vi pham giao hàng đủ mà có thể mua
ngay hàng khác cùng chủng loại của người cung cấp khác để không mất thời cơ kinh
doanh của mình. Tất nhiên, để đảm bảo cho quyền lợi của bên bị vi phạm, bên vi phạm
phải có trách nhiệm đền bù chi phí phát sinh.
Nếu bên có quyền lợi bị vi phạm tự sửa chữa khuyết tật, thiếu sót của hàng hóa
thì bên vi phạm phải trả các chi phí thực tế hợp lý. Rõ ràng là giải pháp này vừa giúp
các bên tiếp tục quan hệ hợp đồng, vừa hạn chế các thiệt hại.
Để cho bên vi phạm có thể thực hiện được các nghĩa vụ nói trên, Luật thương
mại còn cho phép bên có quyền lợi bị vi phạm phải gia hạn một thời gian hợp lý (Điều
224). Song việc gia hạn này không có nghĩa là thay đổi điều khoản về thời hạn giao
hàng. Thời hạn giao hàng nếu có sự thay đổi là do hai bên thỏa thuận, còn việc gia hạn
chỉ là quyết định đơn phương của bên bị vi phạm nhằm bảo vệ lợi ích của mình. Nếu
hết thời hạn ấn định mà bên vi phạm vẫn không thực hiện chế tài buộc thực hiện đúng
hợp đồng, bên bị vi phạm được áp dụng các chế tài khác để bảo vệ lợi ích chính đáng
của mình (Khoản 2, Điều 225). Tuy nhiên, Khoản 1, Điều 225 của Luật thương mại lại
quy định rõ ràng: “Trong trường hợp không có thỏa thuận khác thì trong thời gian áp
dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng, bến có quyền lợi bị vi phạm không được
áp dụng các chế tài phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại, hủy hợp đồng.”
Như vậy, buộc thực hiện đúng hợp đồng là chế tài nhẹ nhất trong các chế tài và
là tiền đề để thực hiện các chế tài khác.
2.2.2. Phạt vi phạm.
Đây là một chế tài rất hay được sử dụng trong việc giải quyết các tranh chấp
phát sinh trong hợp đồng kinh tế. Từ định nghĩa trên có thể thấy, phạt vi phạm chỉ
được áp dụng khi trong hợp đồng có thỏa thuận hoặc pháp luật quy định sẽ áp dụng
loại chế tài này cho những vi phạm nhất định và không phụ thuộc vào bên bị vi pham

có thiệt hại hay không.
Để có thể đòi được tiền phạt, các bên phải dựa trên những căn cứ sau: một bên
đã không thực hiện hợp đồng hoặc thực hiện không đúng hợp đồng (Điều 227, Luật
thương mại). Không thực hiện hợp đồng có thể là không giao hàng, không nhận hàng,
không thanh toán tiền hàng,… Còn thực hiện không đúng hợp đồng có thể là chậm
giao hàng, giao hàng thiếu, giao hàng sai quy cách chủng loại, giao hàng kém chất
lượng Ở đây, Luật thương mại không quy định rằng, khi áp dụng chế tài phạt vi
phạm, bên có quyền lợi bị vi phạm phải có nghĩa vụ chứng minh thiệt hại và mức độ
thiệt hại. Nếu bên bị vi phạm chứng minh được là bên kia vi phạm và vi phạm đó
25
25

×