Tải bản đầy đủ (.doc) (43 trang)

BÁO CÁO KINH NGHIỆM MỘT SỐ CHIẾN LƯỢC VÀ KỸ NĂNG NGHE HỮU ÍCH GIÚP NGƯỜI HỌC CÓ THỂ TỰ TIN KHI THANM GIA VÀO KỲ THI CHUẨN CHÂU ÂU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (316.42 KB, 43 trang )

s
SỞ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO NAM ĐỊNH
TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG NGUYỄN KHUYẾN
  
SÁNG KIẾN DỰ THI CẤP TỈNH
BÁO CÁO KINH NGHIỆM
MỘT SỐ CHIẾN LƯỢC VÀ KỸ NĂNG NGHE HỮU ÍCH
GIÚP NGƯỜI HỌC CÓ THỂ TỰ TIN
KHI THANM GIA VÀO KỲ THI CHUẨN CHÂU ÂU
Tác giả : Lê Thị Thuỳ Dương
Trình độ chuyên môn: Thạc sỹ
Chức vụ: tổ trưởng tổ Ngoại Ngữ
Nơi công tác: Trường THPT Nguyễn Khuyến


Nam Định, tháng 5 năm 2014

M ỤC L ỤC
1
MỤC LỤC i
Thông tin chung về sáng kiến ……………………………………………………….iii
Phần I: Mở đầu …………………………………………………………………….1
I.1 Điều kiện hoàn cảnh tạo ra sáng kiến 1
I.2. Mục đích nghiên cứu 2
I.3 Câu hỏi nghiên cứu ………………………………………………………………2
I.4 Đối tượng nghiên cứu ……………………………………………………………2
I.5 Phương pháp nghiên cứu…………………………………………………… 3
I.6 Ý nghĩa nghiên cứu……………………………………………………………….3
Phần II: Nội dung 3
II.1. Cơ sở lý luận :
II.1.1. Định nghĩa về nghe hiểu 3


II.1.2. Những khó khăn thường gặp trong quá trình học kỹ năng Nghe 4
II.1.3. Quan điểm của một số tác giả về những khó khăn khi nghe 4
II.2. Vấn đề trong việc học nghe 7
II.2.1. Vấn đề từ người nghe 7
II.2. 2. Vấn đề từ các tài liệu nghe 9
II.2. 3. Vấn đề là kết quả của các thiết lập vật lý 11
II.2.4. Nguyên nhân của những khó khăn khi nghe: Mười lý do sau giải thích tại sao người
học lại thấy kỹ năng nghe lại quá khó với họ 12
II.2. 4. 1. Họ đang cố gắng để hiểu tất cả các từ 12
II.2. 4. 2. Họ để lại phía sau cố gắng tìm ra những gì một từ có nghĩa là trước.13
II. 2. 4. 3. Họ chỉ không biết những từ quan trọng nhất 13
II.2. 4. 4. Họ không nhận ra những từ mà họ biết 14
II.2. 4. 5. Họ có vấn đề với điểm nhấn khác nhau 14
II.2. 4. 6. Họ thiếu khả năng chịu đựng nghe / họ cảm thấy mệt mỏi 14
II.2. 4. 7. Họ đang bị phân tâm bởi tiếng ồn xung quanh 15
II.2. 4. 8. Họ không thể đối phó với việc không có hình ảnh 15
II.2. 4. 9. Họ đã nghe vấn đề 16
II.2. 4. 10. Họ khó có thể nhận biết sự khác biệt giữa các giọng nói khác nhau 16
II. 3. Biện pháp khắc phục: 16
II. 3.1. Giải pháp cho việc không nhận ra các âm tiếng Anh 16
II. 3.1.1. Cách phân biệt các từ đồng âm, từ có cách phát âm gần giống nhau 17
2
II.3.1.2. Cách khắc phục nhầm lẫn giữa dạng khẳng định và dạng phủ định 18
II. 3.1.3. Cách khắc phục một số ảnh hưởng về cách phát âm chuỗi lời nói trong tiếng
Anh 18
II.3.2. Giải pháp cho việc thiếu tập trung khi nghe 18
II.3.2.1. Tránh hoặc khắc phục tình trạng sức khỏe không tốt 18
II.3.2.2. Thường xuyên luyện tập nghe 19
II. 3.3. Giải pháp cho việc khó có thể nắm được ý chính của bài nghe 19
II. 3.3.1. Cách phân biệt thông tin cần nghe với những thông tin còn lại 19

II. 3.3.2. Cách suy luận được ý chính của bài nghe qua từ ngữ quan trọng 19
PHẦN III: CÁC CHIẾN LƯỢC VÀ KỸ NĂNG NGHE HỮU ÍCH 20
III. 1. Chiến lược Nghe Hiểu - Phần A 20
III.1. Các kỹ năng chi tiết cho nghe hiểu phần A: 21
III.1.1. Kỹ năng 1: 21
III.1.2. Kỹ năng 2: 22
III.1.3. Kỹ năng 3: 22
III.1.4. Kỹ năng 4: 23
III.1.5. Kỹ năng 5: 23
III.1.6. Kỹ năng 6: 24
III.1.7. Kỹ năng 7: 24
III.1.8. Kỹ năng 8: 25
III.1.9. Kỹ năng 9: 26
III.1.10. Kỹ năng 10: 26
III.1.11. Kỹ năng 11: 27
III.1.12. Kỹ năng 12: 28
III.1.13. Kỹ năng 13: 28
III.1.14. Kỹ năng 14: 29
III.1.15. Kỹ năng 15: 30
III.1.16. Kỹ năng 16: 31
III.1.17. Kỹ năng 17: 31
III.2. Chiến lược Nghe Hiểu Phần B: 32
III.2. 1. Các kỹ năng chi tiết cho nghe hiểu phần B: 32
III.2.1. 1. Kỹ năng 18: 32
III. 2.1.2. Kỹ năng 19: 33
3
III.2.1.3. Kỹ năng 20: 33
III.2.1.4. Kỹ năng 21: 34
III.2.1.5. Kỹ năng 22: 34
III.3. Chiến lược Nghe Hiểu Phần C: 35

III.3.1. Các kỹ năng chi tiết cho nghe hiểu phần C: 35
III.3.1.1. Kỹ năng 23: 35
III.3.1.2. Kỹ năng 24: 35
III.3.1.3. Kỹ năng 25: 36
III.3.1.4. Kỹ năng 26: 36
III.3.1. 5. Kỹ năng 27: 36
PHẦN IV: KẾT LUẬN 37
IV.1 Kết quả nghiên cứu 37
IV.2. Đề xuất, kiến nghị: 38
TÀI LIỆU THAM KHẢO I
PHỤ LỤC II
THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến: Một số chiến lược và kỹ năng nghe hữu ích giúp người học có thể tự tin
khi tham gia vào kỳ thi chuẩn châu Âu.”
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Môn Tiếng Anh
3. Thời gian áp dụng sáng kiến: Từ ngày 5 tháng 9 năm 20013 đến ngày 1 tháng 5 năm
2014
4. Tác giả:
Họ và tên: Lê Thị Thuỳ Dương
Năm sinh: 1978
Nơi thường trú: 33 Trần Anh Tông – khu đô thị Hoà Vượng, thành phố Nam Định
Trình độ chuyên môn: Thạc sỹ
Chức vụ công tác: giáo viên
Nơi làm việc: trường THPT Nguyễn Khuyến
Địa chỉ liên hệ:
4
Điện thoại: 0916.113.197
5. Đơn vị áp dụng sáng kiến:
Tên đơn vị: Các giáo viên của các trường THPT từ các tỉnh Nam Định, Hà Nội, Thái
Bình, Hà Nội

5
PHẦN I: MỞ ĐẦU
I.1 Điều kiện hoàn cảnh tạo ra sáng kiến:
Ngày nay, tiếng Anh là thứ tiếng thông dụng được sử dụng rộng rãi nhất trên thế giới. Đó là
ngôn ngữ của khoa học kỹ thuật, công nghệ, thương mại và thông tin trên toàn cầu. Tiếng
Anh đã trở thành môn học bắt buộc trong hầu hết các trường học ở Việt Nam, đặc biệt là
trong trường đại học.
Theo đề án dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân đến năm 2020, giáo viên
dạy ngoại ngữ phải có năng lực ngôn ngữ giảng dạy cao hơn trình độ chung của cấp dạy hai
bậc. Cụ thể, đối với giáo viên tiểu học, THCS phải đạt bậc 4/6 do Hiệp hội các tổ chức khảo
thí ngoại ngữ châu Âu đã ban hành (viết tắt là KNLNN) (CEFR B2) tương đương chứng chỉ
Fce tối thiểu 60 điểm, chứng chỉ Toefl trên giấy tối thiểu 525 điểm, chứng chỉ Ielts tối thiểu
5.5 điểm, chứng chỉ Cae tối thiểu 45 điểm hoặc các chứng chỉ được công nhận tương đương
khác đạt năng lực ngoại ngữ bậc 4 (B2) trở lên theo khung tham chiếu năng lực ngoại ngữ
chung châu Âu.
Theo quy định, giáo viên dạy tiếng Anh ở từng cấp học đều có “bậc” tham chiếu rõ ràng.
Thế nhưng qua kỳ thi khảo sát chuẩn châu Âu thì số lượng giáo viên đạt chuẩn là rất ít, ngay
cả TP.HCM, nơi được coi năng động vào loại bậc nhất cũng có đến 171 giáo viên không đạt
chuẩn trong số 1100 người được khảo sát. Vậy nguyên nhân này là do đâu. Theo ý kiến của
hầu hết các giáo viên một trong những lý do chính mà họ không thể đạt được chuẩn châu
Âu đó là do kỹ năng nghe. Như chúng ta biết kỹ năng nghe đóng vai trò quan trọng trong
việc giảng dạy ngôn ngữ thứ hai vì nhiều lý do (Rost, 1994). Nếu người học không thể nghe
được tốt, họ sẽ tìm thấy nó khó khăn để giao tiếp hoặc có lẽ họ không thể vượt qua kỳ
thi. Trong thực tế, người học thường đi theo con đường sai lầm khi nghe và điều này dẫn họ
đến kết quả là họ không thể nghe được và bị điểm kém trong khi tham dự các kỳ thi. Cần
lưu ý rằng nhận thức của người học về vấn đề nghe và chiến lược của họ có thể ảnh hưởng
đến hiểu biết của mình cả tích cực và tiêu cực (Wenden, 1986).Vì vậy, để giúp người học
cải thiện với các kỹ năng nghe, nó là cần thiết tìm ra vấn đề của họ. Theo Yagang (1994),
các vấn đề trong nghe được đi kèm với bốn yếu tố sau: tin nhắn, loa, người nghe và các thiết
lập vật lý. Hơn nữa, một số nghiên cứu đã được tiến hành để chọn ra các vấn đề trong

nghe. Những vấn đề được cho là gây ra bởi tỷ lệ phát biểu, từ vựng và phát âm (Higgins,
1995). Như Flowerdew & Miller (1996) giả định rằng các vấn đề của người học đã cho tốc
6
độ giao hàng, thuật ngữ mới và khái niệm, khó khăn trong việc tập trung và môi trường vật
lý.Như Nguyễn Viết Ngoạn đã nêu trong bài viết của ông " nghe VOA: lợi thế, các vấn đề
và giải pháp "các người học phải đối mặt với ba vấn đề. Trước hết, người học cảm thấy khó
hiểu về chủ đề họ đang nghe. Nói cách khác, họ không có kiến thức nền tảng về những gì họ
đang lắng nghe. Vấn đề thứ hai đó là trong khi nghe họ gặp nhiều từ vựng, những cụm động
từ và cụm thành ngữ mà họ không hiểu được. Cuối cùng đó là do tốc độ đọc trong đài quá
nhanh nên người học không thể bắt kịp và hiểu được.
Như chúng ta đề biết ngoại ngữ là một môn cần nhiều kỹ năng. Nếu không thực hành
thường xuyên, không có môi trường rèn luyện, kỹ năng sẽ ngày càng bị mai một. Những
giáo sinh mới ra trường có thể có kỹ năng nghe, nói rất tốt nhưng sau vài năm giảng dạy, sẽ
bị hao mòn đi do không có môi trường rèn luyện. Chương trình dạy chủ yếu là đọc hiểu và
ngữ pháp. Điều này cũng có thể lý giải vì sao các chứng chỉ quốc tế như Toeic, Toefl chỉ
được công nhận giá trị trong khoảng thời gian hai năm”.
Là một giáo viên đang giảng dạy tại trường cấp ba,với sáng kiến này tác giả muốn tìm hiểu
nguyên nhân vì sao kỹ năng nghe lại là kỹ năng quá khó với những người học. Do đó tác giả
mong rằng sẽ đưa ra một số kỹ năng nghe hữu ích để giúp người học có thể nâng cao kỹ
năng nghe và có thể tự tin khi tham gia và kỳ thi chuẩn châu Âu do bộ giáo dục yêu cầu.
Chính suy nghĩ này đã thôi thúc tác giả viết ra sáng kiến: “Một số chiến lược và kỹ năng
nghe hữu ích giúp người học có thể tự tin khi tham gia vào kỳ thi chuẩn châu Âu.”
I.2. Mục đích nghiên cứu: Tác giả nghiên cứu đề tài với 3 mục đich;
- Đưa ra tình hình học kỹ năng nghe với những người học tiếng Anh như một thứ tiếng
thứ hai.
- Tìm ra những lý do tại sao người học lại thấy rằng kỹ năng lại quá khó.
- Đưa ra một số kỹ năng hữu ích để giúp cho giáo viên có thể thấy tự tin hơn khi tham
gia vào kỳ thi chuẩn châu Âu C1.
I.3. Câu hỏi nghiên cứu:
Để đạt được mục đích nghiên cứu, tác giả đã đưa ra 2 câu hỏi cho phần nghiên cứu:

- Tại sao nghe lại là một kỹ năng khó với những người học tiếng Anh như những ngôn
ngữ thứ 2?
- Những kỹ năng nào nên được áp dụng để nâng cao kỹ năng nghe?
7
I.4. Đối tượng nghiên cứu: 50 giáo viên phổ thông trung học từ các tỉnh Nam Định, Hà
Nội, Thái Bình, Sơn La đang ôn thi tại trường Đại học ngoại ngữ- Đại học quốc gia Hà Nội
để chuân bị tham gia vào kỳ thi chuẩn châu Âu C1 do Bộ giáo dục đề ra.
I.5. Phương pháp nghiên cứu: để đạt được mục đích nghiên cứu tác giả đã sử dụng
phương pháp định lượng và định tính. Tác giả đã có một bản câu hỏi cho giáo viên để thu
thu thập thông tin và chứng cứ cho bản nghiên cứu.
1.6. Ý nghĩa nghiên cứu: tác giả mong muốn được góp một phần nhỏ trong việc nâng cao
kỹ năng nghe giúp giáo viên có thể tự tin khi tham gia vào kỳ thi chuẩn châu Âu C1.
.
PHẦN II: NỘI DUNG
II.1. Cơ sở lý luận :
II.1.1. Định nghĩa về nghe hiểu
Định nghĩa về nghe hiểu được các nhà khoa học đưa ra theo các cách khác nhau. Theo Field
(1998:38) thì ‘Nghe là một quá trình trí tuệ không nhìn thấy được, do đó rất khó mô tả.
Người nghe phải phân biệt được các âm, hiểu được từ vựng và cấu trúc ngữ pháp, nắm
được trọng âm và ý định của người nói, có thể nhớ lại và hiểu được nó trong ngữ cảnh văn
hóa-xã hội của phát ngôn.’
Anderson & Lynch (1988: 21) đưa ra định nghĩa về nghe hiểu như sau:
‘Nghe hiểu nghĩa là hiểu những gì mà người nói đã nói. Người nghe có vai trò đặc biệt
quan trọng trong quá trình nghe bằng cách vận dụng kiến thức đa dạng của mình phân tích
những gì anh ta nghe được để có thể hiểu phát ngôn của người nói.’
Wolvin & Coakley (1985) định nghĩa nghe theo cách đơn giản hơn: ‘Nghe là quá trình cơ
quan thính giác tiếp nhận, xử lý và xác định được thông điệp của lời nói.’
Định nghĩa về nghe hiểu, theo Văn Tân và Nguyễn Văn Đạm (1997) trong ‘Từ điển tiếng
Việt’ được đưa ra cụ thể như sau: ‘Nghe là một quá trình trong đó thính giác tiếp nhận
những âm thanh bên ngoài và chuyển nó đến hệ thống thần kinh trung ương. Tại đây,

những âm thanh này được phân tích, chuyển thành những tín hiệu và được truyền đến các
giác quan giúp hình thành những phản xạ của con người đối với những âm thanh đó.’
8
Các định nghĩa trên cho thấy nghe hiểu là một kỹ năng giải quyết vấn đề (problem-solving)
phức tạp. Nhiệm vụ của nghe hiểu không chỉ là tiếp nhận âm thanh mà nó còn đòi hỏi sự
phân tích và xác định được thông điệp của lời nói.
II.1. 2. Những khó khăn thường gặp trong quá trình học kỹ năng Nghe
Thông thường, con người luôn nghe với một mục đích nhất định. Nếu mục đích của nghe
chỉ để thư giãn, giải trí nhằm giải tỏa căng thẳng như nghe nhạc chẳng hạn thì người nghe
hầu như không cần phải có bất kỳ một kỹ năng nào cả. Tuy nhiên, nếu mục đích nghe là để
thu nhận thông tin, đặc biệt là khi nghe băng, đĩa ngoại ngữ để học tiếng thì người học cần
phải có một số kỹ năng như: phán đoán trước khi nghe, tập trung trong khi nghe, suy ra
thông tin chính cần nghe từ những từ ngữ quan trọng trong bài (key words), phân tích, tổng
hợp những thông tin nghe được. Kỹ năng nghe được tạo thành từ một loạt các kỹ năng riêng
lẻ đó.
Đa số người học đều có nhận định rằng một văn bản nếu ở dạng viết có thể đơn giản đối với
họ trong xử lý thông tin, nhưng cũng văn bản đó ở dạng nói thì người học lại gặp rất nhiều
khó khăn trong việc nắm bắt nội dung chính của bài. Tại sao lại như vậy? Dưới đây là quan
điểm của một số tác giả khi đưa ra những khó khăn mà người học thường gặp phải trong
quá trình học kỹ năng nghe.
II.1. 3. Quan điểm của một số tác giả về những khó khăn khi nghe.
Theo Ur, P. (1996), tác giả của nhiều cuốn sách viết về việc dạy tiếng (language teaching)
thì người học thường gặp phải những khó khăn sau đây trong khi học nghe: (1) Không nhận
ra được các âm mà người Anh nói, (2) Có thói quen phải hiểu tất cả các từ trong câu mới
hiểu được nội dung của bài, (3) Không thể hiểu được khi người Anh nói nhanh một cách tự
nhiên, (4) Cần phải nghe nhiều lần mới có thể hiểu được,(5) Thấy khó có thể nắm bắt được
tất cả các thông tin và không dự đoán được điều mà người nói sắp nói, (6) Nếu phải nghe
kéo dài, người học sẽ cảm thấy mệt mỏi và thiếu tập trung.
Khi đề cập đến những khó khăn của người học đối với môn nghe, hai nhà giáo học pháp
ngoại ngữ là Nguyễn Bàng và Nguyễn Bá Ngọc cũng liệt kê ra 6 khó khăn sau đây: (1)Gặp

khó khăn với các âm tiếng Anh, (2) Phải hiểu hết các từ, (3) Không hiểu được khi người
9
Anh nói nhanh tự nhiên, (4) Thấy khó có thể theo kịp tốc độ nói của người Anh, (5) Cần
nghe đi nghe lại nhiều lần, (6) Mệt mỏi và thất vọng.
Trong cuốn ‘Teaching Listening’, Underwood (1989) cũng đưa ra một số khó khăn của
người học nghe. Đó là: (1) Không theo kịp được tốc độ của người nói, (2) Không thể nhắc
lại được thông tin, (3) Hạn chế về vốn từ vựng, (4) Không nhớ hết tất cả các thông tin nghe
được, (5) Không nắm bắt được thông tin chính, (6) Không thể tập trung và (7)Không hình
thành được thói quen nghe.
Những khó khăn trong quá trình học kỹ năng nghe nhìn từ quan điểm của người học cũng
được các tác giả Hoàng Văn Vân, Nguyễn Thị Chi và Hoàng Thị Xuân Hoa (2006) nêu ra
trong cuốn ‘Đổi mới phương pháp dạy tiếng Anh ở Trung học Phổ thông Việt Nam’ như
sau: (1) Khó khăn về nghe âm tiếng Anh, (2) Phải hiểu được tất cả các từ mới nắm bắt được
ý định của người nói, (3) Không hiểu được người bản ngữ khi họ nói nhanh tự nhiên,
(4) Cần phải nghe đi nghe lại nhiều lần, (5) Thấy khó nắm bắt được tất tất cả các thông tin
và không dự đoán được thông tin tiếp theo, (6) Không tập trung khi nghe.
Nói tóm lại, theo nhận định của các nhà khoa học kể trên thì người học thường gặp phải
những khó khăn phổ biến sau đây trong khi nghe: (1) Không nhận ra các âm tiếng Anh,
(2) Hạn chế về vốn từ vựng, (3) Thiếu tập trung khi nghe, (4) Khó có thể nắm bắt ý chính
của bài nghe, (5) Cần nghe nhiều lần và (6) Không theo kịp tốc độ của người nói.
Năm mươi người học đang tham dự lớp ôn thi chuẩn châu Âu trình độ C1 tham gia vào
nghiên cứu này. Để tìm hiểu kinh nghiệm nghe của họ cũng như thời gian người học
dành cho tự học, người học được yêu cầu đặt một đánh dấu cho câu trả lời tốt nhất của
họ .
Bảng 1 : Cách thức học tập của người học
Khi hỏi 50 người đề là giáo viên chuẩn bị tham gia vào kỳ thi chuẩn châu Âu C1 về thời
gian học nghe của họ thì tác giả đã thu được kết quả trên bảng sau:
Mức độ nghe Không bao giờ Hiếm khi Đôi khi Thường
xuyên
Tỉ lệ % 16 % 42% 36 % 0 %

10
Bảng trên cho thấy 90% người học không kiểm tra nghe của họ. Điều này có nghĩa là lắng
nghe thực sự là một trở ngại cho người học. Trong thực tế, để có một kỹ năng lắng nghe tốt,
phải mất thời gian và công sức. Tuy nhiên, người học dường như dành rất ít thời gian luyện
tập ở nhà 36 % (đôi khi), 16% (không bao giờ), 42% (hiếm khi). Do đó không tự học thì
người học không thể tiếp cận với bất cứ cải tiến hoặc kết quả tốt trong nghe hiểu. Tự học là
một cách để thành công trong nghe. Để cải thiện, người học nên nghe bài hát, băng, đĩa của
giáo trình trong trường đại học, tin tức bằng tiếng Anh. Tuy nhiên, kết quả không có gì nếu
người học không thể suy ra các chiến lược từ mỗi công việc lắng nghe. Kết quả tốt sẽ cho
kết quả nếu người học nhận ra và áp dụng chiến lược thông qua thực hành của họ.

Bảng 2 : Chiến lược của người học trong khi nghe
Các chiến lược khi nghe Tỉ lệ
Đọc lướt qua các câu hỏi trước khi nghe 42 %
Đoán trước chủ đề sắp nghe 20 %
Bỏ qua các từ mới và tiếp tục nghe 10,5 %
Cố gắng đoán nghĩa của các từ trong khi nghe 42,4 %
Cảm thấy chán nản khi gặp từ mới 47,4 %
Những gì người học làm trước khi nghe một phần có tác động trên hiểu biết của mình về các
văn bản nghe. Theo số liệu đã được thu thập, 42 % người học nói rằng họ sẽ đọc lướt qua
các câu hỏi trước khi nghe chỉ có 20 % đoán về các chủ đề sắp nghe. Đó là chưa hợp lý cho
giai đoạn đầu tiên nghe. Tuy nhiên, các hướng dẫn công việc nên trước khi đọc trong bất kỳ
trường hợp nào. Khi họ đọc, họ biết những gì họ có nghĩa vụ phải làm và làm thế nào để đối
phó với điều đó. Chưa có nhiều người học tham gia bước đầu tiên này
Ngoài ra, từ mới là những vấn đề như vậy mà ngăn chặn người học hiểu các văn bản. Khi
gặp một từ mới, chỉ 10,5% chọn để bỏ qua các từ và tiếp tục lắng nghe, 42,4% cố gắng đoán
ý nghĩa của nó và 47,4% cảm thấy chán nản và không thể nghe được nữa. Từ đó, chúng ta
có thể thấy rằng thiếu vốn từ vựng có thể là một rào cản đối với người học.
Như Hedge (2000:237) đã chỉ ra rằng, thay vì lắng nghe từng chữ trong ngôn ngữ đầu tiên
của họ, nhiều người học ngôn ngữ có xu hướng tích hợp năng lực ngôn ngữ, kinh nghiệm và

kiến thức nền tảng của họ để hiểu văn bản.
Nghe hiểu, một người biết lắng nghe sẽ không lắng nghe tất cả những lời của các nhiệm vụ
lắng nghe. Họ có thể bỏ qua bất kỳ một phần của nó và chỉ tập trung vào các thông tin mà
họ cần cho câu trả lời của họ. Ngược lại, hầu hết những người tham gia trong nghiên cứu
của tôi bao gồm 73,6% đồng ý rằng họ lắng nghe từng chữ. Nghe từng chữ hoặc lắng nghe
11
các chi tiết, như họ nghĩ, là rất quan trọng để có được những ý tưởng chính. Một khi họ cố
gắng để hiểu tất cả các từ duy nhất, có rất ít cơ hội để họ khám phá các từ khóa mà cung cấp
cho họ những đầu mối để hiểu được văn bản nghe.
Trong ngôn ngữ đầu tiên của chúng tôi, chúng tôi lướt qua các phần của tin nhắn và chú ý
đến bộ phận duy nhất có liên quan. Do đó câu không được xử lý từng chữ và tập trung được
đặt trên ý tưởng đằng sau những lời này và làm thế nào những ý tưởng liên kết với nhau để
rút ra kết luận. Brown (1992) .
II.2. Vấn đề trong việc học nghe
Để xác định vấn đề, người học được yêu cầu đặt câu trả lời của họ trên như quy mô của
tần số khác nhau, từ không bao giờ luôn. Các vấn đề được phân loại thành hai loại khác
nhau, cụ thể là các vấn đề từ người nghe và vật tư thiết bị nghe.
II.2.1. Vấn đề từ người nghe
Vấn đề Không
bao giờ
Một số
lần
thường luôn luôn
Đưa ra dự đoán những
gì người nói nói về
36,8% 36,8% 26,4%
Đoán từ hoặc cụm từ
chưa biết



15,8% 36,8% 47,4%
Công nhận điểm chính 21,1% 10,5% 31,6% 36,8%
Bảng 3 : Thống kê về các vấn đề từ người nghe
Các vấn đề đầu tiên đã được dự đoán những gì người nói sẽ nói với 68,3% (thường và luôn
luôn). Trong thực tế, dự đoán mang lại một số lợi thế cho người học nghe hiểu của họ. Theo
Hasan (2000), vấn đề được cho là gây ra bởi thói quen lắng nghe từng chữ. Họ không tập
trung vào bất kỳ tín hiệu đặc biệt giúp họ dự đoán những gì sẽ được nói đến. Tuy
nhiên, trong mọi công việc lắng nghe, tín hiệu được cung cấp gián tiếp mà nghe được đào
tạo hoặc có kinh nghiệm có thể nhận ra nó một cách tự nhiên. Ví dụ, tiêu đề của công việc
có thể giúp người học để đoán điểm đến tiếp theo. Ngoài ra, dự đoán có thể được thực hiện
bằng hình ảnh, bản đồ, biểu đồ hoặc bất cứ điều gì được cung cấp trong nghe. Bên cạnh đó,
làm cho câu hỏi liên quan đến chủ đề nghe sẽ giữ cho người học thúc đẩy và nâng cao hiểu
biết của mình.
Sẽ không có lo lắng nếu những câu hỏi không phù hợp với điểm tiếp theo trong nhiệm vụ
lắng nghe.Tạo ra các dự đoán câu hỏi, như Berman (2003) nghĩ rằng, sẽ duy trì học sinh tập
12
trung vào nhiệm vụ của mình. Hơn nữa, câu trả lời cho những câu hỏi chuẩn bị trong giai
đoạn trước khi nghe có thể là ý tưởng chính thực tế của nhiệm vụ lắng nghe. Bằng cách này,
câu hỏi dự đoán là một cách hữu ích để cải thiện hiểu.
Vấn đề thứ hai là giới hạn của quyền lực từ vựng. 89,4% số người tham gia bị hiểu không
đầy đủ. Một số người nghe nghĩ rằng ý nghĩa nơi cư trú của các từ không quen thuộc vì vậy
họ cần một số lượng lớn các từ vựng. Trên phải đối mặt với một từ mới, họ có xu hướng tìm
ra ý nghĩa chứ không phải là suy ra nó từ ngữ cảnh (Hasan, 2000). Dưới đây là một số kỹ
thuật để tham khảo:
Chiến lược đầu tiên và cơ bản nhất là sử dụng các manh mối đó là những từ hoặc cụm từ
đến sau khi những lời không rõ. Tuy nhiên, người học phải đảm bảo rằng họ không dành
nhiều thời gian vào đoán từ không quen thuộc hoặc họ sẽ bỏ lỡ điểm tiếp theo của người
nói. Ngoài ra, các loa có thể sử dụng các từ đồng nghĩa, trái nghĩa hoặc appositives để giải
thích các từ.
Vấn đề thứ ba là công nhận những điểm chính trong nghe hiểu. Nếu người học không thể có

được bất cứ điểm chính, thất bại sẽ là một kết quả không thể tránh khỏi. 73,6% người học
không thể nhận ra những điểm chính trong một nghe bởi vì họ tập trung quá nhiều vào nghe
từng chữ. Vì vậy, họ không thể xác định các từ khóa hoặc các từ nội dung của nhiệm vụ
lắng nghe. Tuy nhiên, có những đầu mối đề xuất bởi Berman (2000) để xác định những
điểm chính trong nghe.
Đánh dấu luận được coi là cây cầu dẫn đến các điểm. Nó là một điều tự nhiên như vậy mà
các loa thường báo hiệu những điểm chính với các dấu hiệu ngôn. Đánh dấu khác nhau với
các biểu thức đặc biệt giữ cho người nghe bắt kịp với bước ngoặt của nhiệm vụ. Đánh dấu
bổ sung (ngoài ra, hơn nữa, hơn nữa, vv) thông báo sửa đổi hoặc thêm vào một ý tưởng
trong khi dấu hiệu của nguyên nhân và trình tự (bởi vì, do thực tế rằng, kết quả là, do đó)
cho chúng ta biết lý do và kết quả một thực tế hoặc một hành động.
Lặp đi lặp lại được coi là tín hiệu của điểm chính. Khi một từ hoặc cụm từ được lặp đi lặp
lại nhiều lần, có thể nó bao gồm những điểm quan trọng.
Tốc độ của các bài phát biểu cũng cung cấp tín hiệu cho việc đánh bắt những điểm
chính. Như một vấn đề của thực tế, nói chuyện tự nhiên là rất nhanh cho người học ngôn
ngữ thứ hai do đó, nó làm cho một số rắc rối cho loa không bản địa. Tuy nhiên, trong dòng
nghe sinh viên sẽ nhận thấy rằng đôi khi người nói nói chậm hơn một chút và rõ ràng hơn
anh đã làm trước đây. Điều này chủ yếu là các điểm của sự lắng nghe. Đó là cơ hội cho
người học để nắm bắt những thông tin cần thiết trong một văn bản nghe. Nhấn mạnh là một
13
yếu tố tự nhiên khi nói như vậy loa cũng nhấn mạnh để báo hiệu những ý tưởng quan trọng
nhất. Những gì học sinh cần làm là phải quan tâm đến tốc độ và ngữ điệu của người nói và
xác định các điểm. Như trong cuốn sách "chiến lược lắng nghe trước" của mình (Berman,
2003) cho rằng:
Tốc độ là tốc độ của bài phát biểu. Điểm không quan trọng hoặc các chi tiết nhỏ thường nói
nhanh hơn. Điểm quan trọng, chẳng hạn như ý tưởng chính, thường nói chậm hơn và rõ
ràng.
II.2. 2. Vấn đề từ các tài liệu nghe
Vấn đề Không bao
giờ

Đôi khi Thường Luôn luôn
Chủ đề quen thuộc 63,2% 31,6% 5,2%
Giọng khác nhau 21,1% 47,4% 31,5%
Vật liệu xác thực 10,5% 68,4% 21,1%
Từ ngôn ngữ giao tiếp 10,5% 36,8% 36,8% 15,9%
Tốc độ của lời nói 31,6% 52,6% 15,8%
Liên kết từ 10,5% 15,8% 73,7%
Câu sai ngữ pháp 52,6% 47,4%
Do dự 21,1% 47,4% 31,5%
Nghe lâu 15,8% 52,6% 31,6%
Bảng 4 : Thống kê về các vấn đề từ các tài liệu nghe
Bảng 4 cho thấy chủ đề quen thuộc đôi khi mang lại một vấn đề trong nghe hiểu. 63,2% (đôi
khi) và 36,8% (thường xuyên và luôn luôn) của các người học có vấn đề với các chủ đề mà
không quen thuộc với họ. Các tài liệu nghe có thể chứa nhiều lĩnh vực trong cuộc sống và
xã hội. Ví dụ, nó có thể là một báo cáo kinh doanh, một cuộc trò chuyện hàng ngày hoặc
một vấn đề chính trị mà gây nhầm lẫn cho người nghe. Những cuộc nói chuyện có thể bao
gồm các từ, cụm từ hoặc thuật ngữ quen thuộc với người nghe. Họ là hoàn toàn xa lạ đối với
họ để nó là một công việc khó khăn như vậy để lắng nghe khi các tin nhắn có đầy đủ các
thuật ngữ. Giải pháp là yêu cầu học sinh thực hành càng nhiều càng tốt các vật liệu khác
nhau. Do đó, họ có thể được sử dụng để lắng nghe những chủ đề khác nhau mà không cần
bất kỳ khó khăn.
Theo bảng 2, nhiều điểm nhấn gây khó khăn cho người học nghe hiểu vì họ không có nhiều
tiếp xúc với điểm nhấn khác nhau. Kết quả từ bảng 2 cho thấy rằng 47,4% và 31,5% số học
sinh trải nghiệm loại vấn đề. Ví dụ, nếu người học lắng nghe người Pháp nói tiếng Anh, họ
sẽ cảm thấy khó hiểu anh ta hoặc cô như họ nói tiếng Anh trong một ngữ điệu Pháp có
nguồn gốc. Yagang (1994) khẳng định rằng người nghe có xu hướng để làm quen với những
14
điểm nhấn mà họ chủ yếu là lắng nghe. Nếu nghe được tiếp xúc với điểm nhấn tiêu chuẩn
của Anh hay Mỹ, họ sẽ phải đối mặt với các vấn đề trong sự hiểu biết điểm nhấn khác.
Bên cạnh đó, nó là ngôn ngữ thực sự hay vật liệu xác thực là nguyên nhân gây khó khăn cho

học sinh. Sinh viên đã được tiếp xúc với chính mình để vật liệu được thiết kế cho mục đích
giảng dạy và lắng nghe. Vì vậy, ngôn ngữ trong các tài liệu này, một số phạm vi, đã được
đơn giản hóa và chứa ít thông tục tiếng Anh. Ngoài ra, người học trong các trường đại học
của chúng tôi chủ yếu là học tiếng Anh với giáo viên không có nguồn gốc. Như cho rằng,
nếu người học nghe một cuộc trò chuyện không chính thức, đó là chắc chắn rằng đó là khó
khăn hơn nhiều so với nghe một cuộc trò chuyện chính thức sử dụng chủ yếu trong lớp học
tiếng Anh. Không giống như các bản ghi âm trong lớp học ESL, các cuộc trò chuyện không
chính thức bao gồm một số từ có âm thanh lạ cho học sinh. Do đó, họ không biết những gì
họ đang nghe. Ngôn ngữ thực bao gồm những từ thông tục, biểu thức và thậm chí cả tiếng
lóng mà hoàn toàn hầu như không mang lại bất kỳ các sinh viên các khái niệm về
chúng.McCarthy (1990:15) chỉ ra rằng nó cần người bản ngữ năm để có được một kiến thức
chấp nhận được sắp xếp thứ tự. Mặt khác, Heron và Seavy (1991) đã nhấn mạnh tầm quan
trọng của vật liệu xác thực để cải thiện tuyệt vời của họ trong nghe hiểu từ các tài liệu xác
thực liên quan chặt chẽ đến cuộc sống và sự đa dạng ngôn ngữ.
Ngoài ra, các tính năng ngôn ngữ là rào cản ngôn ngữ cho người học. Các liên lạc, các liên
kết của từ đầu tiên và từ đến ngay sau đó bắt đầu bằng một nguyên âm, là tuyên bố của
73,7% số học sinh được sự tắc nghẽn thường gặp nhất ở nghe kể từ khi các sinh viên được
sử dụng để nghe mỗi từ riêng biệt của đơn vị trong một câu và dòng suối chảy chậm lắng
nghe. Do đó, họ hiểu sai từ liên kết hoặc họ không có ý tưởng về ý nghĩa chuyển giao. Một
vấn đề khác nghe là sự bỏ bớt của một âm thanh hay chính xác một âm tiết trong một
từ. Các loại tính năng có thể gặp phải khi tin nhắn được nói ở đó một tâm trạng tốc độ
nhanh chóng mà các câu thốt ra không thể nói từng chữ. Như vậy, người học không thể
nhận ra những từ mà họ nghe thấy. Liên lạc và sự bỏ bớt, như Yagang (1994) cho rằng,
những khó khăn mà người nghe thường phải đối mặt trong khi nghe. Thông thường, họ đã
quen với các từ viết rằng tổ chức có trật tự trong sách giáo khoa. Vì vậy, trong dòng chảy
của bài phát biểu, người học thấy khó để nhận ra các từ riêng biệt.
Trong thực tế, người học thường cố gắng để mở khóa ý nghĩa bằng cách phân tích cấu trúc
câu. Cấu trúc không quen thuộc sẽ có sự nhầm lẫn đối với họ. Do đó, có 47,4% người học
phải đối mặt với vấn đề này. Hasan, được trích dẫn trong (Vogely, 1994) đồng ý rằng khó
khăn trong việc nghe hiểu một phần là do các thành phần cấu trúc của văn bản. Trong bài

15
nói chuyện chính thức, khó khăn nghiêm khắc từ các câu sai ngữ pháp hoặc tin nhắn được
nói chuyện với nhiều do dự. 78,9% người học nghĩ rằng họ bị vấn đề này. Hơn nữa, cho dù
đó là một thói quen hay không, thêm một cái gì đó hoặc cái gì đó để giảm một câu dường
như nhầm lẫn giữa các người học. Yagang (1994) cũng tìm ra rằng trong cuộc trò chuyện,
cấu trúc sai ngữ pháp và được sử dụng do sự căng thẳng và do dự của các diễn giả. Do đó,
loa có thể bỏ qua các phần của một câu hoặc thêm một cái gì đó không cần thiết. Do đó,
điều này hạn chế sự hiểu biết của người nghe.
Các văn bản nghe lâu được coi là một trở ngại cho người học nghe tuyên bố chủ quyền
84,2% (đôi khi và thường xuyên). Trên thực tế, nếu học sinh làm nghe một thời gian dài, họ
sẽ phải chịu áp lực. Điều này sẽ không mang lại kết quả tốt. Hơn nữa, nếu các văn bản nghe
quá dài, người nghe được yêu cầu kỹ năng ghi chép. Tuy nhiên, ghi chép là không dễ dàng
cho người học.
Khoảng thời gian sinh viên nghe có thể gây ra vấn đề bộ nhớ hoặc thậm chí mệt mỏi và
điều này sẽ đánh lạc hướng sự chú ý của thính giả từ hiểu hết ý nghĩa của văn bản, và học
viên có thể bỏ lỡ phần còn lại của văn bản khi có một sai sót trong tập trung. Điều này có
thể là do nhịp bộ nhớ ngắn cho ngôn ngữ mục tiêu. (Hasan, 2000: 143)
Kỹ năng ghi chép có vẻ là cách hữu ích nhất khi người học phải đối mặt với một nhiệm vụ
lâu dài trong nghe. Điều này sẽ giúp người học ghi nhớ những điểm chính hoặc các thông
tin chính xác. Câu hỏi đặt ra ở đây là làm thế nào người học có thể viết ra những gì họ nghe
thấy một cách nhanh chóng như họ có thể để họ sẽ không bỏ lỡ những ý tưởng khác. Người
ta cho rằng người học nên viết ra những điểm chính. Bên cạnh đó, họ nên phát triển nhân
vật hoặc biểu tượng riêng của họ. Đây được cho là cách hiệu quả nhất khi học sinh phải đối
mặt với một nhiệm vụ lắng nghe lâu. Như Berman (2003) cho biết:
Hiệu quả ghi chép yêu cầu bạn ghi lại các thông tin một cách nhanh chóng. Để làm điều
này, tốt lưu ý taker không viết ra mọi từ hoặc cố gắng để lưu ý trong câu gọn gàng; thay
vào đó họ chỉ viết những từ và cụm từ khóa. Ngoài ra, taker lưu ý tốt sử dụng viết tắt khi họ
lưu ý. Nói cách khác, họ sử dụng những biểu tượng đại diện cho những lời hay ý tưởng.

II.2. 3. Vấn đề là kết quả của các thiết lập vật lý

Không chỉ những khó khăn đến từ tin nhắn, người nghe hoặc loa mà còn đến từ môi
trường xung quanh các người học.
Vấn đề Không bao
giờ
Đôi khi Thường luôn luôn
16
Tiếng ồn 5,3% 31,6% 63,1%
Chất lượng băng kém 47,3% 36,8% 15,8%
Thiết bị nghèo 21,1% 52,6% 26,3%
Bảng 5 : Thống kê về vấn đề thiết lập từ vật lý
Bảng 5 cho thấy có 63,1% người học phải đối mặt với vấn đề của tiếng ồn. Nếu nhiệm vụ
nghe được thực hiện với tiếng ồn xung quanh, đó là chắc chắn họ sẽ không có một kết quả
tốt trong nghe. Đầu tiên, họ đang bị phân tâm bởi tiếng ồn không có vấn đề khó khăn mà họ
cố gắng tập trung vào công việc. Nếu không, tiếng ồn làm cho một phức tạp của âm thanh
thay vì thu âm solo được chơi. Điều này làm gián đoạn các người học đến từ nghe và tập
trung vào nhiệm vụ.
Vấn đề cũng xuất phát từ chất lượng kém của các băng hay đĩa. Ví dụ, băng có thể được ghi
lại trong khi có những tiếng ồn xung quanh hoặc băng được sử dụng trong một thời gian dài
như vậy nên chất lượng bị hao mòn.
Thiết bị nghèo là bằng cách nào đó là một trở ngại cho người học nghe. Cho một ví dụ, nghe
hiểu, nó là nơi tốt nhất cho người học để làm nghe trong phòng thí nghiệm. Này bằng cách
nào đó sẽ mang lại kết quả tốt hơn cho những tiếng ồn bên ngoài không thể có được thông
qua các phòng thí nghiệm. Một máy ghi băng tốt hay một máy nghe nhạc CD có thể cung
cấp cho họ tốt hơn chứ không phải là của một tuổi.
II.2. 4. Nguyên nhân của những khó khăn khi nghe: Mười lý do sau giải thích tại sao
người học lại thấy kỹ năng nghe lại quá khó với họ
II.2. 4. 1. Họ đang cố gắng để hiểu tất cả các từ : Bất chấp thực tế là chúng ta có thể đối
phó với toàn bộ khối còn thiếu của bài phát biểu có một cuộc trò chuyện trên một đường
phố ồn ào bằng ngôn ngữ riêng của chúng ta, nhiều người dường như không để có thể
chuyển giao kỹ năng một cách dễ dàng với một ngôn ngữ thứ hai. Một phương pháp giải

quyết vấn đề này là để cho họ làm thế nào để xác định những từ quan trọng mà họ cần phải
nghe ra cho. Trong tiếng Anh này được thể hiện một cách dễ dàng để tại chỗ mà từ trong
câu được nhấn mạnh (nói to hơn và dài hơn). Khác là cung cấp cho họ một công việc rất dễ
dàng mà bạn biết họ có thể làm ngay cả khi họ không nhận được 90% của những gì đang
được nói để xây dựng sự tự tin của họ, chẳng hạn như xác định tên của một người nổi tiếng
hoặc đốm một cái gì đó được đề cập nhiều lần.
17
II.2. 4. 2. Họ để lại phía sau cố gắng tìm ra những gì một từ có nghĩa là trước Đây là
một khía cạnh của vấn đề trên mà tất cả mọi người nói tiếng nước ngoài đã có kinh nghiệm
tại một thời điểm nào đó. Điều này thường xảy ra khi bạn nghe một từ mà bạn nửa nhớ và
tìm thấy bạn đã hoàn toàn mất chủ đề của những gì đang được nói do thời gian bạn nhớ
những gì nó có nghĩa là, nhưng cũng có thể xảy ra với những từ bạn đang cố gắng để làm
việc ra rằng âm thanh tương tự như một cái gì đó trong ngôn ngữ của bạn, từ bạn đang cố
gắng để làm việc ra khỏi bối cảnh hoặc các từ bạn đã nghe nói nhiều lần trước đây và đang
cố gắng để đoán ý nghĩa của một lần và cho tất cả. Trong listenings cá nhân bạn có thể cắt
giảm vấn đề này với vựng trước dạy và bằng cách sinh viên để nói về cùng một chủ đề đầu
tiên để mang lại vốn từ vựng liên quan cho khu vực chủ đề gần mặt trước của bộ não của
họ. Bạn cũng có thể sử dụng một nghe đó là trong các phân đoạn ngắn hơn hoặc sử dụng nút
tạm dừng để cung cấp cho bộ não của họ một cơ hội để bắt kịp, nhưng dạy họ các kỹ năng
đối phó với nhiều nhu cầu nghe và tìm hiểu từ này có nghĩa là không dễ dàng như vậy. Một
phương pháp đào tạo là sử dụng một hoặc hai nghe để có được họ chỉ tập trung vào đoán từ
từ ngữ cảnh. Khác là để tải lên các nhiệm vụ nhiều hơn bằng cách thêm một câu đố logic
hay nghe và viết công việc, do đó chỉ cần nghe và cố gắng nhớ những lời có vẻ như là một
lựa chọn dễ dàng hơn. Cuối cùng, dành nhiều thời gian xem xét lại từ vựng và kỹ năng làm
việc, nơi họ tiếp xúc với nó và sử dụng nó, và cho học sinh cách làm như vậy trong thời
gian riêng của họ, do đó số lượng của một nửa nhớ vựng là ít hơn nhiều.
II. 2. 4. 3. Họ chỉ không biết những từ quan trọng nhất: Một lần nữa, làm từ vựng trước
giảng dạy trước mỗi nghe như một giải pháp ngắn hạn và làm việc trên các kỹ năng đoán từ
vựng bối cảnh có thể giúp đỡ, nhưng hãy chắc chắn rằng bạn thực hành này với các từ mà
thực sự có thể được đoán từ ngữ cảnh (một điểm yếu của nhiều sách giáo khoa) và bạn làm

việc trên đó với các văn bản đọc trong một thời gian để xây dựng lên đến các kỹ năng khó
khăn hơn nhiều đoán vựng và nghe cùng một lúc. Các giải pháp khác chỉ đơn giản là xây
dựng vốn từ vựng của họ và dạy họ làm thế nào họ có thể làm như vậy trong thời gian riêng
của họ với danh sách từ vựng, đọc phân loại, từ điển đơn ngữ sử dụng vv
II.2. 4. 4. Họ không nhận ra những từ mà họ biết Nếu bạn có sách giáo khoa cũng được
phân loại cho lớp học của bạn, điều này có thể là một vấn đề phổ biến hơn (và bi thảm hơn)
không biết từ vựng ở tất cả. Ngoài việc chỉ là suy nghĩ quá bận rộn về những thứ khác và
mất tích một từ, lý do phổ biến tại sao học sinh có thể không nhận ra một từ bao gồm không
18
phân biệt giữa các âm thanh khác nhau trong tiếng Anh (ví dụ / l / và / r / trong "dẫn" và
"đỏ" cho nhiều người châu Á), hoặc ngược lại cố gắng để lắng nghe sự khác biệt mà không
tồn tại, ví dụ như không biết những từ như "có", "của họ" và "họ" là những từ đồng âm. Lý
do khác là vấn đề với trọng âm của từ, trọng âm của câu, và những thay đổi âm thanh khi có
những lời được nói với nhau trong lời nói tự nhiên như hình thức yếu. Tất cả những gì này
nắm đến là đôi khi công việc phát âm là phần quan trọng nhất của xây dựng kỹ năng nghe
hiểu.
II.2. 4. 5. Họ có vấn đề với điểm nhấn khác nhau Trong một cuốn sách giáo khoa hiện
đại, sinh viên phải không chỉ đối phó với một loạt các Anh, Mỹ và Úc dấu trọng âm, nhưng
có thể cũng đã Ấn Độ hoặc tiếng Pháp ném in. Trong khi đây là về mặt lý thuyết hữu ích
nếu hoặc khi họ nhận được một công việc trong một công ty đa quốc gia, nó có thể không
phải là thách thức bổ sung mà họ cần ngay bây giờ, đặc biệt là nếu họ nghiên cứu riêng
tiếng Anh-Mỹ tại trường học . Khả năng thực hiện một nghe đặc biệt với một giọng khó dễ
dàng hơn bao gồm rerecording nó với một số giáo viên khác trước khi đến lớp, đọc tất cả
hoặc một phần của tapescript trong của bạn (hy vọng quen thuộc hơn và do đó dễ dàng hơn)
giọng, và đem lại cho họ một nhiệm vụ nghe mà viết câu hỏi giúp đỡ như khoảng cách lấp
đầy. Nếu đó là một giọng đặc biệt là họ cần phải hiểu, ví dụ, nếu chúng được phân loại ra
các gia công phần mềm Ấn Độ, bạn thực sự có thể dành một phần của một bài học về các
đặc tính của giọng đó. Để xây dựng khả năng của họ để đối phó với các điểm nhấn khác
nhau trong thời gian dài, cách tốt nhất là chỉ để có được họ nghe rất nhiều tiếng Anh, ví dụ
như TV mà không cần lồng tiếng hoặc BBC Radio Service. Bạn cũng có thể muốn suy nghĩ

về việc tập trung phát âm của bạn vào âm thanh mà họ cần phải hiểu nhiều giọng khác nhau
chứ không phải là một, và tập trung vào listenings với điểm nhấn có liên quan cho nhóm cụ
thể của sinh viên, ví dụ như quốc tịch của trụ sở chính của họ.
II.2. 4. 6. Họ thiếu khả năng chịu đựng nghe / họ cảm thấy mệt mỏi Đây lại là một bất
cứ ai đã sống ở nước ngoài biết được bạn đang làm tốt với các cuộc trò chuyện hoặc phim
cho đến khi bộ não của bạn dường như đạt đến điểm bão hòa và từ đó không có gì đi trong
cho đến khi bạn thoát vào nhà vệ sinh trong 10 phút. Điều đầu tiên bạn sẽ cần phải ghi nhớ
là để xây dựng chiều dài của văn bản bạn sử dụng (hoặc độ dài giữa tạm dừng) trên khóa
học trong cách chính xác giống như bạn xây dựng sự khó khăn của các văn bản và nhiệm
vụ. Bạn có thể làm cho thời gian đầu tiên họ nghe một văn bản dài hơn một thành công và
19
do đó tăng cường sự tự tin bằng cách thực hiện nó trong một phần của bài học và một phần
của ngày khi họ tỉnh táo nhất, bởi không quá tải bộ não của họ với ngôn ngữ mới trước, và
bằng cách cho họ nghỉ ngơi hoặc hoạt động dễ dàng trước khi họ bắt đầu. Bạn có thể xây
dựng khả năng chịu đựng của họ bằng cách cũng làm cho nhiệm vụ nói dài hơn trong nhiệm
kỳ, và họ có thể thực hành những điều tương tự bên ngoài lớp học bằng cách xem một bộ
phim với phụ đề tiếng Anh và lấy phụ đề ra lâu hơn và thời gian dài hơn mỗi lần.
II.2. 4. 7. Họ đang bị phân tâm bởi tiếng ồn xung quanh Có khả năng đối phó với tiếng
ồn xung quanh là một kỹ năng mà không dễ dàng chuyển từ L1 và xây dựng cùng với nghe
và ngôn ngữ chung của học sinh. Cũng như đảm bảo các băng không có nhiều tiếng rít hoặc
tệ hơn (ví dụ bằng cách ghi băng để băng ở tốc độ bình thường không tốc độ gấp đôi, bằng
cách sử dụng bản gốc hoặc bằng cách điều chỉnh bass và treble) và chọn một bản ghi âm
không có tiếng ồn đường phố vv, bạn cũng cần phải cắt giảm tiếng ồn bên trong và bên
ngoài lớp học. Listenings kế hoạch khi bạn biết nó sẽ được yên tĩnh bên ngoài, ví dụ như
không vào giờ ăn trưa hoặc khi lớp kế bên cũng đang làm một nghe. Cắt giảm tiếng ồn bên
trong các lớp học bằng cách thực hiện nhiệm vụ đầu tiên với cuốn sách đóng cửa và bút
xuống. Tăng sự tự tin của họ bằng cách cho họ làm cùng nghe trên tai nghe và hiển thị
chúng như thế nào dễ dàng hơn nhiều nó được. Cuối cùng, khi họ bắt đầu làm quen với nó,
cung cấp cho họ một thách thức bổ sung bằng cách sử dụng một bản ghi âm với tiếng ồn
xung quanh như một cuộc trò chuyện bữa tiệc cocktail.

II.2. 4. 8. Họ không thể đối phó với việc không có hình ảnh người trẻ hiện nay, họ chỉ có
thể không đối phó mà không đa phương tiện! Mặc dù có những sinh viên không được sử
dụng để nghe radio bằng ngôn ngữ riêng của họ không thể giúp đỡ, hầu hết học sinh tìm
thấy không có ngôn ngữ cơ thể và các dấu hiệu khác để giúp một khó khăn cụ thể trong một
ngôn ngữ nước ngoài. Thiết lập các cảnh với một số hình ảnh của người nói có thể giúp đỡ,
đặc biệt là nhiệm vụ mà họ đặt các hình ảnh theo thứ tự như họ nghe, và sử dụng video thay
vì làm cho một sự thay đổi tốt đẹp và là một cách tốt để làm cho các kỹ năng như đoán từ
vựng dễ dàng hơn và bối cảnh tự nhiên hơn.
II.2. 4. 9. Họ đã nghe vấn đề Cũng như những người như học sinh lớn tuổi gặp khó khăn
chung trong nghe và cần phải được ngồi gần với cassette, bạn cũng có thể có những học
sinh có vấn đề về thính giác tần số cụ thể hoặc những người có vấn đề gì với tiếng ồn xung
20
quanh. Cũng như chơi đùa với các bộ cân bằng đồ họa và làm những lời khuyên khác trên
cho tiếng ồn xung quanh, bạn cũng có thể thử cài đặt hầu hết các nhiệm vụ nghe như bài tập
về nhà và / hoặc cho một hoặc nhiều học sinh đọc từ tapescript khi họ nghe.
II.2. 4. 10. Họ khó có thể nhận biết sự khác biệt giữa các giọng nói khác nhau Đây là
vấn đề rõ ràng là khác biệt với một người bản xứ hoàn toàn có thể gây nhầm lẫn cho một
người không bản địa
II. 3. Biện pháp khắc phục
Những giải pháp được đưa ra trong phần này xuất phát từ chính những nguyên nhân gây ra
khó khăn cho người học với hi vọng có thể giúp người học phần nào khắc phục khó khăn,
tìm ra phương pháp thich hợp nhất cho bản thân trong quá trình học kỹ năng nghe.
II. 3.1. Giải pháp cho việc không nhận ra các âm tiếng Anh
II. 31.1. Cách phân biệt các từ đồng âm, từ có cách phát âm gần giống nhau
Dựa vào cách phát âm
Cách này có thể áp dụng hiệu quả cho các từ có cách phát âm gần giống nhau vì chúng có
trọng âm rơi vào các âm tiết khác nhau, ví dụ như thirteen / thirty và độ dài ngắn của các âm
là khác nhau, ví dụ ‘ship/sheep’, ‘fit/ feet’.
Dựa vào nghĩa của cả câu và chức năng của từ trong câu
Các từ đồng âm được phát âm giống hệt nhau, rất dễ gây nhầm lẫn cho người nghe, ví

dụ some / sum, I/ eye, son/ sun. Bên cạnh đó lại có những từ đồng âm và đồng cách viết
mang nghĩa khác nhau (homonyms) như left, flat, saw, play. Do vậy, người học cần phải
dựa vào chức năng của từ đó trong câu, cấu trúc câu được tạo nên bởi từ đó, đặc biệt là ngữ
cảnh của câu (context) để suy luận và chọn ra từ đúng.
Ví dụ: (TOEFL 4 in 1 CD-ROM, TOEFL Explorer, Tutorial)
Question: Which answer has the closest meaning to the statement?
Tapescript: The man was fired for overlooking the security checks.
21
Answer choices: A. The man was tired because he overdid his work.
B. The chicks were overcooked.
C. The man lost his job because he did not check the security.
D. The tired man looks over the check for mistakes
Trong các lựa chọn đã cho ở trên, người nghe rất khó phân biệt ‘fired’ với ‘tired’,
‘overlooking’ với ‘overcooking, ‘checks’ với ‘chicks’. Tuy nhiên, giới từ của ‘tired’ là ‘of’
chứ không phải là ‘for’ nên có thể loại bỏ lựa chọn ‘a’ và ‘d’. Hơn nữa, ‘security chicks’
không có nghĩa nên từ đúng phải là ‘security checks’. Thêm vào đó, ‘security checks’không
thể ‘overcooked’ nên phải chọn ‘overlooking’. Do đó lựa chon c là đúng.
II. 3.1.2. Cách khắc phục nhầm lẫn giữa dạng khẳng định và dạng phủ định
Trong tiếng Anh, để phủ định, người ta thường dùng các trợ động từ trong câu. Ngoài ra,
dạng phủ định của từ cũng có thể được tạo nên nhờ các phụ tố (tiền tố hoặc hậu tố)
như: im- trong impossible, il- trong illegal, dis- trong dissatisfied, -less trong careless.Do
đó, để tránh nhầm lẫn giữa dạng khẳng định và dạng phủ định trong bài nghe, người học cần
đặc biệt chú ý đến các phụ tố, các trợ động từ cũng như một số yếu tố khác như giọng điệu
của người nói và ngữ cảnh của câu.
Ví dụ: (TOEFL 4 in 1 CD-ROM, Longman Test 1)
Question: Which answer has the closest meaning to the statement?
Tapescript: The researcher isn’t at all dissatisfied with his findings.
Answer choices: A. He is pleased with his result.
B. He isn’t satisfied with all his work.
C. He found that all his work wasn’t satisfactory.

D. He satisfied all the panel of his findings.
22
Trong ví dụ này người nghe cần phải phân biệt được hai từ ‘satisfied’ và ‘disatisfied’ để
chọn phương án trả lời đúng. Nếu chú ý các lựa chọn cho trước (answer choices) trước khi
nghe thì người nghe có thể phát hiện ra ngay từ ‘satisfied’ không phải là từ đúng cần nghe
vì nghĩa của đáp án b và c là giống nhau. Ngoài ra, câu nói được phủ định hai lần nên nó
mang nghĩa khẳng định. Thêm vào đó, câu trả lời d (the panel of his findings) không mang
nghĩa như câu nói trong đĩa nên câu a sẽ là câu trả lời đúng.
II. 3.1.3. Cách khắc phục một số ảnh hưởng về cách phát âm chuỗi lời nói trong tiếng
Anh
Anne Anderson & Tony Lynch (1988) nhận định rằng một số ảnh hưởng về cách phát âm
chuỗi lời nói trong tiếng Anh như dạng yếu trong phát âm một số từ chức năng (weak
forms), hiện tượng rút gọn của từ (contractions), hiện tượng nuốt âm (elision), hiện tượng
nối âm (linking), gây cho người học khá nhiều khó khăn khi nghe, đặc biệt là với những
người mới học ngoại ngữ. Do đó, sinh viên nên làm quen với những hiện tượng này bằng
cách tìm học những ví dụ thường gặp và đặc trưng cho từng hiện tượng, tập phát âm các
cụm từ đó, viết ra nhật ký học tập để ghi nhớ.
Ví dụ: 1. Cách phát âm dạng yếu (weak forms) thường gặp trong chuỗi lời nói nhanh và đôi
khi không mang tính nghi thức như: wanna, hafta, kuz, gonna, dunno, don’cha know. Đây là
hình thức rút gọn của ‘want to, have to, because, going to, don’t know, don’t you know.’
2. ‘kind of’ và ‘sort of’ đôi khi được rút gọn thành ‘kinda’ và ‘sorta’
3. Những trợ động từ ‘would like, can, may, will, would, ought to, so on and so
forth’ cũng thường được rút gọn trong câu nói.
II. 3.2. Giải pháp cho việc thiếu tập trung khi nghe
II. 3.2.1.Tránh hoặc khắc phục tình trạng sức khỏe không tốt
Tình trạng sức khỏe không tốt như mắc bệnh hay mất ngủ, thiếu ngủ có thể gây cho người
học mất tập trung khi nghe. Do vậy, người nghe cần phải tránh nhiễm bệnh, nếu chẳng may
bị nhiễm bệnh cần tìm mọi cách khắc phục và tránh hiện tượng thiếu ngủ trước khi nghe,
nhất là trước khi làm bài thi.
23

II. 3.2.2. Thường xuyên luyện tập nghe
Trong khi nghe, một người nghe giàu kinh nghiệm bao giờ cũng có nhiều lợi thế hơn những
người nghe ít kinh nghiệm do trong quá trình luyện tập, họ đã hình thành được một số kỹ
năng. Do đó, để nâng cao khả năng nghe hiểu, người học ngoại ngữ nên tích cực luyện tập
một cách hợp lý và có phương pháp. Bằng việc thường xuyên luyện tập và tiếp xúc với các
tài liệu có mức độ thay đổi từ dễ đến khó, cùng với thời gian, người học sẽ hình thành được
kỹ năng nghe. Sinh viên không chuyên trong hai năm đầu có thể sử dụng một số tài liệu phù
hợp như sau: (1) Listen carefully (Jack C. Richards), (2) Ship or Sheep (Ann Baker),
(3) Listen for it (Jack C. Richards, Deborah Gorbon, Andrew Harper), (4) Three or
Tree (Ann Baker), (5) Think First Certificate (John Naunton)
II. 3.3. Giải pháp cho việc khó có thể nắm được ý chính của bài nghe
II. 3.3.1. Cách phân biệt thông tin cần nghe (relevant points) với những thông tin còn lại
(irrelevant information)
Thông thường, trước khi nghe, bao giờ người nghe cũng có một khoảng thời gian ngắn (1-2
phút) để đọc qua những câu hỏi yêu cầu hoặc nghe chỉ dẫn trong băng, đĩa. Nếu biết tận
dụng những câu hỏi và chỉ dẫn này, người học có thể suy đoán thông tin cần nắm bắt và chủ
đề của bài nghe, nhờ đó người nghe có thể vận dụng vốn hiểu biết của mình để có sự chuẩn
bị trước về vốn từ và một số cấu trúc câu cần thiết. Nếu làm tốt điều này thì lượng thông tin
cần ghi nhớ sẽ giảm đi, người nghe sẽ phần nào phân biệt được những thông tin cần nghe
với những thông tin không quan trọng khác trong bài.
II. 3.3.2. Cách suy luận được ý chính của bài nghe qua từ ngữ quan trọng
Những từ ngữ quan trọng trong bài là những từ ngữ mà dựa vào đó, người nghe có thể suy
ra ý chính của bài nghe. Thường thì những từ này được nhấn mạnh trong câu hoặc có thể
được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong bài. Chính vì vậy, người nghe nên dựa vào một số dấu
hiệu ngôn từ (discourse markers) này để nắm bắt được ý chính của bài nghe.
Ví du:
24
Những cụm từ dùng để liệt kê ý chính là: I would like to emphasize, The general point you
must remember is, It is important to note that, I repeat that, Another thing is, Finally, That
is, Now,

Những cụm từ được sử dụng để liệt kê ví dụ là: such as, Let me give you some examples,
For example/ instance, I might add, To illustrate thi spoint,
Những cụm từ thường dùng khi đề cập đến những vấn đề không quan trọng là: By the way,
I might note in passing,
Ngoài ra, để có thể ghi nhớ hết những thông tin quan trọng trong bài, người nghe cần có sự
ghi chép (take notes). Tuy nhiên, cần phải bố trí phần ghi chép cho hợp lý để dễ sử dụng và
tránh gây nhầm lẫn.
Kết luận: Có thể nói rằng kỹ năng nghe có vai trò hết sức quan trọng trong quá trình học
ngoại ngữ vì nó có tác động rất tích cực đến các kỹ năng khác như nói, đọc, viết, giúp luyện
phát âm và mở mang vốn từ vựng. Thực tế cho thấy người học gặp khá nhiều khó khăn
trong quá trình nghe hiểu. Để khắc phục những khó khăn trên, người học cần tìm ra nguyên
nhân của chúng để từ đó có cách giải quyết hợp lý. Những giải pháp đưa ra trong bài viết
này có thể phát huy hiệu quả nếu được áp dụng một cách đúng đắn. Tuy nhiên, điều quan
trọng là bản thân người học phải kiên trì, bền bỉ, lựa chọn phương pháp thích hợp phù hợp
với trình độ và hoàn cảnh của mình.
CHƯƠNG III: CÁC CHIẾN LƯỢC VÀ KỸ NĂNG NGHE HỮU ÍCH
Trong phần thi nghe chuẩn châu Âu có 3 dạng bài mà người thi phải hoàn thành như sau:
- Phần A: nghe những cuộc hội thoại ngắn sau đó trả lời câu hỏi được đọc trên đĩa.
- Phần B: nghe một đoạn hội thoại dài hơn. Sau mỗi đoạn hội thoại người nghe sẽ nghe một
vài câu hỏi (từ 4 đến 5 câu)
- Phần C: Trong phần này người nghe sẽ nghe một vài bài nói ngắn. Sau mỗi bài nói người
nghe sẽ phải trả lời những câu hỏi có liên quan đến bài nói vừa nghe.
III. 1. Chiến lược Nghe Hiểu - Phần A
- Trước hết nghe chỉ dẫn trong băng.
25

×