Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

SKKN Phương pháp sử dụng đồ dùng dạy học có hệ thống trong môn Tự nhiên xã hội lớp 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.64 KB, 11 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
“PHƯƠNG PHÁP SỬ DỤNG ĐỒ DÙNG DẠY HỌC
CÓ HỆ THỐNG TRONG MÔN TỰ NHIÊN - XÃ HỘI
LỚP 2”
I- Lí do chọn đề tài:
Là giáo viên ai cũng mong học sinh mình học giỏi, hứng thú học
tập, phát huy tính chủ động sáng tạo trong giờ học. Do đặc điểm sinh lí
lứa tuổi học sinh lớp 2 và đặc điểm nhận thức đi từ trực quan sinh động
đến tư duy trìu tượng. ở giai đoạn này, các em có cách nhìn thiên nhiên
và cuộc sống xung quanh dưới dạng tổng thể đơn giản, năng lực phân
tích, suy luận còn hạn chế. Khi giảng dạy môn TNXH tôi thấy một số
thuận lợi như: giáo viên nhiệt tình giảng dạy, tìm hiểu kỹ bài và chuẩn
bị chu đáo theo nội dung, yêu cầu của sách giáo khoa. Học sinh trong
lớp đều chăm, có ý thức học bài cũ và chuẩn bị bài mới trước khi đến
lớp. Song giáo viên và học sinh cũng gặp không ít khó khăn. Với lượng
kiến thức truyền thụ cho học sinh nhiều nhưng bài giảng thì đơn điệu,
chỉ là phần bài học được đóng khung và một vài tranh minh hoạ mà
thời gian tiết dạy dài bốn mươi phút. Học sinh ngồi học rất trầm, ít phát
biểu, chủ yếu phụ thuộc vào giáo viên và chỉ biết quan sát tranh xem
đẹp hay xấu mà chưa hiểu sâu nội dung bức tranh. Để từng bước nâng
cao chất lượng dạy và để đáp ứng đổi mới phương pháp dạy môn
TNXH chuyển hướng mạnh mẽ từ cách dạy học truyền đạt thông tin
của giáo viên sang dạy học coi trọng hoạt động học tập của học sinh là
chủ thể trong hoạt động học không thể thiếu đồ dùng học tập. Phương
pháp khai thác đồ dùng dạy học trong các bài học là phương pháp rất
quan trọng vì đồ dùng dạy học chứa đựng các thông tin cần học, kích
thích hứng thú học tập, phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của
học sinh khi được sử dụng trực tiếp hoặc quan sát các đồ dùng đó. Qua
các đồ dùng học tập giúp học sinh hiểu kĩ thêm và nhớ lâu bài, hứng
thú và yêu thích môn học TNXH. Theo tôi việc sử dụng đồ dùng học


tập có hệ thống trong nội dung các bài TNXH là rất cần thiết.
II- Cơ sở lí luận và thực tiễn để giải quyết đề tài:
Môn TNXH lớp 2 hình thành và phát triển ở học sinh những thái
độ và thói quen ham hiểu biết khoa học và vận dụng các kiến thức đã
học vào thực tế cuộc sống hàng ngày. Các em biết yêu thiên nhiên, con
người, đất nước và cái đẹp, có ý thức và hành động bảo vệ chúng. Các
em biết sử sự đúng với bản thân, gia đình và sống hoà hợp với môi
trường và cộng đồng. Qua thực tế giảng dạy môn TNXH từ các năm
học trước tôi thấy giáo viên giảng dạy bằng phương pháp hỏi đáp và
tranh ảnh thì học sinh hiểu bài song giờ học còn trầm và không gây
hứng thú học tập cho học sinh. Sau mỗi chương, khi bài ôn tập thì
những kiến thức đã học các em quên rất nhiều. Năm học 2000-2001, tôi
lại tiếp tục chủ nhiệm lớp 2. Khi nhận lớp tôi thấy các em đều ngoan và
chăm học nhưng trong giờ học thì không khí học tập không sôi nổi và
chủ yếu các em chờ vào giáo viên giảng bài. Để phù hợp với đặc điểm
tâm sinh lí học sinh lớp 2 do tư duy còn thiên về cụ thể mà các em vẫn
yêu thích và học tốt môn TNXH, tôi đã suy nghĩ và quyết định kết hợp
nhiều phương pháp giảng dạy phù hợp với từng bài và đặc biệt sử dụng
tốt đồ dùng dạy học để không khí lớp học thoải mái, vui vẻ và kích
thích hứng thú học tập của các em. Sau đây là một số biện pháp tôi
thường áp dụng khi dạy môn TNXH:
III- Quá trình triển khai thực hiện đề tài:
1-Sau khi tôi nghiên cứu kĩ nội dung các bài học trong chương
trình TNXH lớp 2 và để giúp tôi chuẩn bị và dạy tốt từng bài, tôi đã
chia nhóm các bài dạy theo từng phương pháp khác nhau:
a-Các bài sử dụng phương pháp dùng tranh và học sinh hoạt động
theo nhóm:
Bài 1: Gia đình
Bài 3: Những công việc nhà
Bài 4: Hoạt động nội khoá

Bài 5: Trật tự kỉ kuật ở trường
Bài 6: Phong cảnh, nghề nghiệp
Bài 8: Giao thông đường thuỷ và đường không
Bài 13: Cây chè, cây đay
Bài 15: Cây hồ tiêu
Bài 20: ếch, rắn
Bài 22: Hoạt động vận động
Bài 23: Xương
Bài 24: Khớp xương
Bài 25: cơ
Bài 29: Mặt trăng và các sao
b-Các bài sử dụng vật và trò chơi:
Bài 2: Bảo quản và sử dụng đồ dùng trong nhà
Bài 7: Giao thông đường bộ và đường sắt
Bài 11: Cây lúa, cây ngô
Bài 12: Cây đậu tương
Bài 14: Cây quít, cây mít
Bài 16: Cây bạc hà, cây ngải cứu
Bài 19: Châu chấu, ốc sên
c-Các bài sử dụng phiếu học tập, trò chơi là các bài ôn tập chương:
Bài 17: Ôn tập gia đình-trường học, quận (huyện)
Bài 21: Ôn tập động vật
Bài 26: Ôn tập hệ động vật
Bài 30: Ôn tập bầu trời, ban ngày, ban đêm
Bài 31: Mặt trời
d-Các bài sử dụng tranh, quan sát thiên nhiên và trò chơi:
Bài 27: Mặt trời
Bài 28: tìm phương hướng bằng mặt trời
2-Tranh ảnh với màu sắc đẹp, hấp dẫn sẽ thu hút sự tập trung chú ý
của các em, kích thích hứng thú học tập, tăng năng lực quan sát trong

học sinh, tạo cho các em có ấn tượng tốt với nội dung bài học đó. Giáo
viên phải chuẩn bị tranh ảnh chụp, vẽ phóng to và khi đưa ra cho các
em quan sát, tìm hiểu bài phải để một vị trí cố định mà tất cả học sinh
đều nhìn rõ. Giáo viên phải hướng dẫn cụ thể, tỉ mỉ cho học sinh quan
sát tranh ảnh. Trong khi hướng dẫn học sinh quan sát, giáo viên đưa ra
những câu hỏi để giúp các em quan sát và khái thác đúng hướng phù
hợp với nội dung bài. Sau khi quan sát tranh và các câu hỏi giáo viên
đặt ra, các em thảo luận và ghi ý kiến nhận xét. Cho học sinh phát biểu
ý kiến của các nhóm sau đó cho các nhóm khác nhận xét. Giáo viên
tổng kết lại và bổ sung ý kiến cho hoàn chỉnh. Cuối cùng giáo viên chia
nhóm xếp tranh ảnh sưu tầm của học sinh theo từng loại cho học sinh
quan sát rồi trả lời câu hỏi của giáo viên để củng cố bài giúp học sinh
hiểu và nhớ bài lâu.
Ví dụ: Khi dạy bài: Trật tự kỉ luật ở trường
Chuẩn bị: Giáo viên có tranh ảnh phóng to ghi lại các hoạt động
trong trường để học sinh quan sát.
Học sinh học thộc nội quy và sưu tầm tranh, ảnh về học sinh có
tính kỉ luật, không kỉ luật, các trò chơi.
a-Để rèn nếp sống đúng giờ giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát
tranh. Đi học đúng giờ và nêu câu hỏi, khi nào cần phải đúng giờ? Vì
sao? Sau đó cho các em thảo luận nhóm và nêu ý kiến của mình và các
bạn nhận xét, giáo viên kết luận. Đi học đúng giờ, tan học về nhà ngay
giờ nào việc đó. Đó là chúng ta đã thực hiện nếp sống đúng giờ và chấp
hành nội quy nhà trường,cho nhiều học sinh nhắc lại để nhớ kiến thức.
b-Để rèn luyện ý thức kỉ luật trật tự, giáo viên cho học sinh quan
sát tranh xếp hàng ra vào lớp, lên xuống cầu thang, tích cực học tập
trong giờ học và tranh học sinh vui đùa lúc ra chơi. Sau đó giáo viên
nêu câu hỏi cho học sinh thảo luận: Hình ảnh nào cho thấy tính kỉ luật
trật tự của các bạn học sinh? Khi ra chơi các em nên làm gì? Cho học
sinh ý kiến của nhóm nhận xét, giáo viên rút ra kết luận đúng. Với

phương pháp vừa quan sát tranh và học sinh thảo luận nhóm giúp cá em
hiểu bài sâu, nhớ lâu mà thoải mái trong giờ học. Để giúp các em thực
hiện đúng nội quy và phân biệt được hành vi nào đúng, chưa đúng, giáo
viên chia lớp theo nhóm để xếp tranh (sưu tầm) theo hai nội dung: Có
kỉ luật và không kỉ luật để học sinh liên hệ được mình cần phải làm gì
khi đến trường và tôi thấy sau tiêté học đó các em thực hành rất tốt.
Nhiều em đi học muộn đã có ý thức đi học đúng giờ. Giờ ra chơi các
em chơi nhiều trò chơi nhẹ nhàng và bổ ích hơn. Chăm chú học tập hơn
và xếp hàng nhanh, trật tự khi vào lớp.
3- Đối với học sinh lớp 2 việc quan sát trực tếp vật thật làm cho
các em thích thú hơn là quan sát gián tiếp tranh ảnh. Đây là cách học
tốt nhất vì khi được quan sát trực tiếp vật thật bằng mắt thấy, tay sờ,
mũi ngửi thì bài học đó sẽ in dấu ấn sâu đậm trong tâm trí các em. Các
em có thể nhận biết được vật đó ở nơi khác qua các đặc điểm mà các
em đã học.
Ví dụ: Khi dạy bài 16:Cây bạc àh và cây ngải cứu
Giáo viên và học sinh đều sưu tầm cây để quan sát. Khi dạy, giáo
viên chia nhóm cho học sinh quan sát cùng với câu hỏi giáo viên đưa ra
như: Cây bạc hà và cây ngải cứu có những bộ phận nào? Tìm những
đặc điểm của thân, lá màu sắc, mùi vị có gì đặc biệt? Sau đó các em
cùng nhau quan sát từng bộ phận, ghi lại các nhận xét. Giáo viên cho
học sinh nêu ý kiến, nhận xét é giáo viên kết luận đúng cho học sinh
nắm vững. Để củng cố phần đặc điểm của cây bạc hà và cây ngải cứu,
giáo viên đưa ra một số cây khác như cây cải cúc, cây hương nhu, và
cây húng thơm Cho học sinh tìm đúng cây và nêu ý kiến vì sao các
cây còn lại không phải là cây bạc hà và cây ngải cứu. Sau đó giáo viên
hướng dẫn cho học sinh biết cách phân biệt để tìm cây đúng trong vườn
hoặc ở nơi khác. Bài này giáo viên có thể làm đồ dung bằng bìa vẽ hình
ảnh từng bộ phận của cây như lá, rễ, thân, hoa để cho các em trò chơi
ghép cây bạc hà và cây ngải cứu mà không nhầm lẫn. Từ đó củng cố

cho các em đặc điểm riêng của hai cây này.
4-Phiếu học tập là một loại đồ dùng dạy học đặc biệt được sử dụng
rộng rãi trong đổi mới phương pháp dạy học ở tiểu học. Phiếu học tập
hỗ trợ cho việc học tập của học sinh và giúp giáo viên nhận được thông
tin ngựơc từ học sinh. Làm việc với phiếu học tập giúp học sinh nâng
cao về kả năng tư duy, óc sáng tạo, rèn cho học sinh thói quen làm việc
độc lập. Nên đối với các bài ôn tập chương rất cần đến việc sử dụng
phiếu học tập. Qua các câu hỏi cần trả lời và đánh giá đúng sai để từng
bước giúp các em nhớ lại và khắc sâu kiến thức đã học.
Ví dụ: Khi dạy bài 26: Ôn tập hệ vận động
Giáo viên chuẩn bị phiếu học tập để các em học sinh làm bài, qua
giờ học giúp các em hệ thống lại những kiến thức đã học về hệ vận
động, các cơ quan của hệ vận động, tính chất, hoạt động và vai trò của
hệ vận động. Các em chỉ được trên cơ thể người các bộ phận của hệ
vận động, có ý thức bảo vệ, rèn luyện hệ vận động.
Các năm trước, tôi dạy bài này chỉ dùng phiếu học tập thì giờ học
trầm và các em nhớ bài rất chậm. Năm nay, ngoài việc học bằng phiếu
học tập, tôio chon các em lấy ví dụ về các trò chơi và đòi hỏi sự vận
động nhanh nhẹn: mèo đuổi chuột, chạy đổi chỗ, nhanh lên bạn ơi,
cho học sinh chơi các trò chơi trên. Sau đó hỏi học sinh trả lời câu
hỏi: Khi chơi các em đã sử dụng những bộ phận nào? thuộc hệ nào?
é giáo viên nhận xét.
Nếu một bộ phận trong hệ vận động phát triển kém, cơ thể sẽ ra
sao?
- Muốn cơ thể khoẻ mạnh, phát triển cân đối cần phải làm
gì? écho nhiều học sinh phát biểu - giáo viên chốt ý chính để học sinh
nhớ kĩ bài ôn tập. Sau giờ ôn tập tôi thấy các em hiểu bài hơn, thoải
mái vui vẻ mà không gò bó trong giờ học và trò chơi cũng góp phần
không nhỏ vào kết quả giờ học.
5-Ngoài việc quan sát tranh ảnh, vật thật hoặc phiếu học tập được

sử dụng trong các tiết dạy mà giáo viên nên cho các em kết hợp quan
sát thiên nhiên và cuộc sống xung quanh giúp các em học tập tốt và
thích thú với môn học.
Ví dụ: Khi dạy bài 27: Mặt trời
Với bài dạy năm ngoái dạy bằng tranh ở trên lớp tôi thấy các em
hiểu bài không sâu. Các em nhận xét về màu nắng và màu sắc của mặt
trời không chính xác. Năm nay tôi cải tiến cách dạy, tôi nghĩ các em ra
học ngoài trời và tôi đã làm như sau:
Giáo viên ra câu hỏi cho học sinh suy nghĩ và trả lời kết hợp cho
học sinh quan sát thiên nhiên.
- Hàng ngày em nhìn thấy mặt trời vào lúc nào, ở đâu?
- ánh sáng mặt trời và cảnh vật xung quanh như thế nào?
- So sánh cảnh vật khi có mặt trời và cảnh vật vào buổi tối.
Mặt trời hình gì? cho học sinh so sánh với hình ảnh cụ thể. Vậy
ánh sáng mặt trời có tác dụng gì? cho học sinh quan sát mặt trời é rút ra
nhận xét - Tại sao lúc nắng to không được nhìn trực tiếp vào mặt
trời é nhận xét. cho học sinh quan sát mặt trời qua chậu nước.
- Cho vài học sinh nhận xét khi đi ra ngoài nắng. Nếu đi ngoài
nắng phải làm gì để tránh nắng. Quần áo phơi ngoài nắng thì như thế
nào?
Cuối tiết, tôi thấy học sinh được quan sát thực tế sẽ thay đổi không
khí, trạng thái của tiết học, các em sẽ vui vẻ thoải mái, chủ động tiếp
thu kiến thức và nhớ bài lâu hơn so với cách dạy bằng tranh năm ngoái.
IV- Đánh giá kết quả thực hiện:
Trên đây là những biện pháp tôi đã thực hiện để sử dụng đồ dùng
học tập theo nội dung từng bài daỵ TNXH lớp 2. Kết quả cho thấy sau
mỗi giờ học các em hiểu báiâu và nhớ lâu hơn. Các em cảm thấy giờ
học vui vẻ, thoải mái và rất sôi nổi, hăng hái phát biểu ý kiến xây dựng
bài không còn không khí trầm lặng như đầu năm học. Đặc biệt nhiều
em trong lớp thấy hứng thú, say mê yêu thích môn học này. Chính vì

yêu thích môn học đó giúp các em chăm học hơn nhiều, tự tìm tòi sáng
tạo và chủ động trong giờ học.
Cuối kì I, cả lớp chiếm 90% học sinh đạt điểm giỏi môn TNXH và
không có học sinh trung bình. Và tôi tin rằng với biện pháp tôi đã thực
hiện như đã nêu trên sẽ giúp các em đạt kết quả cao hơn trong dịp kết
thúcc năm học.
Trong quá trìng giảng dạy các bài TNXH lớp 2, tôi thấy giáo viên
có những phương pháp sử dụng đồ dùng dạy học thành hệ thống, đảm
bảo tính khoa học và sư phạm. NgoàI ra giáo viên cần kết hợp nhiều
phương pháp giảng dạy để phù hợp với nội dung từng bài sẽ tăng hiệu
quả giờ học, cũng như kích thích hứng thú học tập, phát huy tính tích
cực chủ động sáng tạo của học sinh, và chính là góp phần vào đổi mới
phương pháp dạy môn TNXH lớp 2 nói riêng và cấp tiểu học nói
chung.

×