Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

SKKN Vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào bài giảng lịch sử phần Các cuộc cách mạng tư sản thời cận đại (SGK lịch sử 10 - Ban cơ bản)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.75 KB, 14 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

ĐỀ TÀI:
"VẬN DỤNG CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VÀ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ
MINH VÀO BÀI GIẢNG LỊCH SỬ PHẦN: CÁC CUỘC CÁCH
MẠNG TƯ SẢN THỜI CẬN ĐẠI (SGK LỊCH SỬ 10 - BAN CƠ
BẢN)"

1


PHẦN I/ ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
Tại Đại hội Đảng toàn quốc của Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VII khẳng định
“phải kiên trì vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh” và
nêu rõ “Cái mới là cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng nêu cao tư tưởng Hồ Chí
Minh. Điều đó là tự nhiên, bởi tư tưởng Hồ Chí Minh chính là kết quả sự vận dụng sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện cụ thể của nước ta”.
Việc vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào bài giảng lịch
sử không phải là cái mới nhưng sẽ là thiếu sót nếu trong q trình giảng dạy chúng ta xa
rời những nguyên tắc đúng đắn của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Bởi
nếu như trước đây chức năng cơ bản của dạy học là cung cấp kiến thức, mục đích cơ bản
của học tập là “học để hiểu biết” thì giờ đây chức năng này có sự thay đổi, dạy học khơng
chỉ là cung cấp kiến thức mà quan trọng hơn cả là còn đáp ứng cả chức năng về mặt giáo
dục, bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, đạo đức, góp phần đóng góp quan trọng vào việc xây
dựng con người mới, phục vụ đất nước, phục vụ xã hội. Sử học có ưu thế trong việc tác
động đến tâm tư, tình cảm của học sinh, hình thành phẩm chất đạo đức, chính trị cho học
sinh thông qua các biểu tượng lịch sử. Và thông qua các bài giảng lịch sử giúp các em sẽ
tin vào chủ nghĩa cộng sản, có tinh thần quốc tế vơ sản chân chính, có lý tưởng cách
mạng cao đẹp, từ đó giúp cho học sinh có thái độ và hành động đúng đắn trong cuộc sống
hiện tại. Đồng thời qua đó, giúp học sinh hiểu được con đường mà dân tộc mình đang đi.


Đó là cơng việc mang tính khoa học.
Và thực tế cho thấy rằng, việc vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh vào việc giảng dạy lịch sử không chỉ cung cấp cho các bài giảng lịch sử những
quan điểm khoa học mà còn cung cấp rất nhiều tư liệu lịch sử q giá cho mỗi bài giảng.
Đó là nguồn minh chứng mang tính khoa học và cách mạng, phục vụ đắc lực cho mỗi bài
dạy lịch sử, góp phần làm cho bài giảng chặt chẽ, sinh động và đạt hiệu quả cao hơn.
Từ thực tiễn trên, để góp phần nâng cao chất lượng dạy học lịch sử ở trường phổ
thông, tôi chọn “Vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào bài
giảng lịch sử phần: Các cuộc cách mạng tư sản thời cận đại (SGK lịch sử 10 - Ban cơ
bản)” làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
a. Đối với giáo viên

2


Vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào bài giảng lịch sử
giúp cho giáo viên có một quan điểm biện chứng khi nhìn nhận, đánh giá một sự vật, hiện
tượng lịch sử, chống lại những khuynh hướng sai lầm đi ngược với quan điểm của Đảng
và Nhà nước.
b. Đối với học sinh
Vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào bài giảng lịch sử
không chỉ giúp các em nắm vững được bản chất vấn đề mà cịn góp phần hình thành thế
giới quan cho học sinh, giúp các em tin tưởng vào tính đúng đắn của chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ đó, có thái độ và hành động đúng đắn trong cuộc
sống hiện tại.
PHẦN II/ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lí luận
Trong việc giảng dạy môn lịch sử ở nhà trường THPT, một yêu cầu tổng quát đặt ra cho
mỗi giáo viên là truyền thụ chính xác, đầy đủ các tri thức khoa học về chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh tới đối tượng học sinh cịn ít tuổi, vốn sống thực tiễn
nghèo nàn, khả năng tư duy khái quát chưa cao.

Và một bài giảng được coi là thành cơng nếu nó làm được hai nhiệm vụ sau: Thứ nhất,
khôi phục lại bức tranh lịch sử. Mà một trong những biện pháp chủ yếu để có thể khơi
phục bức tranh lịch sử là tạo biểu tượng lịch sử. Và trong các tác phẩm của Mác,
Ăngghen, Lênin, Hồ Chí Minh có rất nhiều biểu tượng lịch sử. Chức năng thứ hai của bài
giảng lịch sử là làm sáng tỏ bản chất lịch sử. Có nghĩa là có cái nhìn đúng, đánh giá đúng
sự kiện, nhân vật lịch sử, bài học lịch sử. Đó là cơng việc mang tính khoa học.
Chính vì vậy, việc vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào bài
giảng lịch sử ở nhà trường THPT là một luận điểm có tính chỉ đạo tồn bộ hoạt động dạy
của người giáo viên và hoạt động học của người học sinh.
2. Cơ sở thực tiễn
* Về phía giáo viên:
Thứ nhất: Xuất phát từ thực tế, bản thân tôi là một giáo viên THPT dạy môn Lịch sử luôn
trăn trở về đổi mới phương pháp giảng dạy của mình, về đối tượng giảng dạy của mình
để làm sao đó mỗi giờ giảng dạy phải đạt kết quả cao nhất.
Thứ hai: Xuất phát từ đặc trưng của bộ môn Lịch sử với việc truyền thụ kiến thức phải
mang tính Đảng - tính khoa học, cho nên trong mỗi bài giảng lịch sử, giáo viên phải chú

3


trọng đến tính khoa học, tính cơ bản của nội dung bài học gắn với tính vừa sức đối với
việc lĩnh hội của học sinh.
* Về phía học sinh:
Qua thực tế giảng dạy của bản thân, tôi nhận thấy một thực trạng đó là:
- Khả năng đánh giá sự kiện chưa tốt, chưa hiểu biết bản chất của một sự kiện, một
vấn đề lịch sử nên làm cho kết quả kiểm tra không cao
- Trong tư tưởng của một số học sinh phân biệt mơn chính mơn phụ, ít dành thời
gian cho việc học môn lịch sử, học chỉ mang tính chất đối phó, học vẹt chứ chưa có ý
thức tìm hiểu để có cái nhìn sâu sắc và tồn diện về lịch sử.
Trong quá trình giảng dạy, kết hợp với việc nghiên cứu đặc điểm tình hình học tập

bộ môn của học sinh, vừa tiến hành rút kinh nghiệm qua mỗi tiết dạy,tôi đã tiến hành điều
tra chất lượng học của học sinh qua bài kiểm tra một tiết, thông qua hệ thống câu hỏi phát
triển tư duy học sinh ở trên lớp. Kết quả điều tra tôi nhận thấy đa số học sinh chỉ trả lời
được những câu hỏi mang tính chất trình bày, cịn những câu hỏi giải thích tại sao, so
sánh, nhận xét, đánh giá thì các em cịn rất lúng túng khi trình bày, thậm chí có những
đánh giá sai lệch. Kết quả được thể hiện ở việc điều tra 2 lớp 10G, 10E như sau:
Lớp

Số
Giỏi
lượng
học sinh
SL %

Khá

Trung
bình

Yếu

SL

10G

50

3

6


10E

50

5

10

Kém

%

SL

%

SL % SL

%

17

34

25

50

5


10 0

0

22

44

20

40

3

6

0

0

Thực trạng trên là một vấn đề cần phải suy nghĩ của chính người dạy và người học. Cần
phải có biện pháp cấp thiết nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn lịch sử.
3. Nguyên tắc và phương pháp vận dụng quan điểm Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh vào bài giảng lịch sử
a. Nguyên tắc cơ bản trong việc vận dụng quan điểm Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh vào bài giảng lịch sử
4



Thứ nhất: Khi vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào bài giảng
lịch sử, cần phải nhận thức rằng: học thuyết Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh khơng
đối lập mà là hịa hợp, gắn bó với cộng đồng thế giới. Học thuyết đã làm giàu hơn nhận
thức của loài người, làm phong phú hơn những di sản văn hóa của nhân loại. Không phải
là đối lập với các bộ phận khác nhau của lồi người mà chính là máu thịt của nhân loại đó là bản chất của học thuyết Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Thứ hai: phải trung thực với chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Điều đó
địi hỏi người giáo viên lịch sử phải là một chiến sĩ trên mặt trận văn hóa - tư tưởng.
Trung thực ở đây khơng phải là trung thực trên từng câu chữ mà là trong thực chất hành
động cách mạng và khoa học vốn là hai mặt đặc tính căn bản kết hợp làm một trong bản
thân của chủ nghĩa Mác - Lênin và tưởng Hồ Chí Minh.
Trung thực với chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh địi hỏi người giáo viên
lịch sử phải công khai giữ vững lập trường của giai cấp cơng nhân, của Đảng. Lênin có
nói rằng “Chủ nghĩa duy vật bắt buộc chúng ta mỗi khi đánh giá một sự kiện phải cơng
khai dứt khốt đứng về một tập đoàn xã hội nhất định” (quan điểm giai cấp). Trung thực
với chủ nghĩa Mác - Lênin và tưởng Hồ Chí Minh là yêu cầu quan trọng bậc nhất đối với
người giáo viên Lịch sử. Nó địi hỏi người giáo viên phải khơng ngừng học tập nâng cao
trình độ hiểu biết một cách thấu đáo về chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
đồng thời phải khơng ngừng rèn luyện bồi dưỡng lịng nhiệt tình cách mạng.
Thứ ba: Như chúng ta đã biết, việc giảng dạy mơn Lịch sử là một khoa học. Do đó, việc
xây dựng tư tưởng chính trị và phẩm chất đạo đức cách mạng cho học sinh khơng phải là
cái gì khác mà chính là ở ngay trong việc truyền thụ tri thức qua các bài học lịch sử.
Trong bài dạy lịch sử, việc trích dẫn ý kiến của Mác, Ăngghen, Lênin, Hồ Chí Minh là
cần thiết. Tuy nhiên, trích dẫn như thế nào cần được cân nhắc, lựa chọn, chú ý đến thái
độ, tâm lí của học sinh. Việc trích dẫn đó phải sát với mục đích bài giảng giúp cho học
sinh hiểu rõ bản chất lịch sử.
b. Phương pháp vận dụng
* Trong bài 29: Cách mạng Hà Lan và cách mạng tư sản Anh (SGK lịch sử lớp 10 Ban cơ bản)
Về chế độ quân chủ lập hiến ở Anh sau cuộc chính biến tháng 12/1688
Ở mục 2. Cách mạng tư sản Anh (SGK lịch sử 10 - Ban cơ bản), khi nói về diễn
biến của cuộc cách mạng tư sản Anh đến sự kiện năm 1658, nước Anh lâm vào tình trạng

khơng ổn định về chính trị, dẫn đến sự thỏa hiệp giữa Quốc hội với lực lượng phong kiến
cũ. SGK viết: “Sau khi Crôm Oen qua đời (1658), nước Anh lâm vào tình trạng khơng ổn
5


định về chính trị, dẫn đến sự thỏa hiệp giữa Quốc hội với lực lượng phong kiến cũ.
Tháng 12/1688, Quốc hội tiến hành chính biến, đưa Vin Hem Ơ-Ran-Giơ (rể Vua Anh,
Quốc trưởng Hà Lan) lên ngôi vua thiết lập chế độ quân chủ lập hiến”.
Về sự kiện này, trong cuốn Tư bản, Quyển 1, tập 3, trang 233, Mác viết: “Cuộc
cách mạng vẻ vang đã đưa Guy-Ơm III, ơng hồng xứ Ơ-Ran-Giơ lên địa vị thống trị và
cùng với ông, những bọn người làm tiền, địa chủ quí tộc và những nhà tư bản khơng q
tộc”.
Như vậy, trong q trình dạy, khi nói đến cuộc chính biến tháng 12/1688, giáo viên
trích dẫn nhận định trên của Mác sẽ giúp học sinh hiểu rõ:
- Về mặt kiến thức: sau sự kiện tháng 12/1688, thống trị nước Anh khơng chỉ có
Vin Hem Ơ-Ran-Giơ mà cịn có cả địa chủ q tộc và những nhà tư bản khơng q tộc.
Do đó, mặc dù có Vua nhưng khơng phải là chế độ qn chủ mà là “Quân chủ lập hiến”
(nền quân chủ của một nước do vua đứng đầu nhưng vua chỉ mang tính chất tượng trưng,
cịn quyền lực tập trung trong tay Nghị viện). Việc trích dẫn nhận định này của Mác sẽ
giúp học sinh hiểu rõ hơn về bản chất của nền quân chủ lập hiến ở Anh sau cuộc chính
biến 12/1688.
- Về mặt thái độ: từ việc hiểu rõ được bản chất của chế độ quân chủ lập hiến ở
Anh, giáo viên giúp cho học sinh nắm được sự khác nhau giữa các chế độ chính trị, từ đó
hiểu được con đường mà dân tộc mình đang đi. Từ đó các em sẽ tin vào chủ nghĩa cộng
sản, có tinh thần quốc tế vơ sản chân chính, có lý tưởng cách mạng cao đẹp, từ đó giúp
cho học sinh có thái độ và hành động đúng đắn trong cuộc sống hiện tại.
 Về giai cấp lãnh đạo cách mạng tư sản Anh
Ở mục 2. Cách mạng tư sản Anh (SGK lịch sử 10 - Ban cơ bản), khi nói về kết quả và
tính chất của cuộc cách mạng tư sản Anh, SGK viết: “Lãnh đạo cách mạng tư sản Anh là
do quí tộc mới liên minh với giai cấp tư sản, nên nhiều tàn dư của chế độ phong kiến

không bị xóa bỏ. Cách mạng chỉ đáp ứng quyền lợi cho giai cấp tư sản và q tộc mới,
cịn nhân dân khơng được hưởng gì mà cịn tiếp tục bị chiếm ruộng đất”.
Như vậy, có nghĩa là SGK giải thích tính chất khơng triệt để của cách mạng tư sản Anh là
do “Lãnh đạo cách mạng là do quí tộc mới liên minh với giai cấp tư sản”.
Mác và Ăng-ghen trong Tuyển tập, Matxcơva, 1948, Tập 1, trang 41 đã viết về sự liên
minh này như sau: “Trong cuộc cách mạng tư sản Anh, giai cấp tư sản liên minh với tầng
lớp quí tộc mới đã đấu tranh chống chế độ quân chủ, chống quí tộc phong kiến và chống
giáo hội thống trị”.

6


Như vậy, trong q trình dạy, khi nói về kết quả và tính chất của cuộc cách mạng tư sản
Anh, giáo viên trích dẫn ý kiến này của Mác và Ăngghen sẽ giúp học sinh nhận thức
được rằng:
- Về mặt kiến thức: khi nêu ra giai cấp lãnh đạo cuộc cách mạng tư sản Anh là liên minh
giữa quí tộc mới với giai cấp tư sản không phải chỉ để giải thích tính chất khơng triệt để
của cách mạng mà còn nêu lên được vai trò lãnh đạo của giai cấp tư sản và quí tộc mới,
để giải thích sự thắng lợi của cách mạng tư sản Anh (tức là nếu khơng có liên minh trên
thì cách mạng khơng thể giành thắng lợi).
- Về mặt thái độ: giúp học sinh có những nhận thức đúng đắn về vai trị của giai cấp lãnh
đạo trong một cuộc cách mạng. Từ đó, hình thành ở các em niềm tin vào đường lối lãnh
đạo của Đảng ta.
* Trong bài 30: Chiến tranh giành độc lập của các thuộc địa Anh ở Bắc Mĩ (SGK lịch
sử lớp 10 - Ban cơ bản)
Về Tuyên ngôn độc lập
Khi dạy mục 2. Diễn biến chiến tranh và sự thành lập Hợp chúng quốc Mĩ, nói về
sự ra đời của bản Tuyên ngôn độc lập, SGK viết: “Ngày 4/7/1776, Đại hội thông qua bản
Tuyên ngôn độc lập, tố cáo chế độ áp bức thuộc địa của thực dân Anh và chính thức
tun bố 13 thuộc địa thốt ly khỏi chính quốc, thành lập một quốc gia độc lập - Hợp

chúng quốc Mĩ”.
Trong bản Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ chí Minh đọc tại quảng trường Ba
Đình ngày 2/9/1945, Hồ Chủ Tịch nhắc lại lời bất hủ trong bản Tuyên ngôn độc lập của
nước Mĩ:
“Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng, tạo hóa cho họ những quyền
khơng ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do
và quyền mưu cầu hạnh phúc”.
Hồ Chí Minh cịn nhấn mạnh: “Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn độc lập
năm 1776 ở nước Mĩ. Câu ấy có nghĩa là: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra
bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do...”
Việc trích dẫn câu nói này của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào bài giảng, sẽ giúp học
sinh:
- Về mặt kiến thức: hiểu hơn về ý nghĩa trọng đại của bản Tuyên ngôn độc lập
năm 1776 của nước Mĩ. Khẳng định một lần nữa về các quyền tự do, dân chủ tư sản, lần
đầu tiên nhân quyền và quyền cơng dân được chính thức cơng bố trước tồn thể nhân
loại, nó được đề cao như một thách thức với sự thống trị của chế độ quân chủ chuyên chế
7


đang thống trị khắp châu Âu. Tuyên ngôn khẳng định chỉ có nhân dân mới có quyền thiết
lập chính quyền và hủy bỏ chính quyền khi nó đi ngược với lợi ích của quần chúng.
Tun ngơn là một văn kiện có tính chất dân chủ tự do, thấm nhuần tinh thần thời đại.
- Về mặt thái độ:
+ Học sinh nhận thức được các quyền của con người và quyền công dân - Đó là
quyền tự nhiên và tuyệt đối của con người.
+ Qua bản Tuyên ngôn cũng đã nêu lên được vai trò to lớn của quần chúng trong
cách mạng. Từ đó, giúp học sinh thấy được động lực đưa đến thắng lợi của cách mạng quần chúng nhân dân, họ là lực lượng hùng hậu của các cuộc cách mạng.
Về ý nghĩa của cuộc chiến tranh giành độc lập ở Bắc Mĩ
Khi dạy mục 3. Kết quả và ý nghĩa của cuộc chiến tranh giành độc lập, SGK viết:
“Chiến tranh giành độc lập của các thuộc địa đã giải phóng Bắc Mĩ khỏi sự thống trị của

thực dân Anh, thành lập một nhà nước mới, mở đường cho kinh tế tư bản chủ nghĩa ở Mĩ
phát triển”.
Đánh giá về ý nghĩa của chiến tranh giành độc lập của các thuộc địa Anh ở Bắc
Mĩ, trong cuốn Lênin, Toàn tập, tập 28, trang 44, Lênin gọi cuộc chiến tranh này là cuộc
chiến tranh của “nhân dân Mĩ chống bọn kẻ cướp Anh”. Lênin còn chỉ ra rằng: “Đây là
cuộc chiến tranh vĩ đại, thật sự giải phóng, thật sự cách mạng”.
Như vậy, trong bài giảng, giáo viên đưa các đánh giá trên của Lênin vào sẽ giúp
học sinh:
- Về mặt kiến thức: hiểu sâu sắc hơn ý nghĩa và tính chất của cuộc chiến tranh
này - Cuộc chiến tranh đầu tiên nêu lên yêu cầu giải phóng dân tộc và sau cuộc chiến, 13
thuộc địa Anh ở Bắc Mĩ đã giành được độc lập, thoát khỏi sự thống trị của thực dân Anh
và thành lập Hợp chúng Mĩ - quốc gia độc lập đầu tiên ở châu Mĩ.
- Về mặt thái độ: giúp học sinh thấy được ý nghĩa to lớn của nền độc lập dân tộc
bởi tất cả các quốc gia đều ra sức đấu tranh để bảo vệ nền độc lập ấy. Từ đó, giúp cho học
sinh có thái độ và hành động đúng đắn trong cuộc sống hiện tại.
* Trong bài 31: Cách mạng tư sản Pháp cuối thế kỉ XVIII
(SGK lịch sử lớp 10 - Ban cơ bản)
Về nguyên nhân thắng lợi của cách mạng tư sản Pháp
Khi nói về nguyên nhân thắng lợi của cuộc cách mạng tư sản Pháp, SGK có nêu
lên các biện pháp mà phái Gia-cô-banh thực hiện trong cách mạng như: giải quyết vấn đề
ruộng đất cho nông dân, ban bố rộng rãi các quyền tự do dân chủ, xóa bỏ sự bất bình
8


đẳng trong xã hội... Tất cả đã góp phần thủ tiêu chế độ phong kiến, tạo ra được tầng lớp
nông dân tự do tiểu tư hữu, cơ sở xã hội của chủ nghĩa tư bản. Đây chính là điểm mấu
chốt để phân biệt cách mạng tư sản Pháp với các cuộc cách mạng tư sản khác.
Mác nhận định: “Giai cấp tư sản Pháp năm 1789 không một lúc nào từ bỏ đồng
minh của nó - những người nơng dân. Nó biết rằng nền tảng của sự thống trị của nó là
sự thủ tiêu chế độ phong kiến ở nông thôn, là sự thành lập giai cấp nông dân tư hữu tự

do”.
Lênin chỉ ra rằng: “Việc dùng những biện pháp thực sự cách mạng để đánh đổ
chế độ phong kiến là chế độ đã hết thời, việc toàn quốc chấp nhận một cách mau chóng
với một tinh thần cương quyết và hi sinh thật sự dân chủ và cách mạng một phương thức
cao hơn, tiếp nhận nông dân được quyền sở hữu ruộng đất một cách tự do, đó là những
điều kiện vật chất, những điều kiện kinh tế đã cứu được nước Pháp một cách nhanh
chóng “thần kì” đồng thời đã cải tạo, đổi mới cơ sở kinh tế nước ấy”.
Trong tác phẩm Đường Kách mệnh, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết:
“Dân Pháp tuy lương thực ít, súng ống thiếu nhưng chỉ nhờ gan cách mạng mà
trong dẹp nội loạn, ngoài phá cường quyền”.
Những dẫn chứng trên được đưa vào trong bài giảng, sẽ giúp học sinh:
- Về mặt kiến thức: thấy rõ được nguyên nhân đưa đến thắng lợi của cuộc đại cách
mạng này. Đó là:
+ Giai cấp tư sản Pháp là lực lượng chính trị độc lập, có địa vị trong xã hội, thực sự
nắm quyền lãnh đạo (khơng có q tộc mới)
+ Vai trị của quần chúng nhân dân trong cách mạng
+ Được trang bị bởi một hệ tư tưởng tiên tiến
+ Nổ ra sau cách mạng tư sản Anh nên cách mạng Pháp tiếp thu được kinh nghiệm.
- Về mặt thái độ:
+ Học sinh thấy được vai trò to lớn của giai cấp lãnh đạo và quần chúng nhân dân
trong cách mạng, họ là lực lượng đưa cách mạng đi lên, là người sáng tạo ra lịch sử và
quyết định sự phát triển của lịch sử.
+ Các em biết trân trọng những quan điểm tiến bộ của Triết học Ánh sáng trong
cuộc tấn công vào thành trì của chế độ phong kiến, dọn đường cho cuộc cách mạng tư sản
Pháp bùng nổ.
Về tính chất và ý nghĩa của cách mạng tư sản Pháp 1789
9


Mục III SGK. Ý nghĩa của cách mạng tư sản Pháp cuối thế kỉ XVIII, theo phân

phối chương trình là phần đọc thêm, nhưng sau khi tìm hiểu xong mục II. Tiến trình của
cách mạng, giáo viên nói về ý nghĩa to lớn của cách mạng tư sản Pháp cho học sinh hiểu
hơn về cuộc Đại cách mạng này. Khi nói về ý nghĩa của cách mạng tư sản Pháp, SGK
viết: “Cách mạng tư sản Pháp cuối thế kỉ XVIII đã lật đổ chế độ phong kiến chuyên chế
từng thống trị nước Pháp trong nhiều thế kỉ, hoàn thành nhiệm vụ của một cuộc cách
mạng tư sản...”
Về vấn đề này, trong cuốn Mác - Ăngghen, tuyển tập, tập 1, trang 624, Mác viết:
“Nhát chổi khổng lồ của cuộc cách mạng tư sản Pháp thế kỉ XVIII đã quét sạch tất cả
các tàn tích của các thời đã qua”.
Lênin trong cuốn Lênin, Hà Nội, 1963, trang 55, nhận xét: “Cách mạng Pháp
xứng đáng là một cuộc đại cách mạng. Nó đã làm biết bao điều cho giai cấp của nó (tức
giai cấp tư sản) để đến trọn thế kỉ XIX, thế kỉ đem lại ánh sáng văn hóa, văn minh cho
nhân loại đều diễn ra dưới ảnh hưởng của cuộc cách mạng này”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thư gửi những người Pháp ở Đơng Dương có viết:
“Chúng tơi khơng gét khơng thù gì dân tộc Pháp, trái lại chúng tơi kính phục dân tộc ấy
đã là kẻ đầu tiên truyền bá tư tưởng rộng rãi vì tự do, bình đẳng, bác ái và đã cống hiến
rất nhiều cho văn hóa, khoa học và cho văn minh”. Chính vì vậy trong bản Tun ngơn
độc lập đọc tại quảng trường Ba Đình ngày 2/9/1945, Người đã nhắc lại những lời bất hủ
của Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp 1789: “Người ta sinh ra
được tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về
quyền lợi”.
Trong bài giảng, giáo viên đưa các trích dẫn trên vào sẽ góp phần tăng thêm hiệu
quả bài giảng, giúp học sinh:
- Về mặt kiến thức: hiểu hơn về cuộc Đại cách mạng tư sản Pháp - Một cuộc cách
mạng “long trời lở đất” được coi là điển hình nhất, triệt để nhất trong khn khổ các cuộc
cách mạng tư sản thời cận đại.
- Về mặt thái độ: giúp học sinh có cái nhìn khách quan hơn, không ắc cảm dân tộc
với dân tộc Pháp mà càng trở nên kính phục bởi khơng chỉ họ đã làm nên thắng lợi của
cuộc đại cách mạng này mà cịn vì “chính dân tộc ấy đã là kẻ đầu tiên truyền bá tư tưởng
rộng rãi vì tự do, bình đẳng, bác ái và đã cống hiến rất nhiều cho văn hóa, khoa học và

cho văn minh”.
* Trong bài 33: Hoàn thành cách mạng tư sản ở Châu Âu và Mĩ giữa thế kỉ
XIX (SGK lịch sử lớp 10 - Ban cơ bản)

10


 Về nguyên nhân quá trình thống nhất nước Đức
Khi dạy mục 1. Cuộc đấu tranh thống nhất nước Đức, nói về nguyên nhân của
cuộc đấu tranh thống nhất nước Đức, SGK viết: “Đến giữa thế kỉ XIX, kinh tế tư bản chủ
nghĩa ở Đức phát triển nhanh chóng; từ một nước nông nghiệp, Đức trở thành nước
công nghiệp”.
Ăngghen trong cuốn Cách mạng dân chủ tư sản Đức, NXB Khoa học, trang 16,
cho biết: “Trong vòng 20 năm ấy, nước Đức đã sản xuất nhiều hơn so với cái mà cả thế
kỉ của một thời đại khác mang lại”.
Và như vậy, thông qua dẫn chứng này, giúp học sinh thấy được rằng; chính sự
phát triển mạnh mẽ của sản xuất tư bản chủ nghĩa là nguyên nhân thúc đẩy quá trình
thống nhất nước Đức.
Về tính chất của sự nghiệp thống nhất nước Đức
Khi dạy mục 1. Cuộc đấu tranh thống nhất nước Đức, nói về tính chất của sự
nghiệp thống nhất nước Đức, SGK viết: “Việc thống nhất nước Đức mang tính chất là
một cuộc cách mạng tư sản. Do giai cấp quí tộc Phổ thực hiện “từ trên xuống” bằng con
đường chiến tranh”.
Mác trong cuốn Mác, Ăngghen, Tuyển tập, tập 2, trang 33 nhận xét: “Một nền
chuyên chính quân sự được tổ chức theo lối quan liêu, được bảo vệ bằng cảnh sát, được
trang sức bằng những hình thức nghị viện, với một mớ hỗn hợp những tạp chất phong
kiến và những ảnh hưởng của giai cấp tư sản”.
Nhận định này của Mác góp phần làm cho học sinh:
- Về mặt kiến thức: hiểu hơn nhận định trong SGK: “Nước Đức dần dần bị quân
phiệt hóa theo kiểu Phổ và trở thành trung tâm gây chiến ở châu Âu”.

- Về mặt thái độ: giúp học sinh nhận thức đúng đắn được vai trò của quần chúng
nhân dân trong cuộc đấu tranh cách mạng. Bởi nếu các cuộc chiến tranh được thực hiện
theo lợi ích của giai cấp lãnh đạo thì sẽ đi chệch với lợi ích của quần chúng, xa rời quần
chúng.
Về nguyên nhân của nội chiến Mĩ
Dạy mục 3. Nội chiến ở Mĩ, khi nói về nguyên nhân của nội chiến ở Mĩ, SGK
viết: “Mâu thuẫn giữa tư sản và trại chủ miền Bắc với các chủ nô ở miền Nam càng thêm
gay gắt...”
Mác trong cuốn Mác, Ăngghen, Toàn tập, tập 12, trang 251 viết rằng đây là “cuộc
đấu tranh giữa hai hệ thống xã hội - hệ thống lao động nô lệ và hệ thống lao động tự do”.
11


Nhận định này của Mác giúp học sinh thấy được rằng:
- Về mặt kiến thức: mâu thuẫn giữa tư sản và trại chủ miền Bắc với ruộng đất nằm
trong tay các trại chủ và nông dân tự do phát triển kinh tế công nghiệp tư bản chủ nghĩa
với các chủ nô ở miền Nam phát triển kinh tế đồn điền dựa trên sự bóc lột sức lao động
của nơ lệ đã trở thành cuộc đấu tranh giữa hai hệ thống đối lập nhau. Vì cả hai hệ thống
khơng thể cùng tồn tại song song được nên nội chiến đã diễn ra nhằm thanh tốn các lực
lượng bảo thủ, giải phóng nô lệ, mở đường cho kinh tế tư bản chủ nghĩa phát triển trong
cả nước. Chính vì vậy, cuộc nội chiến ở Mĩ đã thu hút đông đảo mọi tầng lớp nhân dân
tham gia. Không chỉ hạn chế trong những người nô lệ da đen mà đã lan sang cả những
người da trắng giàu có, chủ tư bản. Họ đấu tranh vì quyền sống của mình. Họ nhận thức
được rằng: Nước Mĩ nơi mà “ở đó lao động da đen bị sỉ nhục và đầy đọa, thì lao động da
trắng cũng khơng được giải phóng” (Mác - Tư bản - Quyển I, tập 1 - XNB Sự thật, 1959,
trang 406 - 407).
- Về mặt thái độ: giúp học sinh thấy rõ: “Mâu thuẫn giữa các mặt đối lập chính là
động lực của sự phát triển” - Đó là qui luật tất yếu của sự phát triển xã hội.
Về ý nghĩa của cuộc nội chiến ở Mĩ
Dạy mục 3. Nội chiến ở Mĩ, khi nói về ý nghĩa của cuộc nội chiến ở Mĩ, SGK viết

rằng: “Cuộc nội chiến 1861-1865 là cuộc cách mạng tư sản lần thứ hai ở Mĩ, kể từ sau
chiến tranh giành độc lập, tạo điều kiện cho chủ nghĩa tư bản ở khu vực này phát triển”.
Lênin trong cuốn Lênin, Toàn tập, tập 37, trang 58 viết: “Nội chiến ở Mĩ có ý
nghĩa tiến bộ, ý nghĩa cách mạng, ý nghĩa lịch sử thế giới lớn lao...”
Ý kiến này của Lênin được trích dẫn trong bài giảng sẽ giúp học sinh:
- Về mặt kiến thức: Hiểu hơn về ý nghĩa to lớn của cuộc nội chiến ở Mĩ. Đó là:
dựa vào lực lượng cách mạng của quần chúng (những chủ trại, dân tự do và người da
đen), giai cấp tư sản miền Bắc đã xóa bỏ chế độ nô lệ ở miền Nam, đông đảo những
người nô lệ da đen bao đời tủi nhục dưới ách áp bức của chủ nô cuối cùng đã được tự do,
hăm hở gia nhập quân đội Liên bang chiến đấu ngoan cường chống bọn chủ nô miền
Nam. Sau cách mạng, một số trở thành nông dân lĩnh canh, một số bổ sung vào kinh tế
công thương nghiệp miền Bắc tham gia phát triển kinh tế, tạo điều kiện cho kinh tế tư bản
chủ nghĩa ở Mĩ phát triển nhanh chóng. Và đến cuối thế kỉ XIX, Mĩ đã tiến hành cách
mạng cơng nghiệp, đưa Mĩ lên vị trí hàng đầu thế giới.
- Về mặt thái độ: Hình thành cho học sinh niềm tin tất thắng vào con đường cách
mạng do quần chúng nhân dân thực hiện.

12


4. Kết quả đạt được
Trước những địi hỏi của mơn học và thực tế của việc học lịch sử ở trường THPT,
là một giáo viên trẻ, tôi luôn trăn trở làm thế nào để việc dạy mơn lịch sử có hiệu quả
hơn. Năm học 2011 - 2012, được phân công giảng dạy lịch sử khối 10 - Ban cơ bản, tơi
đã tiến hành thí điểm phương pháp dạy học mới trong phần lịch sử: “Các cuộc cách mạng
tư sản thời cận đại” bằng việc vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
vào bài giảng lịch sử để giúp học sinh hiểu đúng bản chất của sự kiện, hiện tượng lịch sử,
từ đó có những đánh giá đúng đắn, không sai lệch bản chất vấn đề. Đồng thời qua đó,
hình thành thế giới quan tiến bộ cho học sinh.
Để kiểm tra hiệu quả của việc vận dụng những quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào bài giảng lịch sử, tôi đã tiến hành thực nghiệm ở lớp

10E và lớp 10G là lớp đối chứng.
Ở lớp 10G: khi dạy phần lịch sử “Các cuộc cách mạng tư sản thời cận đại”, khi nêu
ra những nhận định, kết luận trong SGK, tôi không đưa ra những ý kiến đánh giá, nhận
xét của Mác, Ăngghen, Lênin, Hồ Chí Minh để học sinh so sánh, đưa ra ý kiến của bản
thân về nhận thức vấn đề. Kết quả là học sinh không khắc sâu được kiến thức. Học sinh
chỉ nhớ máy móc mà không nắm được bản chất nên rất nhanh quên. Nhiều khi đánh giá
sai bản chất sự việc.
Ở lớp 10E thì ngược lại, khi dạy phần lịch sử “Các cuộc cách mạng tư sản thời cận
đại”, khi nêu ra những nhận định, kết luận trong SGK, tơi trích dẫn những ý kiến đánh
giá, nhận xét của Mác, Ăngghen, Lênin, Hồ Chí Minh để học sinh so sánh, đánh giá và có
cái nhìn sâu sắc hơn vấn đề. Đồng thời, trong quá trình dạy học, tơi thường xun đưa ra
những câu hỏi với nội dung nhằm khắc sâu bản chất. Tôi đã nhận thấy kết quả rất khả
quan. Đa số các em hiểu bài, nắm vững trọng tâm, biết vận dụng kiến thức, đánh giá đúng
bản chất sự vật. Từ đó, có cái nhìn đúng đắn về các sự kiện, hiện tượng lịch sử, hình
thành thế giới quan tiến bộ.
Học hết phần: “Các cuộc cách mạng tư sản thời cận đại”, tôi đã cho học sinh kiểm
tra một tiết để kiểm tra hiệu quả của việc vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh. Kết quả như sau:
Điểm
Lớp

Số học sinh

9-10

7-8

5-6

<5


13


SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

10G

50

4

8

15


30

26

52

5

10

10E

50

15

30

30

60

5

10

0

0


Thông qua các số liệu trên, ta nhận thấy sự khác biệt rõ ràng giữa lớp đối chứng và
lớp thực nghiệm về hiệu quả của việc vận dụng quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Với kết quả trên tơi rất vui khi thấy mình đã thành công với việc đổi mới phương
pháp dạy học và tơi sẽ cố gắng học hỏi, tìm tịi để cho việc dạy môn lịch sử ngày càng tốt
hơn.
PHẦN III/ KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Giảng dạy là cả một q trình địi hỏi rất nhiều từ sự cố gắng, nỗ lực phấn đấu của
giáo viên. Để giảng dạy đạt hiệu quả cao khơng chỉ là dạy đúng nội dung mà cịn cần
người giáo viên phải luôn bổ sung và làm mới phương pháp dạy. Giáo viên khơng ngừng
trau dồi, trao đổi, tìm tòi và học tập để làm giàu kinh nghiệm giảng dạy, mở mang kiến
thức và tiếp thu thành tựu của khoa học lịch sử. Giáo viên truyền đạt kiến thức cho các
em phải bằng tình thương, trách nhiệm và lịng yêu nghề. Chỉ có vậy, giáo viên mới trở
thành người đưa khoa học lịch sử tới cho các em. Để biết được tình hình học tập của học
sinh và phương pháp của mình có phù hợp hay khơng giáo viên phải thường xuyên tiến
hành kiểm tra nhận thức các em. Từ đó giáo viên kịp thời điều chỉnh, sửa chữa những
thiếu sót trong q trình giảng dạy. Đó là một số điều căn bản để một người giáo viên
lịch sử hồn thành tốt giáo dục bộ mơn trong nhà trường phổ thông và nâng cao hiệu quả
dạy học lịch sử.
Trong bài viết này, tôi đã đề cập đến việc vận dụng quan điểm, ý kiến của Mác,
Ăngghen, Lênin, Hồ Chí Minh khi giảng dạy lịch sử. Đây là nguồn minh chứng để bài
giảng chặt chẽ hơn. Tuy nhiên, hiệu quả sử dụng cịn phụ thuộc vào lý trí và tình cảm
của người dạy, phụ thuộc vào phương pháp vận dụng trong từng bài giảng.
Do hạn chế về thời gian, năng lực bản thân, đề tài khó tránh khỏi thiếu sót, rất
mong nhận được sự đóng góp ý kiến của bạn đọc và đồng nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

14




×