Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

SKKN Một số biện pháp rèn kĩ năng giải toán có lời văn ở lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.57 KB, 25 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI :
"MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG GIẢI TOÁN CÓ
LỜI VĂN Ở LỚP 4"
II. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Hồ Chủ Tịch người thầy vĩ đại của Đảng, của Cách mạng Việt Nam đã nói: “
Muốn có đạo đức Cách mạng thì phải có tri thức”.
Thật vậy, tri thức trong xã hội là chìa khóa vạn năng để mở tất cả các cửa của vũ
trụ, của loài người.
Muốn có tri thức thì phải học và phải học thật tốt. Việc học phải trải qua quá
trình nghiền ngẫm, suy luận, tìm tòi mới có được.
Một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của nhà trường hiện nay là hình
thành, phát triển trí tuệ cho học sinh. Những nghiên cứu gần đây Hồ Ngọc Đại, cho
thấy chỉ thực hiện nhiệm vụ đó bằng cách tổ chức hoạt động học tập ngay từ khi trẻ tới
trường tiểu học.
Các môn học nói chung, môn Toán nói riêng tùy theo đặc trưng bộ môn đều có
nhiệum vụ, thông qua việc trau dồi kiến thức, rèn luyện kĩ năng và góp phần tích cực
vào việc đào tạo con người. Quan điểm dạy Toán, dạy người cũng được Đảng ta nhiều
lần nhấn mạnh.
Trong thư gửi các bạn trẻ yêu Toán, đồng chí Phạm Văn Đồng đã nói về khả
năng giáo dục của môn Toán như sau: “ Trong các môn Khoa học và Kĩ thuật, Toán
học giữ một vai trò nổi bật. Nó có tác dụng lớn đối với các ngành khoa học khác, đối
với kĩ thuật, sản xuất và chiến đấu. Nó còn là môn thể thao trí tuệ giúp chúng ta nhiều
trong việc rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương pháp suy luận, học tập và giải
quyết vấn đề. Toán còn giúp cho ta rèn luyện đức tính quý báu như: cần cù, nhẫn nại,
tự lực cánh sinh, ý chí vượt khó, yêu thích chính xác, ham chuộng chân lí. Dù các bạn
phụ vụ ngành nào, công tác gì thì kiến thức và phương pháp Toán học cũng cần cho
các bạn”.
Môn Toán có một vị trí quan trọng như vậy cho nên chúng ta cần xây dựng một
nền tảng vững chắc ngay từ những lớp đầu cấp một cách rõ ràng, ngắn gọn và logic.
Thế nhưng trong thực tế ở những năm qua và cả năm học này tôi được phân công phụ


trách lớp 4/2 với 40 học sinh. Qua khảo sát chất lượng đầu năm tôi thấy chất lượng
giải toán của lớp mình phụ trách chưa đạt yêu cầu. Và đây cũng là điều làm tôi suy
nghĩ nhiều vì nếu các em giải toán còn yếu thì làm sao có thể tiếp thu được các bài
toán bằng cách dựa vào sơ đồ đoạn thẳng, dùng chữ thay số, rút về đơn vị đồng
thời nó còn ảnh hưởng đến các môn học khác như Tập làm văn, Luyện từ và câu
Chính vì thế tôi đã nghiên cứu và chọn đề tài:
MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN Ở LỚP 4
III. CƠ SỞ LÝ LUẬN:
Dạy Toán ở tiểu học nói chung, ở lớp 4 nói riêng nhằm giúp cho học sinh vận
dụng những kiến thức về toán vào các tình huống thực tiễn đa dạng, phong phú, những
vấn đề thường gặp trong cuộc sống.
Nhờ giải toán, học sinh có điều kiện phát triển năng lực tư duy, rèn luyện
phương pháp suy luận và những phẩm chất cần thiết của người lao động mới. Vì giải
toán là một hoạt động bao gồm những thao tác: xác lập mối quan hệ giữa các dữ liệu,
giữa cái đã cho với cái cần tìm, trên cơ sở đó chọn được phép tính tích hợp và trả lời
đúng câu hỏi của bài toán.
Để tiến hành thực hiện đổi mới phương pháp trong giảng dạy môn Toán lớp 4,
bản thân đã tích hợp nhiều yếu tố, phương pháp nhằm tìm ra một hướng đi tích hợp,
với mục đích mong muốn giúp các em nắm vững kĩ năng giải toán có lời văn ở lớp 4
thông qua các cơ sở sau:
- Dựa vào SGK Toán 4, SGV Toán 4, sách tham khảo giảng dạy, chương trình
bồi dưỡng thường xuyên chu kỳ III, sách bài tập toán 4,
IV. CƠ SỞ THỰC TIỄN:
Tình hình dạy học giải toán của giáo viên hiện nay đang được áp dụng phương
pháp nêu vấn đề để rồi học sinh tự tìm hướng giải quyết. Song học sinh lại lúng túng
với phương pháp này vì các em không biết tìm “ khóa” để mở bài toán ( đặc biệt toán
hợp ). Nếu giáo viên giảng giải nhiều sẽ bị coi là không đổi mới phương pháp và cũng
đồng thời không phát huy được tính tích cực trong học tập của học sinh. Bản thân học
sinh không biết cách trình bày bài giải thế nào hoặc không xác định được dạng toán
điển hình để có những bước tính phù hợp. Đó chính là những khó khăn khi dạy toán ở

tiểu học.
Vì vậy, kết hợp với khảo sát chất lượng tôi lại tiếp tục với những phương pháp
điều tra, tìm hiểu khác như:
+ Dành thời gian đầu năm ở tiết Ôn luyện Toán, kiểm tra lại kiến thức, kĩ năng
tính toán, nêu và giải quyết vấn đề, giải toán qua các phép tính, bài toán các em đã học
ở chương trình Lớp 3.
Qua những biện pháp tìm hiểu trên, tôi nhận thấy tình hình chất lượng giải toán
của lớp như sau:
- Biết nêu và giải quyết vấn đề, tóm tắt đề và giải toán: 10 em, tỉ lệ: 25%
- Giải toán theo quán tính ( cụ thể: nhiều hơn thì làm phép tính cộng, ít thì làm
phép tính trừ, ) 13 em, tỉ lệ: 32,5%.
- Kĩ năng tính toán sai, nhầm ( cộng, trừ có nhớ, nhân, chia, ): 10 em, tỉ lệ:
25%.
- Không biết giải toán, giải sai: 7 em, tỉ lệ: 17,5%
Với thống kê trên tôi nhận thấy tỉ lệ giải toán có lời văn yếu quá nhiều, không
đáp ứng được yêu cầu môn Toán. Tất nhiên hạn chế trên có nhiều nguyên nhân đem
đến nhưng phổ biến là:
+ Một số phụ huynh ít quan tâm đến việc học của con em và đa số không biết
được biện pháp kỹ năng hướng dẫn học Toán để giúp đỡ các em học ở nhà.
+ Phương pháp dạy học của chúng ta còn hạn chế, chưa lôi cuốn, phát huy tích
cực trong học sinh và thiếu các biện pháp tích cực để hỗ trợ.
+ Việc tiếp thu nội dung, kiến thức bài học của học sinh còn hạn chế, nhanh
quên.
+ Các bước giải toán có lời văn còn quá yếu.
+ Tư duy suy luận toán còn kém.
+ Không tự tin trong học tập, còn rụt rè.
+ Đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi các em thường vội vàng, hấp tấp, đơn giản hóa
vấn đề nên đôi khi chưa hiểu kĩ đề bài đã vội vàng nộp bài dẫn đến kết quả còn nhiều
khi bị sai thiếu.
Vậy làm thế nào để giúp học sinh giải toán nhanh và chính xác đồng thời tạo

được hiệu quả tốt trong giờ học ? Để đáp ứng yêu cầu trên, qua suy nghĩ tìm tòi, căn
cứ từ những nguyên nhân trên, tôi đã mạnh dạn đưa ra một số biện pháp rèn kĩ năng
giải toán có lời văn cho học sinh Lớp 4.
V. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU:
Với những nguyên nhân và lý do đã nêu trên. Bản thân tôi đã băn khoăn, trăn
trở tìm ra những biện pháp giúp cho học sinh biết cách giải toán có lời văn:
* Biện pháp 1: Thực hiện khảo sát để phân loại đối tượng: ( đã nêu trên )
* Biện pháp 2: Kết hợp chặt chẽ với phụ huynh:
- Tham mưu với Ban giám hiệu mời phụ huynh họp ( sau khi khảo sát, phân loại
đối tượng ) thông qua yêu cầu của môn Toán. Thông báo cho từng phụ huynh biết con
mình yếu ở mặt nào ( chưa nắm được kỹ năng cộng, trừ có nhớ trong phạm vi 100000,
nhân (chia) số có đến năm chữ số với (cho) số có một chữ số, chưa giải được toán có
lời văn ) từ đó hướng dẫn phụ huynh biện pháp giúp đỡ các em học tập ở nhà.
- Thăm gia đình hoặc thường xuyên trao đổi với phụ huynh qua phiếu liên lạc
(chú ý học sinh yếu Toán).
* Biện pháp 3: Chuẩn bị kĩ cho việc học tốt môn Toán:
Trong quá trình giảng dạy giáo viên không nhất thiết bắt buộc học sinh phải nhớ
đây là dạng toán nào nhưng phải xác định được bài toán này thuộc dạng toán nào đã
học? Bởi sự phân chia các dạng toán hợp chỉ có tính tương đối nhằm giúp học sinh
làm quen và biết cách giải một số loại toán hợp khác. Điều chủ yếu là giáo viên phân
tích kĩ từng mẫu bài toán, biết lập luận một cách logic để tìm ra cách giải nhanh và
đúng. Học sinh phải biết xác định đâu là giả thiết, đâu là kết luận của bài toán, từ đó
tìm ra cách giải tương ứng của mỗi dạng toán.
Từ cơ sở trên, tôi có phương hướng giải quyết vấn đề giúp học sinh hình thành
kĩ năng, kĩ xảo trong việc giải toán. Muốn giải được toán, học sinh cần nắm được các
bước, phương pháp chung giải toán có lời văn như sau:
+ Bước 1: Đọc kĩ đề toán, xác định bài toán cho biết gì và bài toán hỏi gì?
Mỗi đề toán bao giờ cũng đều có hai bộ phận: Bộ phận thứ nhất là những điều đã
cho, bộ phận thứ hai là cái phải tìm. Muốn giải bất kì bài toán nào học sinh cũng cần
phải xác định đúng hai bộ phận đó.

Chúng ta cần tập trung vào những từ quan trọng (từ khóa) của đề toán, từ nào
chưa hiểu thì phải tìm hiểu ý nghĩa của nó.
Học sinh cũng cần phân biệt rõ những gì thuộc về bản chất của đề toán, những gì
không thuộc về bản chất của đề toán để hướng sự chú ý của mình vào những chỗ cần
thiết.
+ Bước 2: Tóm tắt đề toán bằng sơ đồ, hình vẽ hoặc ngôn ngữ, kí hiệu ngắn gọn.
Thông qua đó để thiết lập mối liên quan cái đã cho và cái cần phải tìm.
+ Bước 3: Phân tích các mối quan hệ giữa các “ dữ kiện” đã cho với “kết luận”
để tìm ra cách giải bài toán. Kết quả các bước này là xác định một trình tự để giải bài
toán.
Thực chất của việc giải toán là bắt những chiếc cầu từ cái đã cho và cái phải tìm.
Có nhiều phương pháp để để bắt được những chiếc cầu đó, và đó chính là quá trình
phân tích bài toán. Thông thường ở tiểu học thường dùng các cách sau:
Suy nghĩ theo đường lối phân tích: Tập trung suy nghĩ vào câu hỏi của bài toán,
nghĩ xem muốn trả lời được câu hỏi của bài toán thì ta phải biết những gì và phải làm
những phép tính gì? Trong những điều cần biết đó cái nào đã cho sẵn trong đề toán, cái
nào phải tìm? Muốn tìm được cái này thì ta phải biết những gì và làm phép tính gì? v.
v Cứ như thế ta suy nghĩ từ câu trả lời của bài toán trở về các điều đã cho của bài
toán. Đây là cách hay dùng nhất.
Cũng có thể suy nghĩ xem từ các điều đã cho trong từng bài toán ta có thể suy ra
điều gì, tính ngay được cái gì? Từ những cái đó có thể suy ra hoặc tính được điều gì
giúp ích cho việc giải bài toán không? Như thế ta suy luận dần dần: Từ những điều
đã cho đến câu hỏi của bài toán.
Ngoài ra trong một số bài toán chúng ta phải kết hợp cả hai cách nói trên để giải
quết bài toán.
+ Bước 4: Lần lượt thực hiện các phép tính theo trình tự giải đã có để đi tới đáp
số.
Sau quá trình nghĩ tìm cách giải và thiết lập được trình tự giải bài toán, chúng ta
thực hiện các phép tính và đi đến kết quả. Mỗi bài giải đều có hai phần: Các câu lời
giải và các phép tính. Việc viết câu lời giải phải ngắn gọn và đúng yêu cầu nội dung

của bài toán và ứng với một câu lời giải là một phép tính kèm theo.
Sau khi giải xong một phép tính hay một bài toán đều phải tiến hành công việc
thử lại xem phép tính hay đáp số của bài toán đó đã đúng hay chưa.
Đối với những bài toán quá đơn giản thì có thể bỏ bớt một vài bước hoặc một vài
hoạt động trong các bước trên.
Tuy nhiên với các em học sinh khá, giỏi thì khuyến khích cho các em giải bài
toán bằng nhiều cách. Phân tích, so sánh tìm ra cách giải hay nhất, hợp lí nhất. Đây là
cách rất tốt để học sinh tự rèn luyện cho mình năng lực suy nghĩ độc lập, linh hoạt, trí
thông minh và óc sáng tạo.
Ví dụ: Với bài toán: “ Hai công nhân sản xuất được 481 dụng cụ. Người thứ
nhất làm trong 21 giờ, người thứ hai làm trong 16 giờ. Hỏi mỗi người sản xuất
được bao nhiêu dụng cụ? (Số dụng cụ mỗi người làm trong mỗi giờ là như nhau)”
Giải:
Cách thông thường
Tổng số giờ làm việc của hai người là:
21 + 16 = 37 ( giờ )
Mỗi giờ làm được là:
481 : 37 = 13 (dụng cụ)
Người thứ nhất sản xuất được là :
13 x 21 = 273 (dụng cụ)
Người thứ hai sản xuất được là :
13 x 16 = 208 ( dụng cụ)
Đáp số :Người tứ nhất : 273 dụng cụ
Người thứ hai : 208 dụng cụ.
Giải bằng cách khác :
Mỗi giờ một người làm được là :
481 : ( 21 + 16 ) = 13 (dụng cụ)
Người thứ nhất sản xuất được là :
13 x 21 = 273 (dụng cụ)
Người thứ hai sản xuất được là :

13 x 16 = 208 ( dụng cụ)
Đáp số : Người tứ nhất : 273 dụng cụ
Người thứ hai : 208 dụng cụ.
* Biện pháp 4: Phương pháp dạy các dạng toán có lời văn:
Trong các dạng toán có lời văn ở lớp 4, tôi chú ý vào các dạng toán sau:
a) Đối với dạng toán “ Tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó”.
Dạng toán này học sinh thường giải theo cách thông thường tìm số bé rồi tìm số
lớn .
Bài toán: ( Bài 2 trang 47 )
Một lớp học có 28 học sinh. Số học sinh trai hơn số học sinh gái là 4 em. Hỏi
lớp học đó có bao nhiêu học sinh trai, bao nhiêu học sinh gái ?
Để giải được bài toán trên, trước hết học sinh phải đọc kĩ đề để tìm hiểu xem:
+ Đề bài cho biết gì? (lớp có 28 học sinh, số học sinh trai nhiều hơn số học sinh
gái là 4 em có nghĩa là Tổng bằng 28, Hiệu bằng 4).
+ Yêu cầu gì? ( Tìm số học sinh trai, số học sinh gái của lớp đó ?.)
+ Làm thế nào để Tìm số học sinh trai, số học sinh gái của lớp đó ?
( Trước hết đi tìm hai lần số học sinh gái: Lấy tổng trừ đi hiệu.
Số học sinh gái: Hai lần số học sinh gái : 2
Số học sinh trai: Tổng trừ đi số học sinh gái )
+ Học sinh tóm tắt bài toán bằng sơ đồ đoạn thẳng
Học sinh trai:
?



Học sinh gái:
?

4


28 học sinh
Từ gợi ý trên sẽ lập được sơ đồ phân tích như sau:
Hai lần số học sinh gái là: ( Tổng – Hiệu)
Số học sinh gái là: ( Tổng – Hiệu ) : 2
Số học sinh trai là: Tổng – số học sinh gái.
Nhìn vào sơ đồ phân tích học sinh sẽ giải được bài toán một cách dễ dàng.
Giải:
Cách giải thông thường
Hai lần số học sinh gái là:
28 – 4 = 24 ( học sinh)
Số học sinh gái của lớp đó là :
24 : 2 = 12 ( học sinh)
Số học sinh trai của lớp đó là :
28 – 12 = 16 ( học sinh)
Cách giải khác:
Số học sinh gái của lớp đó là :
(28 – 4) : 2 = 12 ( học sinh)
Số học sinh trai của lớp đó là :
28 – 12 = 16 ( học sinh)
Đáp số : Học sinh gái : 12 học sinh
Học sinh trai : 16 học sinh
Đáp số : Học sinh gái : 12 học sinh
Học sinh trai : 16 học sinh.
Song song với dạng toán về tìm hai số khi biết tổng và hiệu của chúng ta còn
dạng toán có lời văn về Tìm hai số khi biết tổng và tỉ.
b) Đối với dạng toán
‘’
Tìm hai số khi biết tổng và tỉ của hai số đó
’’
.

Dạng toán này học sinh thường giải theo cách: Trước hết tính số phần bằng
nhau, sau đó đi tìm giá trị của một phần và cuối cùng tìm lần lượt từng số.
Bài toán : (Bài 2 trang 148)
Một người đã bán được 280 quả cam và quýt, trong đó số cam bằng
5
2
số quýt.
Tìm số cam, số quýt đã bán.
Để giải được bài toán trên, trước hết học sinh phải đọc kĩ đề để xác định được
đâu là tổng và đâu là tỉ rồi tìm hiểu xem:
+ Đề bài cho biết gì? (Bán được 280 quả cam và quýt ; 280 chính là tổng của
quả cam và quýt, cam bằng
5
2
quýt ;
5
2
chính là tỉ số của quả cam và quýt )
+ Yêu cầu gì? ( Số cam, số quýt đã bán.)
+ Làm thế nào để tính số cam, số quýt đã bán ? (ta tìm tổng số phần bằng nhau,
sau đó đi tìm số quả cam, quả quýt đã bán).
+ Học sinh tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng.
Cam :
?

Quýt :
?

280 quả
Từ gợi ý trên sẽ lập được sơ đồ phân tích như sau:

Tổng số phần bằng nhau : ( 2 + 5 = 7 (phần))
Đi tìm giá trị của 1 phần : Tổng : tổng số phần
Số quả cam người đó đã bán là : Giá trị của 1 phần
×
số phần của quả cam.
Số quả quýt người đó đã bán là : tổng – số quả cam đã bán
Nhìn vào sơ đồ phân tích học sinh sẽ giải được bài toán một cách dễ dàng.
Giải:
Cách giải thông thường:
Tổng số phần bằng nhau là :
2 + 5 = 7 (phần)
Giá trị của 1 phần là :
280 : 7 = 40 (quả)
Số quả cam người đó đã bán là :
40 x 2 = 80 ( quả)
Số quả quýt người đó đã bán là:
280 - 80 = 200 ( quả)
Cách giải khác:
Số quả cam người đó đã bán là :
280 : ( 2 + 5 ) x 2 = 80 ( quả )
Số quả quýt người đó đã bán là :
280 - 28 = 200 ( quả)
Đáp số : Cam : 80 quả
Quýt : 200quả
Đáp số: Cam 80 quả
Quýt 200 quả
( Dành cho đối tượng trung bình yếu)
(Dành cho đối tượng HS khá, giỏi)
Trong việc dạy học sinh giải toán có lời văn giáo viên không phải nhất thiết bắt
buộc các em là em nào cũng làm như nhau về từng bước của giáo viên hướng dẫn và

SGK. Trong lớp bên cạnh những em học sinh trung bình, yếu, lớp còn có học sinh khá,
giỏi. Chính vì thế ta có thể khuyến khích động viên các em tìm tòi để giải bài toán
bằng cách khác nhưng kết quả vẫn không thay đổi.
c) Đối với dạng toán “ Tìm hai số khi biết hiệu và tỉ của hai số đó”.
Dạng toán này tương tự như dạng toán “Tìm hai số khi biết tổng và tỉ của hai số
đó” . Học sinh thường giải theo cách: Trước hết tính số phần bằng nhau, sau đó đi tìm
giá trị của một phần và cuối cùng tìm lần lượt từng số.
Bài toán : (Bài 2 trang 151)
Người ta dùng số bóng đèn màu nhiều hơn số bóng đèn trắng là 250 bóng
đèn. Tìm số bóng đèn mỗi loại, biết rằng số bóng đèn màu bằng
3
5
số bóng đèn
trắng.
Để giải được bài toán trên, trước hết học sinh phải đọc kĩ đề để xác định được
đâu là hiệu và đâu là tỉ rồi tìm hiểu xem:
+ Đề bài cho biết gì? (bóng đèn màu nhiều hơn bóng đèn trắng 250 bóng chính
là hiệu của bóng đèn màu và bóng đèn trắng, bóng đèn màu bằng
3
5
bóng đèn trắng
chính là tỉ số của hai loại bóng đèn)
+ Yêu cầu gì? ( bóng đèn màu, bóng đèn trắng.)
+ Làm thế nào để tính số bóng đèn màu, bóng đèn trắng ? (ta tìm hiệu số phần
bằng nhau, sau đó đi tìm số bóng đèn màu, bóng đèn trắng).
+ Học sinh tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng.
Bóng đèn trắng:
?
250
Bóng đèn màu :

?

Từ gợi ý trên sẽ lập được sơ đồ phân tích như sau:
Hiệu số phần bằng nhau : ( 5 - 3 = 2 (phần))
Tìm giá trị của 1 phần : Hiệu : hiệu số phần
Số bóng đèn màu là : Giá trị của 1 phần
×
số phần của bóng đèn màu
Số bóng đèn trắng là : Hiệu – số bóng đèn màu
Nhìn vào sơ đồ phân tích học sinh sẽ giải được bài toán một cách dễ dàng.
Giải:
Cách giải thông thường:
Hiệu số phần bằng nhau là :
5 – 3 = 2 (phần)
Giá trị của 1 phần là :
250 : 2 = 125
Số bóng đèn màu là :
250 : 2 x 5 = 625 (bóng)
Số bóng đèn trắng là:
Cách giải khác:
Số bóng đèn màu là :
250:(5 – 3)x5 = 625 (bóng)
Số bóng đèn trắnglà:
625 - 250 = 375(bóng)
Đáp số:Bóng đèn màu: 625 bóng
Bóng đèn trắng:375 bóng
625 - 250 = 375(bóng)
Đáp số: Bóng đèn màu : 625 bóng
Bóng đèn trắng : 375 bóng
d) Các dạng toán có nội dung hình học :

Ví dụ: Khi hướng dẫn học sinh giải bài toán: Một mảnh đất hình chữ nhật có
chu vi bằng 240m, chiều rộng bằng
3
1
chiều dài. Tính diện tích mảnh vườn đó?
Tôi dùng hệ thống câu hỏi như sau:
Câu hỏi tìm dữ kiện:
-Bài toán cho ta biết gì?
-Bài toán yêu cầu ta phải làm gì ?
Câu hỏi đòi hỏi sự nhớ lại :
-Muốn tính diện tích hình chữ nhật ta làm như thế nào ?
Câu hỏi đòi hỏi suy luận :
-Muốn tính chiều rộng hoặc chiều dài của mảnh vườn ta làm cách nào ?
Khi đặt câu hỏi tôi khuyến khích học sinh trả lời và dành thời gian cho học sinh
thảo luận. Những câu hỏi tôi đặt ra cho học sinh là những câu hỏi có nội dung rõ ràng,
dễ hiểu, chính xác, phù hợp với trình độ học sinh, liên quan đến nội dung bài học.
Những câu hỏi ở mức độ khác nhau như :
Câu hỏi đòi hỏi sự nhớ lại :
-Nêu những đặc điểm giống nhau của hình chữ nhật và hình bình hành ?
* Sau khi áp dụng biện pháp rèn kỹ năng giải bài toán có lời văn cho học sinh
lớp 4/2 một thời gian, tôi đã ra bài kiểm tra có nội dung giải bài toán có liên quan
đến tỷ số cho học sinh lớp 4/2 trường tiểu học Lê Văn Tám, kết quả như sau:
LỚP Đợt Sỉ số G K TB Y
4/2
SL % SL % SL % SL %
GHKI 41 7 17,1% 26 63,4% 6 14,6% 4 4,9%
CHKI 41 11 26,8% 23 56,1% 7 17,1% 0 0
Như vậy nhờ có biện pháp rèn kỹ năng giải bài toán có lời văn liên quan đến tỷ
số cho học sinh lớp 4/2 mà chất lượng học tập của học sinh có tăng lên. Song vẫn
chưa theo ý muốn của mình, tôi đã thực hiện kết hợp với các hình thức tổ chức khác

như:
* Biện pháp 5: Tổ chức dạy học theo nhóm:
- Trong tiết học Toán việc tổ chức cho học sinh hoạt động theo nhóm là rất cần
thiết. Hoạt động nhóm trong tiết Toán giúp các em tự tìm tòi, chiếm lĩnh kiến thức
mới, có tác dụng gợi mở học sinh sử dụng các kiến thức và kĩ năng về môn Toán mà
các em đã được lĩnh hội và rèn luyện để diễn đạt những ý kiến của mình, tham gia một
chuỗi các hoạt động học tập dưới sự hướng dẫn của giáo viên, được khuyến khích để
trao đổi các kinh nghiệm và được tạo cơ hội làm việc hợp tác với nhau.
Đặc điểm tâm lí của học sinh Tiểu học là ham hiểu biết, ưa hoạt động, giàu trí
tưởng tượng cho nên khi dạy học tôi luôn gợi trí tò mò, tránh đơn điệu về hình thức
hoạt động. Còn đặc điểm nhận thức của học sinh là đi từ tư duy cụ thể đến tư duy trừu
tượng, cho nên khi tổ chức dạy học theo nhóm trong môn Toán tôi chia thành các
nhóm từ 2 đến 6 học sinh: theo tổ, dãy, bàn, cặp…Tùy theo mục đích, yêu cầu của vấn
đề học tập.
Ví dụ: -Tiết dạy về kiến thức mới tôi chia theo nhóm : 6 học sinh ( nhóm ngẫu
nhiên),…
-Tiết dạy luyện tập tôi chia theo nhóm: 4 học sinh.
-Tiết dạy thực hành tôi chia theo nhóm: Tổ.
-Tiết dạy ôn tập tôi chia theo nhóm:2; 4 học sinh.
Chia nhóm cũng có nhiều cách khác nhau. Trong tiết Toán tôi thường chia theo
các cách:
Cách 1: Các nhóm được phân chia ngẫu nhiên hoặc có chủ định ( nhóm cùng
trình độ, nhóm theo sở trường…)
Ví dụ:
- Nhóm chia ngẫu nhiên, nhiều trình độ: Cho học sinh đếm từ 1 đến 6 vòng
quanh lớp. Các nhóm được thành lập bởi các em có cùng số hoặc lập một bộ từ 1 đến
6. Hoặc phát cho mỗi học sinh một tấm bìa có vẽ biểu tượng, học sinh tìm bạn có cùng
biểu tượng hợp thành một nhóm.
- Nhóm hình thành có chủ định:
Giáo viên lần lượt đọc tên học sinh vào từng nhóm.

Giáo viên chia nhóm cố định và đặt tên cho mỗi nhóm. Khi có lệnh của giáo
viên, các em tự giác thành lập nhóm như nhóm tổ, dãy.
- Chia nhóm tình bạn: Học sinh được phép chọn bạn lập thành một nhóm với số
người do giáo viên định trước.
Cách 2: Các nhóm hoạt động trong cả tiết học hoặc thay đổi trong từng phần
của tiết học( kiểm tra bài cũ, dạy kiến thức mới, luyện tập, củng cố.)
Cách 3: Các nhóm được thảo luận cùng một nhiệm vụ hoặc những nhiệm vụ
khác nhau.
Ví dụ:
- Nhóm cùng thảo luận một nhiệm vụ: Cùng làm một bài tập hoặc cùng tìm hiểu
một vấn đề.
- Nhóm thảo luận nhiều nhiệm vụ khác nhau: mỗi nhóm thực hành đo một đoạn
thẳng.
Trong hoạt động nhóm, tôi cho học sinh phân công mỗi em thực hiện một phần
việc, mọi cá nhân trong nhóm đều phải làm việc để giúp đỡ nhau tìm hiểu và giải
quyết vấn đề. Sau đó đại diện nhóm trình bày kết quả trước lớp; các nhóm còn lại chất
vấn, bổ sung.
Như vậy: Trong một tiết học, nhất là tiết học Toán, hoạt động học tập theo nhóm
góp phần quan trọng vào kết quả học tập. Dạy học theo nhóm chính là hình thức giảng
dạy đặt học sinh vào môi trường học tập tích cực, giúp học sinh mở rộng suy nghĩ và
thực hành các kĩ năng tư duy toán như: phân tích, tổng hợp, khái quát, được tạo điều
kiện để hoạt dộng với các bạn làm cho các em có hứng thú, tích cực hơn nữa trong học
tập môn Toán. Đặc biệt trong hoạt động thảo luận nhóm tôi hướng dẫn học sinh hoàn
toàn tuân thủ theo các nguyên tắc tổ chức dạy học theo nhóm, đàm thoại và thảo luận
đối với tất cả các môn học và phải phù hợp với nội dung, kiến thức môn Toán.
* Biện pháp 6: Xây dựng phong trào học Toán ngoài giờ:
Với các biện pháp trên, hàng tuần tôi thường kiểm tra một số em trong lớp ( cụ
thể những em học yếu) ở tiết ôn luyện Toán, tôi thấy kỹ năng giải toán của các em có
phần tiến bộ hơn. Tuy nhiên, hàng tháng tôi cũng ra cho các em làm một số bài toán
giải có lời văn dạng tương tự ( không giống hoàn toàn với đề bài trong SGK), tôi nhận

thấy các em lập sơ đồ và giải toán vẫn còn lúng túng, chưa đạt yêu cầu. Vì thế, hàng
tháng tôi lại tổ chức thi đua giữa các nhóm học tập về lập sơ đồvà giải toán với những
đề toán không có ở SGK để các em giải toán hoàn chỉnh hơn ( có phát thưởng)
Ví dụ:
+ Mỗi nhóm cử 2 em, yêu cầu em khá (giỏi) lập sơ đồ phân tích, em học trung
bình sẽ dựa vào sơ đồ phân tích để giải toán.
* Nhóm nào làm nhanh, đúng, chính xác sẽ được nhận thưởng ( phần thưởng có
khi chỉ là một tờ báo Khoa học hoặc cây bút). Bên cạnh đó để tạo không khí vui vẻ,
tinh thần đồng đội cho các em, trong giờ sinh hoạt ( ôn luyện Toán ) tôi thường tổ
chức cho các em giải toán tiếp sức với phương thức sau:
+ Mỗi dãy chọn 3 em ( 2 dãy 6 em ), chia thành 2 đội A và B, mỗi đội 3 em. Các
em bốc thăm đề toán:
* Yêu cầu tiếp sức như nhau: em đầu tiên sẽ tóm tắt đề toán xong sẽ chuyển sang
bạn tiếp theo lập sơ đồ phân tích và em cuối cùng sẽ giải bài toán.
Giáo viên có thể ra bài toán: Một người mua gạo nhiều hơn ngô là 32 kg. Hỏi
người đó mua bao nhiêu kg mỗi loại. Biết rằng khối lượng gạo gấp 5 lần khối
lượng ngô ?
* Thực hiện trò chơi như sau:
* Em thứ nhất: Tóm tắt:
Ngô : 32
Gạo :
?
* Em thứ hai: Lập sơ đồ phân tích:
Hiệu số phần bằng nhau : ( 5 - 1 = 4 (phần))
Ngô = Hiệu(32) : hiệu số phần(4)
×
số phần của ngô (1)
Gạo = Hiệu + ngô
* Em thứ ba: Bài giải:
Hiệu số phần bằng nhau là:

5 – 1 = 4 ( phần)
Khối lượng ngô người đó mua là:
32 : 4 x 1 = 8 (kg)
Khối lượng gạo người đó mua là:
32 + 8 = 40 (kg)
Đáp số: Ngô: 8kg
Gạo: 40 kg
Ngoài ra, để phát triển tư duy, tính tích cực, sáng tạo của học sinh đồng thời để
phát hiện nhiều học sinh có năng khiếu Toán, thỉnh thoảng tôi ra đề toán và yêu cầu
học sinh trả lời nhanh kết quả bài học trng 1-2 giây bằng miệng hoặc làm nhanh trên
vở nháp, bảng con.
Ví dụ: Dựa vào tóm tắt sau, em hãy trả lời kết quả bài toán: ( hoặc ghi phép
tính giải ở bảng con )
Con :
?

Mẹ :
?

42 tuổi
Khi học sinh nêu kết quả giáo viên yêu cầu học sinh giải thích em đã thực hiện
bài làm như thế nào ?

VI. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
* Trong suốt thời gian qua với tinh thần vì các em học sinh thân yêu, tôi đã kiên
trì thực hiện các biện pháp trên. Qua kiểm tra nhiều lần đặc biệt là lần kiểm tra định kỳ
giữa kỳ II vừa qua chất lượng môn Toán lớp tôi như sau:
LỚP Đợt Sỉ số
G K TB Y
SL % SL % SL % SL %

4B GHKII 40 20 60% 16 40% 4 10% 0 0
Tuy nhiên qua bài kiểm tra tôi đã thống kê được về việc giải toán có lời văn của
lớp như sau:
- Biết tóm tắt và giải đúng: 20 em, tỉ lệ : 50%.
- Giải toán còn theo quán tính: 10 em, tỉ lệ : 25%.
- Kĩ năng tính toán sai: 7 em, tỉ lệ : 17,5%.
- Giải toán sai 3 em, tỉ lệ : 7,5%.
So với kết quả khảo sát đầu năm thì tình hình chất lượng giải toán của lớp có sự
chuyển biến rõ rệt. Cụ thể:
- Biết tóm tắt và giải đúng tăng : 10 em, tỉ lệ tăng : 25%.
- Giải toán còn theo quán tính giảm: 3 em, tỉ lệ giảm : 6,5%.
- Kĩ năng tính toán sai, nhầm giảm: 3 em, tỉ lệ giảm: 7,5%.
- Giải toán sai giảm : 4 em, tỉ lệ giảm: 10%.
Với kết quả đó, tất nhiên vẫn còn một số em giải toán chưa đạt yêu cầu vì
nguyên nhân quá yếu, mất căn bản, thiếu động cơ học tập, lại ở trong một gia đình khó
khăn, đông con, phụ huynh ít quan tâm phó mặc cho nhà trường.
VII. KẾT LUẬN
Qua các biện pháp thực hiện trong năm học 2010 – 2011 đã tạo bước đột biến
trong nhận thức và hành động của học sinh lớp 4/2 về môn Toán. Các em nắm vững
kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo khi tính toán. Áp dụng tốt công thức trong toán học cho bản
thân. Có đầu óc tư duy, sáng tạo khi làm bài. Tính cẩn thận, tinh thần kỉ luật cao, yêu
thích thiên nhiên, cuộc sống và giúp các em có bộ óc thông thái, phát triển tốt, vận
dụng kiến thức đã học được trong tính toán hàng ngày.
Trong thực tế giảng dạy và qua thời gian nghiên cứu đề tài này, tôi nhận thấy; để
nâng cao chất lượng học tập cho học sinh người giáo viên cần phải:
+ Kết hợp chặt chẽ với phụ huynh học sinh, đặc biệt quan tâm nhiều đến học
sinh yếu môn Toán.
+ Kết hợp chặt chẽ quá trình hoạt động giữa lên lớp và ngoài giờ, luôn tạo không
khí học tập vui vẻ, thoải mái.
+ Tận tụy với công việc, nhiệt tình với học sinh.

+ Tìm hiểu học sinh để phát hiện ra nguyên nhân khiến học sinh đạt được cũng
như chưa đạt được kết quả trong học tập. Từ đó phát huy điểm mạnh, khắc phục điểm
yếu ở học sinh. Người giáo viên không những phải có kiến thức vững chắc phương
pháp giảng dạy hay mà giáo viên cần phải cho học sinh rèn luyện, thực hành nhiều;
giáo viên không nên chữa hết các bài tập.
+ Luôn khảo sát, phân loại học sinh để có phương pháp giảng dạy phù hợp. Cần
phải gần gũi động viên học sinh, khích lệ các em hứng thú trong học tập.
+ Luôn học hỏi, trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp.
Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ của tôi trong việc: Rèn kĩ năng giải toán có
lời văn ở lớp 4. Trong quá trình nghiên cứu và áp dụng không thể tránh khỏi những
thiếu sót. Rất mong được sự đóng góp ý kiến của đồng nghiệp để đề tài của tôi ngày
càng đạt hiệu quả cao.

×