Tải bản đầy đủ (.doc) (66 trang)

115 Thị trường Logistic cho hàng triển lãm, hội chợ TM quốc tế tại VN và giải pháp marketing của Công ty Translink Express

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (421.19 KB, 66 trang )

Đề tài: Xu hướng vận động của thị trường Logistic cho hàng triển lãm, hội chợ
thương mại quốc tế tại Việt Nam và các giải pháp marketing của công ty Translink
Express.
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết, ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài
- Logistics là một lĩnh vực không mới trên thị trường quốc tế tuy nhiên lại mới
trên thị trường Việt Nam. Trước đây hầu như các doanh nghiệp Việt Nam chỉ đảm
nhiệm từng phần riêng biệt trong các khâu của cung ứng dịch vụ.
- Hiện nay các doanh nghiệp sản xuất hàng hoá đang thay đổi dần trong nhận
thức và hoạt động kinh doanh về chuỗi cung ứng, do đó ngành logistics sẽ được
chuyên nghiệp hơn, và phát triển hơn.
Hàng hoá cho Triển lãm, hội chợ là những hàng hoá đặc biệt và cần sự vận
chuyển, giao nhận,.. đặc biệt trong logistíc không giống như những hàng hoá thông
thường. Và đây là một phân khúc thị trường vô cùng tiềm năng tại Việt Nam hiện
nay.
- Xu hướng vận động và phát triển đi lên của thị trường này sẽ là một điều tất
yếu và các doanh nghiệp Việt Nam có thể tận dụng để cải thiện và nâng cao hoạt
động kinh doanh của mình. Nhất là trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay,
triển lãm, hội chợ, tổ chức sự kiện là các vấn đề quan trọng trong xúc tiến thương mại
ở nước ta. Đây cũng là một lĩnh vực kinh doanh đầy tiềm năng.
- Để tồn tại trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gia tăng, các doanh nghiệp
tham gia thị trường tất yếu phải áp dụng lý thuyết marketing vào quá trình kinh
doanh.
- Công ty Translink Express là đơn vị chuyên về lĩnh vực logistic cho hàng triển
lãm và hội chợ tại Việt Nam, đặc biệt là các hoạt động in-bound (đưa hàng hóa quốc
tế vào các triển lãm tại Việt Nam). Xu hướng vận động của thị trường này đã tác
động rất lớn đến hoạt động kinh doanh của đơn vị và việc áp dụng marketing vào các
giái pháp để cạnh tranh trong thời gian tới là vô cùng cần thiết đối với đơn vị.
1
2. Mục tiêu nghiên cứu
Quá trình nghiên cứu hướng vào hai mục đích chính sau đây:


Thứ nhất là nghiên cứu nhằm nổi bật những đặc điểm của thị trường dịch vụ
logistics cho triển lãm, hội chợ tại Việt Nam hiện nay và xu hướng vận động, phát
triển trong thời gian tới.
Thứ hai là phân tích về đặc điểm trong marketing vào lĩnh vực kinh doanh đặc
thù và rất mới này ở thị trường Việt Nam
Thứ ba; kiến nghị các giải pháp marketing cho công ty Translink Express.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của chuyên đề là xu hướng vận động của thị trường
logistics cho hàng triển lãm, hội chợ tại Việt Nam và hoạt động marketing của công
ty Translink Express.
Phạm vị nghiên cứu: về mặt không gian: thị trường Việt Nam
Về mặt thời gian: Từ năm 2003 trở lại đây.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành chuyên đề, các phương pháp nghiên cứu sau đây đã được áp
dụng:
- Phương pháp duy vật biện chứng, tư duy logic, hệ thống
- Phương pháp thu thập dữ liệu sơ cấp và thứ cấp. Trong đó, các phương pháp
thu thập dữ liệu sơ cấp chủ yếu được áp dụng là: phương pháp điều tra quan sát,
thống kê. Dựa trên những thông tin về doanh nghiệp, đặc điểm dịch vụ, thị trường để
khái quát hoá những đặc tính khách quan của đối tượng nghiên cứu.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh đối chiếu: được thực hiện để nêu
lên những đánh giá, nhận định, từ đó nêu lên các kiến nghị.
5. Dự kiến kết quả nghiên cứu
- Mô tả, phân tích để nêu lên xu hướng vận động khách quan của dịch vụ
logistic cho triển lãm, hội chợ tại Việt Nam hiện nay
- Nêu lên những đặc điểm của việc vận dụng lý thuyết marketing vào 1 lĩnh vực
kinh doanh rất mới tại Việt Nam
2
- Kiến nghị các giải pháp marketing trong kinh doanh của doanh nghiệp
Translink Express.

6. Nội dung của chuyên đề được trình bày theo thứ tự sau đây:
Lời nói đầu
Chương 1: Tổng quan về thị trường logistics cho hàng triển lãm, hội chợ Việt
Nam
Chương II. Thực trạng thị trường logistics cho triển lãm, hội chợ vào Việt Nam
của công ty Translink Express
Chương III. Các giải pháp marketing trong kinh doanh dịch vụ logistics cho
triển lãm, hội chợ cho công ty Translink Express
Phần kết
3
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG LOGISTIC CHO HÀNG
TRIỂN LÃM, HỘI CHỢ THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ TẠI VIỆT NAM
1.1. Đặc điểm của dịch vụ logistics cho hàng triển lãm, hội chợ thương
mại quốc tế tại Việt Nam
1.1.1. Khái quát về Logistics và giao nhận – vai trò của các nhà cung cấp
dịch vụ
1.1.1.1.Khái quát về Logistics
Một vài thập kỷ gần đây, Logistics đã phát triển nhanh chóng và
mang lại những kết quả tốt nhất ở nhiều nước trên thế giới, như Hà
Lan, Thuỵ Điển, Đan Mạch, Mỹ,… Trong những năm cuối thế kỷ
20, đầu thế kỷ 21, thuật ngữ Logistics được nhắc đến nhiều ở các
nước Đông Nam Á, Đông Á và đặc biệt phát triển ở Singapore.
Trong lịch sử, Logistic đã xuất hiện từ rất lâu đời, ban đầu chỉ với hoạt động
vận chuyển hàng hoá, ngày nay, Logistics phát triển rất nhanh chóng và được ghi
nhận như một chức năng kinh tế chủ yếu, một công cụ hữu hiệu mang lại thành công
cho các doanh nghiệp cả trong khu vực sản xuất lẫn trong khu vực dịch vụ.
Có nhiều định nghĩa về Logistics, theo hội đồng quàn trị Logistics của Mỹ
( Council ò Logistics Management – CLM) thì “Quản trị Logistics là quá trình hoạch
định, thực hiện và kiểm soát một cách hiệu quả chi phí lưu thông, dự trữ nguyên vật
liệu, hàng tồn kho trong quá trình sản xuất sản phẩm cùng dòng thông tin tương ứng

từ điểm xuất phát đầu tiên đến điểm tiêu dùng cuối cùng nhằm mục đích đáp ứng yêu
cầu của khách hàng”. Theo quan điểm “5 Right” thì :” Logistcs là quá trình cung cấp
đúng sản phẩm đến đúng vị trí, vào đúng thời điểm với điều kiện và chi phí phù hợp
cho khách hàng tiêu dùng sản phẩm.”
Tại Việt Nam, theo quy định của Luật Thương mại, tại Mục 4 (Dịch vụ
Logistics). Điều 233 quy định:
Dịch vụ logistics là hoạt động thương mại, theo đó thương nhân tổ chức thực
hiện một hoặc nhiều công việc bao gồm nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm
thủ tục hải quan, các thủ tục giấy tờ khác, tư vấn khách hàng, đóng gói bao bì, ghi ký
4
mã hiệu, giao hàng hoặc các dịch vụ khác có liên quan đến hàng hoá theo thoả thuận
với khách hàng để hưởng thù lao. Dịch vụ logistics được phiên âm theo tiếng Việt là
dịch vụ lô-gi-stíc.
Như vậy, Logistics là quá trình tối ưu hoá về địa điểm, tối ưu hoá việc lưu
chuyển và dự trữ nguồn tài nguyên từ đầu vào nguyên thủy cho đến tay người tiêu
dùng cuối cùng, nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu của người tiêu dùng với chi phí thích
hợp, thông qua hàng loạt các hoạt động kinh tế.
Trong mỗi ngành, lĩnh vực, logistics sẽ có những đặc thù riêng. Có thể nghiên
cứu logistics trên hai giác độ: vi mô và vĩ mô. Ở tầm vi mô, logistics là việc tối ưu
hoá mọi thao tác, hoạt động trong quá trình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp
nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh, mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn. Ở tầm vĩ mô,
logistics là một ngành dịch vụ giúp tối ưu hoá quá trình phân phối, vận chuyển, dự
trữ các nguồn lực, giúp các quốc gia phát triển bền vững và hiệu quả.
Theo ước tính của Viện Logistics châu Á – Thái Bình Dương ( The Logistics
Institude – Asia Pacific – TLIAP), trị giá của dịch vụ Logistics chiếm 10-15% tổng
trị giá hàng hoá toàn cầu, tương đương 2.000 tỷ USD/năm.
Logistics được phân loại theo nhiều tiêu chí khác nhau, nếu theo hình thức tổ
chức hoạt động thì cho đến nay có các hình thức sau:
- Logistics bên thứ nhất (1PL) - người chủ sở hữu hàng hoá tự mình tổ chức và
thực hiện các hoạt động Logistics để đáp ứng nhu cầu của bản thân

- Logistics bên thứ hai (2PL) - người cung cấp dịch vụ logistics bên thứ 2 là
người cung cấp dịch vụ cho một hoạt động đơn lẻ của logistics (vận tải, kho bãi,
thanh toán,... ) để đáp ứng nhu cầu của chủ hàng, chưa có tích hợp hoạt động
Logistics
- Logistics bên thứ ba (3PL) – là người thay mặt cho chủ hàng quản lý và thực
hiện các dịch vụ Logistics, do đó 3PL tích hợp các dịch vụ khác nhau, kết hợp chặt
chẽ việc luân chuyển, tồn trữ hàng hóa, xử lý thông tin,... trong dây chuyền cung ứng
5
- Logistics bên thứ tư (4PL) là người tích hợp (integrator), chịu trách nhiệm
quản lý dòng lưu chuyển logistics, cung cấp giải pháp chuỗi cung ứng, hoạch định, tư
vấn logistics, quản trị vận tải,... 4PL hướng đến quản trị cả quá trình logistics.
Gần đây, cùng với sự phát triển của thương mại điện tử, người ta đã nói tới khái
niệm logistics bên thứ 5 (5PL) phát triển nhằm phục vụ cho Thương mại điện tử, các
nhà cung cấp dịch vụ này chính là các 3 PL và 4PL, đứng ra quản lý toàn chuỗi cung
ứng trên nền tảng thương mại điện tử.
Cũng có thể phân loại dịch vụ logistics theo quy định tại Điều 233 Luật Thương
mại như sau:
* Các dịch vụ logistics chủ yếu, bao gồm:
a) Dịch vụ bốc xếp hàng hoá, bao gồm cả hoạt động bốc xếp container;
b) Dịch vụ kho bãi và lưu giữ hàng hóa, bao gồm cả hoạt động kinh doanh kho
bãi container và kho xử lý nguyên liệu, thiết bị;
c) Dịch vụ đại lý vận tải, bao gồm cả hoạt động đại lý làm thủ tục hải quan và
lập kế hoạch bốc dỡ hàng hóa;
d) Dịch vụ bổ trợ khác, bao gồm cả hoạt động tiếp nhận, lưu kho và quản lý
thông tin liên quan đến vận chuyển và lưu kho hàng hóa trong suốt cả chuỗi lô-gi-
stíc; hoạt động xử lý lại hàng hóa bị khách hàng trả lại, hàng hóa tồn kho, hàng hóa
quá hạn, lỗi mốt và tái phân phối hàng hóa đó; hoạt động cho thuê và thuê mua
container.
* Các dịch vụ logistics liên quan đến vận tải, bao gồm:
a) Dịch vụ vận tải hàng hải;

b) Dịch vụ vận tải thuỷ nội địa;
c) Dịch vụ vận tải hàng không;
d) Dịch vụ vận tải đường sắt;
đ) Dịch vụ vận tải đường bộ.
e) Dịch vụ vận tải đường ống.
* Các dịch vụ logistics liên quan khác, bao gồm:
a) Dịch vụ kiểm tra và phân tích kỹ thuật;
6
b) Dịch vụ bưu chính;
c) Dịch vụ thương mại bán buôn;
d) Dịch vụ thương mại bán lẻ, bao gồm cả hoạt động quản lý hàng lưu kho, thu
gom, tập hợp, phân loại hàng hóa, phân phối lại và giao hàng;
đ) Các dịch vụ hỗ trợ vận tải khác.
Logistics bao gồm 4 dòng chảy chính, dòng chảy hàng hoá, nguyên liệu, dòng
chảy thông tin, dòng chảy tài chính, và dòng chảy chứng từ, tài liệu (có thể gộp vào
dòng chảy thông tin). Logistics hiện nay đã tiến lên một giai đoạn phát triển mới đó
là chuỗi cung ứng (supply chain).
Tuy nhiên, tại Việt Nam, các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ này chủ yếu mới
chỉ dừng lại ở cấp độ 2PL, 3PL tại các doanh nghiệp lớn, và thường làm nhiệm vụ
của người giao nhận (Forwarder, Freight Forwarder)
1.1.1.2. Giao nhận
Người kinh doanh dịch vụ giao nhận gọi là Người giao nhận ( Forwarder/
Freight Forwarder/ Forwarding Agent), có thể là chủ hàng, chủ tàu, công ty xếp dỡ,
hay kho hàng. Ngày nay, người giao nhận đóng vai trò quan trọng trong thương mại
và vận tải quốc tế, không chỉ làm các thủ tục hải quan, hoặc thuê tàu mà còn cung cấp
dịch vụ trọn gói về toàn bộ quá trình vận tải và phân phối hàng hoá.
Những dịch vụ mà người giao nhận thường tiến hành đó là:
+ Môi giới hải quan (Customs Broker)
Làm thủ tục hải quan đối với hàng nhập khẩu, xuất khẩu, dành chỗ chở hàng
trong vận tải quốc tế hoặc lưu cước với các hãng tàu theo sự uỷ thác của người xuất

khẩu hoặc người nhập khẩu.
+ Đại lý (Agent): Cầu nối giữa người gửi hàng và người chuyên chở như là một
đại lý, nhận uỷ thác từ chủ hàng hoặc từ người chuyên chở để thực hiện các công
việc khác nhau như: nhận hàng, giao hàng, lập chứng từ, làm thủ tục hải quan, lưu
kho,… trên cơ sở hợp đồng uỷ thác
+ Người gom hàng (Cargo Consolidator): Trong vận tải hàng hoá container,
dịch vụ gom hàng là không thể thiếu nhằm biến các lô hàng lẻ ( LCL – Less than
7
Container Loading) thành lô hàng nguyên (FCL – Full of Container Loading) từ các
khách hàng khác nhau để tận dụng sức chở của container và giảm cước phí vận tải.
+ Người chuyên chở (Carrier)
Là người giao nhận trực tiếp ký kết hợp đồng vận tải với chủ hàng và chịu trách
nhiệm chuyên chở hàng hoá từ một nơi này đến một nơi khác. Người giao nhận đóng
vai trò là người thầu chuyên chở (Contracting Carrier) nếu ký hợp đồng mà không
trực tiếp chuyên chở hoặc là người chuyên chở thực tế (Performing/ Actual Carier)
nếu trực tiếp chuyên chở.
+ Người kinh doanh vận tải đa phương thức (MTO – Multimodal Transport
Operator):
Trong trường hợp cung cấp dịch vụ đi suốt, trọn gói “door-to-door services”,
MTO là người chuyên chở và chịu trách nhiệm đối với hàng hoá trong suốt quá trình
vận tải. Người giao nhận cần phải tổ chức quá trình vận tải, phối hợp giữa các
phương tiện một các tốt nhất, an toàn nhất và tiết kiệm nhất.
* Điểm khác biệt giữa logistics và Giao nhận:
Logistics tồn tại ở hai mảng: nhà sản xuất và nhà cung cấp dịch vụ logistics,
Forwarding có thể xếp vào cung cấp dịch vụ logistics, là một mảng nhưng cũng rất
quan trọng trong chuỗi logistics. Có thể hiểu Logistics = giao nhận + kho bãi + vận
tải ở mức độ cao (giao nhận kho vận ở mức độ cao) là sự phát triển ở giai đoạn cao
của các khâu dịch vụ giao nhận kho vận, trên cơ sở tận dụng các ưu điểm của công
nghệ để điều phối hàng hoá từ khâu tiền sản xuất tới tận tay người tiêu dùng cuối
cùng qua các công đoạn: dịch chuyển, lưu kho và phân phối hàng hoá.

Còn Forwarding, hay frieght forwarding là giao nhận. Có hai yếu tố khác biệt
đó là: Forwarding không bao gồm kho vận và phân phối hàng hoá.
1.1.1.3. Quá trình cung ứng và đặc điểm dịch vụ
Các mô hình cung ứng chủ yếu hiện nay
Dưới đây trình bày hai mô hình cung ứng dịch vụ logistics phổ biến
Mô hình 1 của công ty VINAFCO LOGISTICS, về việc nhập hàng hoá từ nước
ngoài, làm thủ tục hải quan, chuyển hàng, lưu kho,…
8
Mô hình 2 của công ty Translink Express về việc xuất hàng hoá ra nước ngoài,
bao gồm cả lấy hàng, đóng gói, lưu kho, vận chuyển,…
9
Giới thiệu và tìm hiểu
nhu cầu của khách
hàng
Đề nghị sử
dụng sản
phẩm
Không

Mở các file tài liệu
Kiểm tra dữ liệu
Hoàn thiện
Xác nhận lại cho
khách hàng
Gửi đề nghị tới
nhà tổ chức
Liên hệ với
hãng bảo
hiểm
Đóng gói, nhận, lưu kho

gửỉ hoá đơn cho
khách hàng
Đặt phương tiện vận chuyển (tàu
hoặc máy bay)
chuẩn bị hồ sơ, tài liệu cho đại lý,
trung gian
Vận chuyển hàng đi, thông báo cho
cảng đến và khách hàng
Liên hệ lại với khách hàng
Xác nhận hàng cập bến
Đóng file dữ liệu
10
Theo dõi các báo cáo từ nhà tổ chức,
khách hàng, các doanh nghiệp cung
cấp dịch vụ
kiểm tra các tài liệu
Chưa hoàn
thiện
1.1.2. Đặc điểm của hàng hoá cho triển lãm, hội chợ quốc tế
1.1.2.1. Có yếu tố nước ngoài, liên quan tới xuất nhập khẩu
Hàng hoá trong triển lãm, hội chợ quốc tế gồm có 2 loại, nếu phân loại theo
khách hàng tham gia triển lãm, đó là hàng của các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân
Việt Nam, và hàng hoá của các tổ chức quốc tế. Yếu tố “quốc tế” trong “triển lãm,
hội chợ quốc tế” ở đây chính là việc có sự tham gia của các tổ chức, doanh nghiệp
nước ngoài.
Do đó, các hoạt động trong triển lãm, hội chợ, từ tổ chức cho đến vận chuyển,
giao nhận hàng hoá đều phải có tính chuyên nghiệp và mang tiêu chuẩn quốc tế. Điều
này không những ảnh hưởng lớn tới hoạt động của triển lãm, mà còn là vấn đề quan
trọng trong xúc tiến thương mại trong thời kỳ hội nhập hiện nay, hoặc liên quan tới
vấn đề ngoại giao của các nước bạn với Việt Nam.

Mặt khác, khác với hàng triển lãm của Việt Nam hoặc các sản phẩm tiêu dùng,
Thường là hàng tạm nhập, tái xuất ( hoặc ngược lại ) khác với các sản phẩm
nhập khẩu hay xuất khẩu vĩnh viễn hay sản phẩm tiêu dùng tại Việt Nam
Phần lớn hàng hóa của triển lãm, hội chợ quốc tế đều là hàng tạm nhập - tái
xuất, do đó được miễn thuế hàng hoá xuất nhập khẩu phi mậu dịch, chỉ phải nộp lệ
phí hải quan bằng một phần trăm giá tính thuế (theo giá tính thuế hàng hoá xuất khẩu
phi mậu dịch của cơ quan thuế tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc trung ương ấn
định thời gian)
Tuy nhiên, một số sản phẩm có thể được bán tại triển lãm, hoặc biếu, tặng ở
Việt Nam, hoặc bỏ đi, không tái xuất. Các sản phẩm này cần phải được làm thủ tục,
tờ khai khai báo cụ thể số lượng, tính chất,... trước khi nhập khẩu vào Việt Nam và
được sự cho phép của cơ quan hải quan.
Riêng hàng hoá để bán, mục đích bán cho các tổ chức chuyên doanh tại Việt
Nam sẽ khác với bán lưu niệm tại triển lãm, trong hồ sơ xin phép cần phải có bản sao
hợp đồng ký kết giữa chủ hàng với các tổ chức chuyên doanh tại Việt Nam, và phải
nộp thuế hàng hoá xuất nhập khẩu phi mậu dịch cho Hải quan tại địa điểm triển lãm.
11
Các sản phẩm đem triển lãm, hội chợ cũng có thể dùng xong tại một nơi và
được chuyển đi tiếp cho các triển lãm, hội chợ tại các thành phố, tỉnh thành khác
cũng tại Việt Nam. Từ triển lãm tại thành phố này đến thành phố khác, cần phải được
làm toàn bộ thủ tục hải quan lại.
Riêng các vật phẩm dùng để tiếp tân và phục vụ cho triển lãm, như thực phẩm,
nước ngọt, bia, thuốc lá,... kể cả việc tiếp tế cho chủ hàng và các nhu yếu phẩm khác,
không kể hàng cấm, với số lượng hợp lý sẽ được nhập khẩu miễn thuế (tuy nhiên vẫn
phải nộp lệ phí hải quan). Và các vật phẩm nói trên không được phép bán hoặc
chuyển nhượng tại Việt Nam.
Trong thời hạn lâu nhất là 6 tháng kể từ khi kết thúc triển lãm, hàng thuộc loại
tạm nhập – tái xuất sẽ phải xuất lại sang nước của chủ hàng, nếu không có lý do xác
đáng, cơ quan hải quan sẽ thanh lý các loại hàng này theo luật lệ hiện hành của nước
ta.

Các quy định về nhập khẩu hàng hoá cho triển lãm, hội chợ thương mại quốc tế
trong nước đã được thể hiện rõ trong
1.1.2.2. Thuộc nhiều lĩnh vực và dùng cho nhiều mục đích
Phần lớn các triển lãm, hội chợ quốc tế đều dành cho các sản phẩm của công
nghệ mới, các sản phẩm mới hoặc chưa xuất hiện trên thị trường, nhằm quảng bá sản
phẩm và từ đó tìm kiếm đối tác, ký kết hợp đồng cho sản phẩm mới. Vì vậy, hàng
hoá dành cho triển lãm có thể thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, công nghệ cao, hoặc
hàng hoá thông thường, và dùng cho nhiều mục đích khác nhau, như trưng bày, hoặc
bán tại triển lãm, tuỳ vào tính chất và mục đích của các cuộc triển lãm.
Triển lãm dành cho các sản phẩm sinh thái (Eco-products Int’l Fair) là triển
lãm về các sản phẩm mang tính tiết kiệm, gần gũi với môi trường, các sản phẩm này
có từ các loại xăng, nguyên liệu tiết kiệm và ít khí thải cho môi trường, đến các loại
bồn cầu hoặc nhà vệ sinh công cộng thiết kế rất mới mẻ và độc đáo, có quy trình xử
lý nhanh và hiện đại, không làm hại môi trường. Hoặc triển lãm về công nghệ đóng
tàu và hàng hải Vietship, có sự tham gia của hơn 200 doanh nghiệp trong đó có 70%
là nước ngoài, đã đưa ra được rất nhiều công nghệ mới trong lĩnh vực đóng tàu, thiết
12
bị, hoá chất, thiết bị kiểm tra, trang trí nội thất tàu thuỷ,... Trong triển lãm này, đã có
18 hợp đồng được ký kết trị giá hơn 400 triệu USD, ngoài ra còn tổ chức thành công
các cuộc hội nghị, hội thảo chuyên ngành trong đợt triển lãm. Đây là một trong
những cuộc triển lãm về công nghệ mà thuần tuý là trưng bày sản phẩm.
Các triển lãm vừa mang tính chất trưng bày vừa mang tính chất thương mại,
giao dịch có thể kể đến như Hội chợ thương mại quốc tế Việt Nam (Vietnam Expo)
tổ chức vào tháng 4 hàng năm (Vietnam Expo 2008 được tổ chức từ ngày 9/4 đến
13/4/2008. Hoặc Hội chợ quốc tế Hà Nội (Hanoi Expo) được tổ chức vào tháng 10
hàng năm. Trong khuôn khổ của hội chợ, triển lãm, có các khu vực dành để trưng
bày các thành tựu thương mại, đầu tư, khoa học, văn hoá xã hội, có các khu vực khác
nhau dành cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, và có khu
vực dành riêng cho giao dịch bất động sản, ngân hàng,... tại triển lãm. Hội chợ Hanoi
Expo năm 2007 có các hoạt động lớn diễn ra như diễn đàn doanh nghiệp các nước

ASEAN và các đối tác, tuần lễ văn hoá Bangkok, hội thảo thương mại Hà Nội - Tứ
Xuyên Trung Quốc, và nhiều cuộc toạ đàm mang tính chất quốc tế khác.
1.2. Đặc điểm thị trường logistic in-bound cho hàng Triển lãm, hội chợ
thương mại quốc tế tại Việt Nam
1.2.1. Những đặc tính tổng quát về thị trường
- Quy mô và cơ cấu:
Những thành phần chính tham gia vào thị trường gồm có:
+ Các nhà tổ chức triển lãm, hội chợ
+ Các doanh nghiệp kinh doanh trong ngành logistics
+ Các doanh nghiệp, tổ chức là khách hàng, tham gia vào triển lãm, hội chợ
Ngoài ra, còn có sự tham gia của các cơ quan Hải quan, các đại sứ quán hoặc
các tổ chức thương mại, tổ chức phi chính phủ có liên quan tới từng triển lãm, hội
chợ….
Do đó, khách hàng của các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực logistics
dành cho hàng Triển lãm, hội chợ này chủ yếu là các doanh nghiệp hoặc tổ chức, hay
nói cách khác, đó là các khách hàng công nghiệp trên phạm vi địa lý Việt Nam. Hiện
13
nay, nước ta có khoảng 245000 doanh nghiệp đăng ký hoạt động theo Luật doanh
nghiệp 1999. trong đó 96% là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, sử dụng 2,6 triệu lao
động. Số lượng doanh nghiệp sẽ ngày càng tăng do cơ chế mở cửa tự do kinh doanh
của nước ta hiện nay.
- Các chỉ tiêu phát triển kinh tế Việt Nam năm 2007
Theo báo cáo kết quả kinh tế xã hội năm 2007, nước ta đạt được một số chỉ tiêu
sau:
+ Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt mức cao nhất trong vòng 10 năm qua (8,5%).
+ Dự trữ ngoại tệ tăng, tổng dư nợ nước ngoài của Việt Nam bằng 30,3% GDP
+ Tổng vốn đầu tư toàn xã hội so với GDP đạt 40,6%
+ Mức thu nhập bình quân đầu người năm nay là 715USD, tăng 80USD so với
năm trước + + Tốc độ tăng trưởng khu dịch vụ cao hơn tốc độ tăng trưởng chung của
GDP

+ Kim ngạch xuất khẩu cũng tăng cao (20,5%).
+ Lạm phát cao: 12,63%, giá cả không ổn định
 Việc ổn định giá cả là vô cùng cần thiết do giá cả các yếu tố đầu vào tăng,
dịch vụ lại không thể tăng giá nhanh do cạnh tranh. Mặt khác, cơ hội kinh doanh của
các doanh nghiệp trong lĩnh vực dịch vụ đang được người tiêu dùng và các khách
hàng công nghiệp chú ý tới. Sự tăng trưởng nhanh này hứa hẹn một vị thế mới cho
lĩnh vực dịch vụ trong tương lai.
1.2.2. Các đặc điểm về hành vi của khách hàng
Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình quyết định mua của khách hàng
Đặc thù của thị trường này đó là cung cấp dịch vụ cho các khách hàng công
nghiệp. Mục đích nhằm thoả mãn nhu cầu hậu cần dành cho trưng bày, quảng bá và
giao dịch thương mại xung quanh sản phẩm của khách hàng công nghiệp đó. Không
phải mục đích mua nguyên liệu đầu vào hay mua sản phẩm hữu hình cho doanh
nghiệp.
Những người tham gia vào quá trình quyết định mua gồm có
- Người định hướng
14
- Người quyết định
- Người phê duyệt
- Người mua (ký hợp đồng)
- Người đánh giá
Những người liên quan đến quá trình mua chủ yếu gồm có: ban lãnh đạo,
trưởng phòng, ban phụ trách về xúc tiến hỗn hợp, marketing, trưởng phòng/ban phụ
trách về kinh doanh - giao dịch thương mại, các kỹ sư chịu trách nhiệm về các vấn đề
kỹ thuật cho hàng hoá, sản phẩm, phòng/ban phụ trách về logistics đầu vào đầu ra
cho sản phẩm.
Ngoài ra còn có các cá nhân, phòng ban có chức năng khác như kế toán – tài
chính, phòng kế hoạch, về các vấn đề kỹ thuật.
+ Các yếu tố mà khách hàng cân nhắc khi lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ này:
- Chất lượng dịch vụ và tính chuyên nghiệp: luôn đi kèm với uy tín của thương

hiệu. Do đó, một khi đã giành được khách hàng, giữ họ lại và biến họ thành khách
hàng trung thành là điều không mấy khó khăn đối với các doanh nghiệp đã có thương
hiệu và ấn tượng tốt.
- Quy mô của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ: điều này sẽ đảm bảo cho hàng
hoá của khách hàng luôn đến đúng giờ, được đóng gói và bảo quản tốt,… dựa trên hệ
thống trang thiết bị, kho bãi, phương tiện vận chuyển,… của doanh nghiệp.
- Giá dịch vụ: không phải là vấn đề quan trọng nhất đối với các khách hàng, do
đặc thù của dịch vụ là vận chuyển, giao nhận quốc tế, và là hàng hoá để triển lãm,
nên khách hàng sẵn sàng bỏ ra một khoản chi hợp lý nhằm đảm bảo cho hoạt động
xúc tiến thương mại diễn ra hiệu quả.
- Bảo hiểm cho hàng hoá: vấn đề này có thể do bên cung cấp dịch vụ logistics
chịu trách nhiệm hoặc khách hàng tự mua lấy bảo hiểm cho hàng hoá của mình, đề
phòng trường hợp hàng trong quá trình vận chuyển bị đổ, vỡ, hỏng , gẫy,…
+ Quá trình diễn ra quyết định mua của khách hàng
Diễn ra chủ yếu qua các bước sau:
15
- Bước 1: Xác định nhu cầu. Thông qua các kế hoạch kinh doanh, kế hoạch
marketing và xúc tiến hỗn hợp phát hiện ra sự cần thiết phải đưa sản phẩm đi triển
lãm và đồng thời với điều đó là nhu cầu về nhà cung cấp dịch vụ logistics cho Triển
lãm, hội chợ. Hoặc qua các thông báo mời tham dự triển lãm của các ban tổ chức
triển lãm, cũng như thư mời, quảng cáo của Offical Forwarder (các nhà giao nhận
chính thức) của các triển lãm giới thiệu về dịch vụ.
- Bước 2: Tìm kíêm thông tin: Các nhà giao nhận sẽ gửi hướng dẫn về vận
chuyển cho triển lãm cho doanh nghiệp (Shipping manual) trong đó có ghi rõ giá cả,
thời gian, hoặc lịch tàu, máy bay, các vấn đề cần chú ý… đối với từng loại hàng hoá
được vận chuyển đi. Kèm theo các thư mời, bản đăng ký (Quotation, Acception…)
Ngoải ra, các khách hàng cũng có thể dễ dàng được cung cấp thông tin từ nhà tổ
chức, các websites, đại sứ quán, các tổ chức phi chính phủ có liên quan.
- Bước 3: Đánh giá các phương án: Việc đánh giá này có thể có mặt của tất cả
những người tham gia vào quá trình quyết định mua hoặc chỉ một bộ phận nào đó

hiểu rõ về dịch vụ.
- Bước 4: quyết định mua: sau khi đánh giá các phương án, việc quyết định mua
chủ yếu là của ban lãnh đạo của doanh nghiệp khách hàng làm chủ.
- Bước 5: đánh giá sau mua: các nhà cung cấp dịch vụ logistics chuyên nghiệp
có những phiếu điều tra đi kèm dành cho khách hàng để đo mức độ hài lòng của
khách. Thông thường, nếu như không có phiếu điều tra, các doanh nghiệp luôn đính
kèm theo các bản hướng dẫn (Shipping Manual, Quotation,… ) phiếu ghi những phàn
nàn của khách hàng. Vì điều này là vô cùng quan trọng đối với các nhà cung cấp dịch
vụ, để điều chỉnh dịch vụ của mình cho hợp lý, nhằm làm vừa lòng các khách hàng,
khuyến khích họ thực hiện những lần mua tiếp theo.
1.3. Tình hình cung ứng và cạnh tranh của các doanh nghiệp tham gia vào
thị trường
1.3.1. Các doanh nghiệp tham gia vào thị trường và đặc điểm
1.3.1.1. Các doanh nghiệp Việt Nam
* Cty giao nhận kho vận ngoại thương (Vietrans)
16
Địa chỉ:13 Đường Lý Nam Đế, Thành phố Hà Nội
Điện thoại: (84 - 4) 8 456 444
Fax: (84 - 4) 8 455 829
E-mail:
Được thành lập năm 1970 tại Hải Phòng. Hiện nay Vietrans có trụ sở chính tại
Hà Nội và các chi nhánh tại TP Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Nghệ An, Nha
Trang, Vladivostock, Oddessa – Ukcraine (văn phòng đại diện). Là thành viên sáng
lập hiệp hội VIFFAS - hiệp hội Giao nhận kho vận Việt Nam.
Các dịch vụ cung cấp:
 Vận tải đường hàng không, đường biển, đường bộ đường sắt và vận tải
đa phương thức.
 Giao nhận hàng công trình.
 Giao nhận hàng triển lãm.
 Giao nhận hành lý cá nhân.

 Hàng thu gom, hàng chia lẻ.
 Đại lý tàu biển & môi giới thuê tàu.
 Kinh doanh kho, kho ngoại quan.
 Dịch vụ thủ tục hải quan.
 Chuyển tải.
 Xuất nhập khẩu.
 Dịch vụ chuyển phát nhanh.
 Dịch vụ xây dựng.
 Khai thác cầu cảng.
 Dịch vụ giao hàng từ cửa tới cửa.
Một số số liệu về cơ sở vật chất và trang thiết bị của Vietrans:
Hệ thống kho của Vietrans
17
Thành Phố Kho Bãi
Hà Nội 10.000 m2 7.500 m2
Hải Phòng 120.000 m2 bao gồm 20.000 m2 kho
ngoại quan
85.000 m2
Nghệ An 1.500 m2 1.000 m2
Đà Nẵng 19.000 m2 bao gồm 5.000 m2 kho
ngoại quan
18.000 m2
Quy Nhơn 8.000 m2 18.000 m2
Hồ Chí Minh 9.200 m2 91.000 m2

Trang thiết bị bốc xếp
Xe tải 150 cái
Xe Container 100 cái
Cần cẩu 16 cái
Xe nâng 25 cái

Xe chở Pallet 40 cái
Cân 15 cái
Cẩu cont chuyên dụng 6 cái
Xe kéo 20 cái
Xe mooc 30 cái
Xe tải nhỏ 300 cái
* Công ty Vinatrans
Tel: (84-4) 7322784 - (84-4) 7322864
Fax: (84-4) 7322107
PIC: Mr. Phan Viet Huy – Manager
Mobile : (84-91) 3087548
Email :
Vinatrans là doanh nghiệp 100% vốn nhà nước, trong đó vốn pháp định là 3 000
000 USD và vốn lưu động là 6000000 USD. Thành lập năm 1975, hiện nay
hệ thống CFS của doanh nghiệp (cho cả hàng biển và hàng không) là 2500m2,
kho ướp lạnh liên doanh với công ty TNHH Konoike Transportation 2800 Mts.
Hệ thống kho bãi gồm có
40000 m2 dành cho kho
18
50000 m2 dành cho kho bãi chứa vật tư lộ thiên
Máy kéo, khung container : 40
Xe nâng, cẩu: 10
Hiện đã được chia tách thành các công ty
Vinalink có vốn 36 tỷ, Vinafreight có vốn 27 tỷ, Vinatrans Hà Nội vốn 22 tỷ,
Vinatrans Đà Nẵng vốn 4,5 tỷ. Hiện nay mạng lưới VinaGroup đã rộng khắp toàn
quốc.
Vinatrans Hanoi sau khi trở thành thành viên chính thức của IATA năm 1998 đã
nhanh chóng mở rộng, phát triển dịch vụ của mình trong nước và quốc tế. Có hệ
thống kho bãi tại Hà Nội và văn phòng làm việc tại sân bay Nội Bài. Vận chuyển
phối hợp đường biển và hàng không, trung chuyển qua Singapore và Dubai. Là tổng

đại lý hàng hoá (GSA) của British Airway, Malaysia Airline, China Southern Airline.
Các dịch vụ cung cấp:
- Giao nhận từ kho chủ hàng hoặc sân bay đến sân bay hoặc kho người nhận với
đa dạng các mặt hàng: dày dép, may mặc thời trang, hàng máy móc thiết bị, hàng thủ
công mỹ nghệ, hàng rau quả.
- Vận chuyển kết hợp đường biển và đường hàng không
- Dịch vụ phát chuyển nhanh (chứng từ, hàng mẫu, hàng thương phẩm)
- Gom hàng lẻ xuất khẩu và chia lẻ hàng nhập khẩu
- Dịch vụ khai quan và giao nhận nội địa
- Dịch vụ đại lý hải quan
- Đại lý bán cước và hợp đồng vận chuyển với nhiều hãng hàng không lớn trên
thế giới cam kết tại Việt Nam : SQ, TG, VN, BA...
- Dịch vụ hậu cần cho triển lãm và dự án (Exhibition & Project handling)
- Trung chuyển cho Lào và Campuchia (cargo transit to Laos & Cambodia)
* Công ty SAFI (Sea & Air Freight International)
Số 39, đường Đoàn Như Hải, Quận 4, tp Hồ Chí Minh

19

Tel: 08 8253560
Fax: 08 8253610
Email:
Thành lập tháng 10/1992 theo quyết định 05/TCCB của Tổng cục Hàng Hải
Việt Nam, bộ Giao thông - vận tải. Hiện nay đã là thành viên của nhiều hiệp hội, tổ
chức trên thế giới như IATA (International Air Transport Association – 1993),
VISABA (Vietnam Shipbroker and Agent Association) năm 1994, VIFFAS (Vietnam
Frieght Forwarder Association) năm 1997,… SAFI hiện đang có 7 chi nhánh và văn
phòng đại diện đó là SAFI Hà Nội, Hải Phòng, Vũng Tàu, Đà Nẵng, Quy Nhơn,
Quảng Ninh, Cần Thơ. SAFI thời gian đầu là đại lý chính thức cho hãng
DONGNAMA Logistics Service (trụ sở chính tại Seoul, Hàn Quốc), sau đó là đại lý

cho COSCO (China Ocean Shipping Company ) và YAS, hiện nay có hai công ty liên
doanh thuộc SAFI đó là COSFI JV giữa SAFI và COSCO, và Yusen Air & Sea
Service Vietnam Co., Ltd, giữa SAFI và YAS.
Các dịch vụ chủ yếu:
- Vận chuyển đa phương thức: giao nhận qua đường biển, hàng không, tàu hoả,
đường bộ, dịch vụ gom hàng
- Dịch vụ logistics: trọn gói (door – to – door service), môi giới hải quan, kho
vận và phân phối hàng hoá, trung gian vận chuyển, vận chuyển hàng cho các triển
lãm và dự án.
- Dịch vụ cho thuê và đại lý tàu
- Dịch vụ vận chuyển, đóng gói nội địa
- Xúc tiến thương mại, xuất, nhập khẩu
Một số số liệu về thiết bị, phương tiện:
Equipments
Ô tô kéo trên 400 Tấn 01
Ô tô kéo trên 150 Tấn 01
Ô tô kéo trên 50 Tấn 02
Ô tô kéo trên 45 Tấn 04
Ô tô kéo trên 25 Tấn 04
20
đầu máy kéo 450 CV 01
Đầu máy kéo 300 CV 02
Đàu máy kéo 250 CV 20
Xe tải Lorry 20
Ô tô tải 40
Cẩu 60 TấnMobile crane 60 tonnes 01
Cẩu 45 TấnMobile crane 45 tonnes 01
Cẩu 25 tấn Mobile crane 25 tonnes 01
Cẩu 16 TấnMobile crane 16 tonnes 02
Tàu bốc dỡ 600 TấnBarge 500 tonnes 01

Tàu bốc dỡ 200 TấnBarge 200 tonnes 02
Tàu bốc dỡ 300 TấnBarge 300 tonnes 02
Jack 100 tonnes 12
Jack 70 tonnes 06
Jack 50 tonnes 06
Máy nâng 08
Máy lăn 100 tấnRoller 100 tonnes 06
Máy lăn 50 tấn Roller 50 tonnes 06
* Công ty Cổ phần Logistics Tân Thế Giới - Vinashin New World Logistics
Là doanh nghiệp mới trong lĩnh vực logistics dành cho triển lãm và hội chợ tại
Việt Nam. Công ty được thành lập trực thuộc tập đoàn kinh tế Vinashin và nhằm khai
thác và củng cố thêm những lợi thế về tàu biển, kho bãi, hoạt động xuất nhập khẩu…
sẵn có của tập đoàn kinh tế. Logistics là một hướng đi quan trọng song song với nền
công nghiệp đóng tàu và các hoạt động kinh tế khác của tập đoàn Vinashin.
Năm 2008, VNW được chọn làm official forwarder cho triển lãm Vietship 2008
– là triển lãm quốc tế lớn được tổ chức 2 năm một lần. Triển lãm diễn ra rất quy mô,
giới thiệu về các sản phẩm liên quan đến công nghệ đóng tàu, hàng hải, vận tải, thiết
kế nội thất tàu thuỷ, các thiết bị, hoá chất liên quan,… Việc trở thành nhà giao nhận
chính thức cho một triển lãm lớn đã giúp làm thay đổi vị thế của VNW trên thị
trường logistics dành cho hàng Triển lãm, hội chợ quốc tế tại Việt Nam hiện nay.
Các dịch vụ chính mà VNW tham gia
Dịch vụ giao nhận và hậu cần: đặc biệt là các dịch vụ dành cho Xuất- nhập
khẩu. Khách hàng chính hiện nay của VNW là các doanh nghiệp thuộc tập đoàn
Vinashin như Huyndai Vinashin Shipyard Co., Ltd, Soai Rap Shipbuilding Company,
21
… hoặc các doanh nghiệp thuộc các ngành công nghiệp nặng hoặc nhẹ như thép, xe
tải, dệt may,…
Trong dịch vụ này, VNW cung cấp kho bãi, phân phối, vận chuyển, nâng hạ
hạng nặng, làm thủ tục hải quan,… và nhiều vấn đề khác
Dịch vụ tàu thuỷ: cho thuê tàu, đại lý, cung cấp thiết bị, nguyên vật liệu,…

Dịch vụ Triển lãm, hội chợ quốc tế: bao gồm các công đoạn chuẩn bị trước,
trong và sau triển lãm, đóng gói, vận chuyển, liên hệ ban tổ chức cho các hàng hoá
xuất ra nước ngoài để triển lãm, hoặc dịch vụ trọn gói dành cho hàng hóa nhập vào
Việt Nam để triển lãm.
Trụ sở chính
40 Lê Hồng Phong, Thành phố Nha Trang
Tel: +84 58 877 637
Fax: +84 58 877 638
Email:
Website:
Ngoài ra, VNW hiện nay có các chi nhánh và văn phòng đại diện tại Hà Nội, Tp
Hồ Chí Minh, Quảng Ngãi, và Hải Phòng.
1.3.1.2.. Các doanh nghiệp nước ngoài
* Translink Express
Là doanh nghiệp đầu tiên và duy nhất hiện nay chuyên về logistics cho hàng
Triển lãm và hội chợ quốc tế tại Việt Nam. Chiếm đến 70% thị phần của thị trường
này. Ngoài vấn đề Triển lãm và hội chợ quốc tế, Translink còn kinh doanh các dịch
vụ vận chuyển hàng hoá thông thường, đóng gói và vận chuyển hành lý cá nhân, và
nhiều dịch vụ khác liên quan đến logistics. Chi tiết về hoạt động của Translink sẽ
được trình bày rõ nét hơn tại chương II.
* Nissin Logistic
Tập đoàn Nissin (Nissin Corporation) là một trong 4 đơn vị kinh doanh trong
lĩnh vực giao nhận và logistics lớn nhất Nhật Bản. Có số vốn pháp định là 6.1 tỷ yen,
921 nhân viên và lao động, với trung bình 132.8 tỉ Yên doanh thu hàng năm. Có 281
22
chi nhánh và văn phòng đại diện tại 23 quốc gia trên khắp thế giới. Được thành lập
14/12/1938 tại Onoe-cho, Naka-ku, thành phố Yokohama, hiện nay trụ sở chính của
tập đoàn tại số 5, Sanban-cho, Chioyada-ku, Tokyo.
Văn phòng đại diện tại Việt Nam (công ty Nissin Logistics VN) được thành lập
3/2006, với số vốn 500 000 USD. Mặc dù còn khá mới mẻ trên thị trường tuy nhiên

đã đảm nhận được nhiều hợp đồng từ phía công ty mẹ và một số triển lãm, sự kiện tổ
chức tại Việt Nam. Trong đó Nissin Logistics tham gia vào các triển lãm như Triển
lãm về các sản phẩm sinh thái, hay làm nhà vận chuyển, giao nhận chính cho triển
lãm của Toyota tại Việt Nam,…
Các dịch vụ mà Nissin Logistics VN cung cấp : xuất nhập khẩu hàng không,
hàng biển
Dịch vụ hải quan
Hậu cần cho Triển lãm, hội chợ
Dịch vụ chuyển nhà, chuyển văn phòng
Kho bãi và phân phối hàng hoá
Các dịch vụ vận chuyển, giao nhận bằng xe tải và container
Vận tải đa phương thức
Trụ sở công ty Nissin Logistics VN
Công ty NISSIN LOGISTICS (VN)
Phòng 403, toà nhà OCEAN PARK, số 1 Đào Duy Anh, Quận Đống Đa, Hà
Nội
Ngoài ra, Nissin Logistic VN có chi nhánh tại Tp HCM
1.3.1.2. Kết luận chung về tình hình thị trường, khách hàng
Hiện nay, trên thị trường Việt Nam có khoảng 600 doanh nghiệp đăng ký hoạt
động kinh doanh các vấn đề liên quan tớsi logistics. Trong đó VIFFAS có 97 hội viên
(77 chính thức và 20 hội viên liên kết). Thời gian hoạt động trung bình của các doanh
nghiệp là 5 năm với vốn đăng ký trung bình khoảng 1.5 tỷ đồng/doanh nghiệp, như
vậy, các doanh nghiệp này hầu như đều còn trẻ và quy mô loại vừa và nhỏ. 80%
trong số này là các doanh nghiệp tư nhân. Chi phí cho ngành logistics của Việt Nam
23
hàng năm chiếm khoảng 15% GDP. Theo kết quả nghiên cứu của viện Numura (Nhật
Bản), dịch vụ logistics trong vận tải hàng hải của các doanh nghiệp trong nước hiện
nay mới cung cấp được 25% nhu cầu.
Với quy mô vốn như thế, các doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong việc gia nhập
thị trường logistics thế giới, hơn nữa, tính chuyên sâu của các doanh nghiệp Việt

Nam chưa cao, phần lớn chỉ đáp ứng được một vài công đoạn đơn giản trong cả khâu
cung ứng logistics. Hơn nữa, vấn đề logistics hiện nay là toàn cầu, nhiều hãng nước
ngoài đã đặt chân vào đến Việt Nam, tuy nhiên các doanh nghiệp Việt Nam hầu như
đều chưa có văn phòng đại diện tại nước ngoài. Theo nhận xét của ông Nguyễn Việt
Hoà, Giám đốc Công ty Cổ phần Container Việt Nam (Viconship Vietnam), ngành
công nghiệp logistics của Việt Nam hiện vẫn đang ở thời kỳ phôi thai, phần lớn của
hệ thống logistics chưa được thực hiện ở một cách thức thống nhất, đa phần các
doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này đều nhỏ bé về địa bàn hoạt động và hạn
chế về vốn cũng như về công nghệ thông tin.
Về thị trường Logistics cho hàng Triển lãm, hội chợ thương mại quốc tế tại Việt
Nam hiện nay, là một thị trường mới, chuyên biệt và có nhiều đặc thù. Ngoài
Translink Express hay Vinashin New World Logistics, chưa có các doanh nghiệp
chuyên sâu vào thị trường này, mà chỉ coi Triển lãm, hội chợ quốc tế là một phần
trong những hoạt động logistics của họ. Vì thê, chưa xây dựng được những tiêu chí,
tiêu chuẩn riêng phục vụ cho Triển lãm, hội chợ, cũng như chưa đủ điều kiện để các
nhà tổ chức lựa chọn làm nhà giao nhận chính thức (Official Forwarder).
Do đó, thị trường này hiện nay vẫn còn rất nhiều tiềm năng cho các doanh
nghiệp Việt Nam khai thác và mang lại nhiều cơ hội.
1.4. Xu hướng vận động của thị trường Logistíc in-bound cho hàng Triển
lãm, hội chợ thương mại quốc tế tại Việt Nam.
1.41. Những yếu tố tác động đến nhu cầu trên thị trường dịch vụ
1.4.1.1. Sự phát triển của triển lãm, hội chợ tại Việt Nam
Thống kê từ website Vietnam Trade Fair, của công ty cổ phần phát triển
Thương mại điện tử Việt Nam:
24
Năm 2007, có 149 cuộc Trỉên lãm, hội chợ quy mô lớn, trong đó có 75 cuộc
Triển lãm, hội chợ quốc tế, chiếm tỷ lệ 50.33%.
Năm 2008, tại Việt Nam có 167 cuộc Triển lãm hoặc hội chợ với quy mô lớn,
trong đó có 89 cuộc Triển lãm, hội chợ quốc tế. Chiếm tỷ lệ 53.29%.
Như vậy, trong hai năm qua, số lượng các cuộc Triển lãm, hội chợ đang có xu

hướng tăng, số lượng các cuộc Triển lãm, hội chợ quốc tế cũng tăng (18,67%) và tỷ
trọng trong số tất cả các cuộc triển lãm, hội chợ diễn ra trong nước cũng tăng lên từ
50.33% tới 53.29%.
Trong quá trình mở cửa, hội nhập kinh tế và gia nhập WTO của Việt Nam, vấn
đề xúc tiến thương mại luôn luôn được quan tâm hàng đầu. Các Hội chợ, triển lãm
hay Sự kiện, quan hệ công chúng (PR) được tổ chức chuyên nghiệp, và có quy mô
đang ngày càng được mở ra nhiều hơn. Điều này sẽ kết nối các doanh nghiệp Việt
Nam lại với nhau gần hơn, cũng như kết nối với các đối tác nước ngoài hay tạo nên
hình ảnh tốt đẹp về Việt Nam và nền kinh tế mới hiện nay đối với các quốc gia khác
trên thế giới.
1.4.1.2. Chuỗi cung ứng và nhận thức của các doanh nghiệp
Hệ thống cung ứng giá trị (VDS – Value Delivery System) được phát triển dựa
trên lý thuyết về chuỗi giá trị (Value Chail). Chuỗi giá trị được coi là công cụ tìm
kiếm các giải pháp tạo giá trị lớn hơn cho khách hàng
Trong đó:
Mỗi công ty là một tập hợp các hoạt động cung ứng giá trị gia tăng, gồm 9 hoạt
động mang tính chiến lược:
+ 5 hoạt động chủ chốt:
Hậu cần đầu vào
Sản xuất
Hậu cần đầu ra
Marketing và bán hàng
Dịch vụ
25

×