Tải bản đầy đủ (.doc) (115 trang)

Nghiên cứu tình hình thực hiện kế hoạch hoá gia đình tại tỉnh Hậu Giang năm 2008

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.76 MB, 115 trang )

1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC
PHAN THANH TÙNG
NGHIÊN CỨU TÌNH HÌNH
NGHIÊN CỨU TÌNH HÌNH
THỰC HIỆN KẾ HOẠCH HOÁ GIA ĐÌNH
THỰC HIỆN KẾ HOẠCH HOÁ GIA ĐÌNH
TẠI TỈNH HẬU GIANG NĂM 2008
TẠI TỈNH HẬU GIANG NĂM 2008
LUẬN ÁN CHUYÊN KHOA CẤP II
HUẾ - 2009
2
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi,
các số liệu và kết quả trong Luận án này là trung thực và chưa từng
được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Người cam đoan
Phan Thanh Tùng
3
KÝ HIỆU VIẾT TẮT
BPTT : Biện pháp tránh thai
BPTTHĐ : Biện pháp tránh thai hiện đại
BPTTTT : Biện pháp tránh thai hiện đại
CBYT : Cán bộ y tế
CPR : Tỷ lệ cặp vợ chồng sử dụng các biệh pháp tránh thai
CSSK : Chăm sóc sức khoẻ
CSSKSS : Chăm sóc sức khoẻ sinh sản
CSSKSS-KHHGĐ : Chăm sóc sức khoẻ sinh sản kế hoạch hoá gia đình
CSTS : Chăm sóc thai sản


DCTC : Dụng cụ tử cung
DS-KHHGĐ : Dân số và kế hoạch hoá gia đình
HĐHKN : Hút điều hoà kinh nguyệt
DVKHHGĐ : Dịch vụ kế hoạch hóa gia đình
HĐND : Hội đồng nhân dân
KHHGĐ : Kế hoạch hoá gia đình
NHS : Nữ hộ sinh
UBDS,GD&TE : Ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em
UBND : Ủy ban nhân dân
UNFPA : Ủy Ban Dân số Liên hợp quốc
TCYTTG : Tổ chức Y tế thế giới
4
MỤC LỤC
Trang
ĐẶT VẤN ĐỀ 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
1.1. CÁC KHÁI NIỆM 3
1.1.1. Khái niệm KHHGĐ 3
1.1.2. Lịch sử của tránh thai và KHHGĐ 3
1.1.3. Lợi ích của KHHGĐ 4
1.1.4. Dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản - KHHGĐ 5
1.1.5. Các biện pháp tránh thai 6
1.2. PHÁT TRIỂN DÂN SỐ - KẾ HOẠCH HOÁ GIA ĐÌNH 11
1.2.1. Phát triển dân số trên thế giới 11
1.2.2. Phát triển dân số ở Việt Nam 13
1.2.3. Tình hình thực hiện dân số - KHHGĐ 15
1.2.4.Tình hình thực hiện Công tác DS-KHHGĐ ở Việt Nam 20
1.2.5. Tình hình phát triển DS-KHHGĐ của địa bàn nghiên cứu 25
Chương 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 31
2.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU 31

2.1.1. Tiêu chí lựa chọn 31
2.1.2. Tiêu chí loại trừ 31
2.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 31
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu 31
2.2.2. Phương pháp chọn mẫu và cở mẫu 31
2.2.3. Phương pháp thu thập thông tin 33
2.2.4. Các chỉ số nghiên cứu 39
2.2.5. Kiểm soát sai lệch 40
2.2.6. Công cụ thu thập thông tin 41
5
2.2.7. Y đức 41
2.3. XỬ LÝ SỐ LIỆU 41
Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 43
3.1. THỰC TRẠNG SỬ DỤNG CÁC BIỆN PHÁP TRÁNH THAI 43
3.1.1. Một số đặc điểm của đối tượng nghiên cứu 43
3.1.2. Tình hình thực hiện kế hoạch hóa gia đình 45
3.1.3. Hiện trạng sử dụng các biện pháp tránh thai 47
3.2. CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN KHHGĐ 52
3.2.1.Các yếu tố liên quan đến biện pháp tránh thai 52
3.2.2. Các yếu tố liên quan đến sinh con thứ 3 trở lên 54
Chương 4: BÀN LUẬN 62
4.1. THỰC TRẠNG SỬ DỤNG CÁC BIỆN PHÁP TRÁNH THAI 62
4.1.1. Một số đặc điểm của đối tượng nghiên cứu 62
4.1.2. Tình hình thực hiện kế hoạch hóa gia đình 63
4.1.3. Hiện trạng sử dụng các biện pháp tránh thai 68
4.2. YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN KHHGĐ 77
4.2.1.Các yếu tố liên quan đến biện pháp tránh thai 77
4.2.2. Các yếu tố liên quan đến sinh con thứ 3 trở lên 79
KẾT LUẬN 89
1. Thực trạng sử dụng các biện pháp tránh thai 89

2. Các yếu tố liên quan đến kế hoạch hóa gia đình 89
KIẾN NGHỊ 91
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
6
DANH MỤC BẢNG
Bảng Tên bảng Trang
Bảng 1.1. Tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên cả nước 22
Bảng 1.2.Tỷ lệ sử dụng các biện pháp tránh thai 26
Bảng 1.3. Tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên 27
Bảng 1.4 . Tỷ lệ nạo, phá thai của phụ nữ 15-49 tuổi 28
Bảng 3.1. phân bổ các ngành nghề 43
Bảng 3.2. Trình độ học vấn 44
Bảng 3.3.Tỷ lệ kết hôn theo nhóm tuổi 45
Bảng 3.4. Tuổi kết hôn trung bình theo vùng sinh sống 45
Bảng 3.5. Tỷ lệ các nguồn truyền thông về KHHGĐ 46
Bảng 3.6. Tỷ lệ sử dụng các biện pháp tránh thai theo năm 47
Bảng 3.7. Thời gian áp dụng BPTT 48
Bảng 3.8. Số con hiện có của cặp vợ chồng 49
Bảng 3.9. Tỷ lệ sử dụng các biện pháp tránh thai theo tuổi 50
Bảng 3.10. Tỷ lệ sử dụng các BPTT theo số con hiện còn sống 51
Bảng 3.11. Lý do không sử dụng BPTT 51
Bảng 3.12. Tỷ lệ thất bại của các biện pháp tránh thai 52
Bảng 3.13. Tỷ lệ sử dụng BPTT theo nơi sinh sống 52
Bảng 3.14. Tuổi trung bình sử dụng biện pháp tránh thai 53
Bảng 3.15. Tuổi kết hôn trung bình với việc sử dụng BPTT 53
Bảng 3.16. Số con trung bình với việc sử dụng BPTT 53
Bảng 3.17. Sử dụng BPTT với việc sinh con thư 3 trở lên 54
Bảng 3.18. Tuổi sinh con lần đầu với việc sinh con thứ 3 trở lên 55
Bảng 3.19. Tỷ lệ hiểu biết các BPTT của phụ nữ sinh con thứ 3 trở lên 56

Bảng 3.20. Tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên theo dân tộc 57
Bảng 3.21. Tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên theo tôn giáo 58
Bảng 3. 22. Tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên theo nơi sinh sống 58
Bảng 3.23. Tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên theo nghề nghiệp 59
Bảng 3.24. Tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên theo kinh tế hộ gia đình 59
Bảng 3.25. Lý do sinh con thư 3 trở lên 60
Bảng 3.26. Người quyết định sinh con thứ 3 trở lên trong hộ gia đình 60
Bảng 3.27. Tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên do vỡ kế hoạch 61
Bảng 3.28. Tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên
theo khoảng cách từ nhà đến trạm y tế xã 61
7
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ Tên biểu đồ Trang
Biểu đồ 3.1. Phân phối đối tượng nghiên cứu theo nhóm tuổi 43
Biểu đồ 3.2. Tình trạng kinh tế hộ gia đình 44
Biểu đồ 3.3 . Hiểu biết biện pháp tránh thai 46
Biểu đồ 3.4. Khách hàng chọn dịch vụ KHHGĐ 47
Biểu đồ 3.5. Tỷ lệ cơ sở cung cấp dịch vụ KHHGĐ 48
Biểu đồ 3.6. Tỷ lệ số con đã có khi bắt đầu sử dụng BPTT 49
Biểu đồ 3. 7. Tỷ lệ nữ Tỷ lệ các BPTT đã được áp dụng 50
Biểu đồ 3.8. Tỷ lệ sử dụng các BPTT theo trình độ học vấn 54
Biểu đồ 3.9. Tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên theo nhóm tuổi kết hôn 55
Biểu đồ 3.10. Tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên chia theo số con 56
Biểu đồ 3.11. Tỷ lệ sinh con thứ 3 theo trình độ học vấn 57
45.23
25.85
19.26
5.97
1.821.65
0.23

8
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nghị quyết 04-NQ/HNTW ngày 14 tháng 10 năm1993 của Hội nghị lần thứ
tư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá VII đã chỉ rõ: “Công
tác Dân số - Kế hoạch hoá gia đình là một bộ phận của chiến lược phát triển đất
nước, là một trong những vấn đề kinh tế - xã hội hàng đầu của nước ta, là một yếu
tố cơ bản để nâng cao chất lượng cuộc sống của từng người, từng gia đình và toàn
xã hội” [17]. Nghị quyết 47 – NQ/TW ngày 23 tháng 3 năm 2005 của Bộ Chính trị
về đẩy mạnh thực hiện chính sách Dân số và Kế hoạch hoá gia đình đã tiếp tục
khẳng định: “Tiếp tục quán triệt và cương quyết thực hiện các quan điểm cơ bản
của Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương khoá VII, phấn đấu
sớm đạt được mục tiêu về ổn định quy mô dân số, đồng thời nâng cao chất lượng
dân số Việt Nam” [6].
Thực hiện Công tác kế hoạch hoá dân số là trách nhiệm của toàn xã hội, của
nam nữ công dân, trước tiên là trách nhiệm về chỉ đạo thường xuyên của các Bộ, Uỷ
ban Nhân dân các cấp [25]. Đầu tư cho công tác dân số là đầu tư cho sự phát triển
bền vững và mang lại hiệu quả kinh tế xã hội trực tiếp, gián tiếp và rõ rệt [49].
Sau 5 năm triển khai thực hiện Quyết định 147/2000/QĐ-TTg, cùng với
thực hiện tốt công tác chăm sóc sinh sản, tỉnh Hậu Giang đã có nhiều nỗ lực để đạt
được mục tiêu của chiến lược chung của cả nước. Tính đến năm 2007, quy mô dân
số của tỉnh 802.979 nguời, tổng tỷ suất sinh là 1,98, tỷ lệ tăng dân số 12,39%o, tỷ lệ
sử dụng các biện pháp tránh thai hiện đại 69,32%.
Do ảnh hưởng chung về tình hình phát triển dân số của cả nước từ sau năm
2003 đến nay kết quả thực hiện chính sách Dân số - Kế hoạch hoá gia đình chững
lại. Tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên ở mức 10,16 % và có xu hướng gia tăng ở hầu hết
các địa phương; có 11,8% cặp vợ chồng trong độ tuổi 15 - 49 chưa thực hiện biện
pháp tránh thai, tỷ lệ nạo/phá thai và hút điều hoà kinh nguyệt 11,74 %. Tình hình
này đã gây khó khăn khi thực hiện chính sách về Dân số - kế hoạch hoá gia đình,
ảnh hưởng đến việc duy trì mức sinh thay thế, làm cản trở phát triển kinh tế - xã hội
9

và nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, làm chậm quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá và đặt cho tỉnh Hậu Giang trước nguy cơ phải tiếp tục đối mặt với
những thử thách, có thể có những điều quy định của các giải pháp về dân số, kế
hoạch hoá gia đình chưa được thực hiện tốt [10], [11], [40].
Để phát huy thành quả đạt được và khắc phục những mặt tồn tại, thiếu sót.
Cần có các giải pháp để can thiệp hữu hiệu, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu
Chiến lược quốc gia về Dân số vào năm 2010. Do vậy, tiếp tục đẩy mạnh chính
sách dân số, kế hoạch hoá gia đình gắn liền với phát triển kinh tế - xã hội là một
trong những nhiệm vụ trọng tâm và cấp bách của tỉnh Hậu Giang trong thời gian
tới.
Do vậy, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài “Nghiên cứu tình hình thực
hiện kế hoạch hoá gia đình tại tỉnh Hậu Giang năm 2008” nhằm hướng đến các
mục tiêu như sau:
1. Nghiên cứu tình hình sử dụng biện pháp tránh thai của các cặp vợ chồng
trong độ tuổi sinh đẻ (15 - 49 tuổi);
2. Đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch hóa gia đình và các yếu tố liên quan
tại tỉnh Hậu Giang năm 2008.
10
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. CÁC KHÁI NIỆM
1.1.1. Khái niệm kế hoạch hoá gia đình
Theo định nghĩa của Tố chức Y tế thế giới (TCYTTG) thì kế hoạch hoá gia đình
(KHHGĐ) bao gồm những vấn đề để thực hiện giúp cho các cá nhân hay cặp vợ chồng để
đạt được những mục tiêu: tránh những trường hợp sinh không mong muốn; điều hoà
khoảng cách giữa các lần sinh; chủ động thời điểm sinh con cho phù hợp tuổi của bố mẹ.
Theo Pháp lệnh Dân số Việt Nam năm 2003: “KHHGĐ là sự nỗ lực của Nhà
nước, xã hội để mỗi cá nhân, cặp vợ chồng tự nguyện quyết định số con, thời gian
sinh con và khoảng cách giữa các lần sinh nhằm đảm bảo sức khoẻ, nuôi dạy con có
trách nhiệm, phù hợp với chuẩn mực xã hội và điều kiện sống của gia đình”

Như vậy, KHHGĐ là sự cố gắng có ý thức của các cặp vợ chồng nhằm điều
chỉnh số con và khoảng cách sinh con. KHHGĐ không những chỉ bao hàm việc lựa
chọn các biện pháp để tránh thai (BPTT) mà còn là những cố gắng của các cặp vợ
chồng để có thai và sinh con [67], [82].
1.1.2. Lịch sử của tránh thai và KHHGĐ
Trong suốt quá trình lịch sử, nam giới và phụ nữ luôn quan tâm đến việc
tránh thai (có nghĩa là "chống lại việc thụ thai"), hay tránh có thai bằng cách ngăn
không cho tinh trùng kết hợp với trứng. Từ thời cổ đại, người Ai Cập đã đặt phân cá
sấu vào trong âm đạo của người phụ nữ để ngăn không cho tinh dịch di chuyển qua
cổ tử cung; người Do Thái sử dụng biện pháp phá vỡ sự liên tục của giao hợp
(coitus interruptus) (rút dương vật ra khỏi âm đạo trước khi xuất tinh); đến ngày
nay con người có các thuốc tránh thai dạng uống, triệt sản Tóm lại, con người
luôn tìm cách để tránh thụ thai. Trong những thập niên gần đây, các nhà khoa học
mới phát triển các phương pháp đáng tin cậy hơn để tránh mang thai. Tuy nhiên,
hàng năm ở Mỹ vẫn có hơn 3 triệu nữ thanh thiếu niên và phụ nữ mang thai không
có chủ ý.
11
Có nhiều phương pháp tránh thai, một số phương pháp trong những phương
pháp này đòi hỏi phải có sự hỗ trợ của các bác sĩ. Không phải tất cả các phương pháp
tránh thai đều thuận tiện, an toàn và có hiệu quả như nhau; có nhiều sự khác biệt giữa
phương pháp này với phương pháp kia. Trên thực tế, trừ khi không có bất kỳ hoạt
động tình dục nào với bạn tình, còn không thì chẳng có phương pháp tránh thai nào là
có hiệu quả 100% cả. Hơn nữa, tránh thai thất bại thường là do sử dụng sai cách, sử
dụng không kiên định, hay không sử dụng những phương pháp và DCTT [67].
1.1.3. Lợi ích của KHHGĐ
Về mặt lịch sử, nhiều cộng đồng và xã hội không khuyến khích sử dụng
BPTT để đảm bảo sự tồn tại của các thành viên trong cộng đồng. Nhưng người Mỹ
và những người khác trên thế giới lại quan tâm đến các phương pháp kiểm soát sự
sinh đẻ đến như vậy? Có rất nhiều lý do, nhưng một lý do quan trọng là do sự bùng
nổ dân số trên trái đất, bao gồm cả việc tài nguyên thiên nhiên ngày càng ít đi và thế

giới không có khả năng chống đỡ nổi với việc gia tăng số lượng con người. Trong
hầu hết quá trình lịch sử của con người, dân số thế giới luôn ở mức tương đối thấp
do tỷ lệ trẻ sơ sinh chết cao, tuổi thọ của con người thấp do bệnh tật, dịch bệnh, vệ
sinh kém, thiếu ăn, thiếu các phương tiện chăm sóc sức khỏe Nhưng khi các tiến
bộ về y học phát triển rộng khắp trên thế giới, dân số trên trái đất “bùng nổ”. Trên
thực tế, cứ 35 năm thì số lượng con người trên trái đất tăng lên gấp hai, dân số tăng
lên này chủ yếu tập trung ở những nước đang phát triển. Do sự khủng hoảng về dân
số này, chính phủ nhiều nước như Trung Quốc đã quyết định quy định số trẻ em
được sinh ra cho mỗi gia đình.
KHHGĐ cũng đóng vai trò quan trọng đối với việc bảo vệ sức khỏe thể
chất của cả mẹ lẫn con. Đối với hầu hết phụ nữ, trong những năm sinh sản đầu
(khoảng từ 20 đến 39 tuổi) mang thai và sinh con là việc khá an toàn. Nhưng đối
với những phụ nữ lớn hơn hay nhỏ hơn tuổi đó, hay những phụ nữ sinh con dày
(có nghĩa ít hơn 2 năm lại sinh một lần), thì nguy cơ gặp tai biến sản khoa là khá
cao: tử vong ở trẻ sơ sinh, gây tử vong ở mẹ. Ví dụ, trẻ em do phụ nữ trên 40
tuổi hay dưới 19 tuổi sinh ra có nguy cơ nhẹ cân cao, và do đó chúng dễ bị các
12
khiếm khuyết khác nhau khi sinh, thậm chí có thể bị tử vong. Ở trường hợp sau
(phụ nữ sinh con khi chưa được 19 tuổi), ước tính ở Mỹ có khoảng gần 1 triệu nữ
thanh thiếu niên mang thai mỗi năm, và tỷ lệ em bé sinh ra bởi những người mẹ
này có cân nặng dưới 2,5 kg là rất nhiều. Tuy nhiên, không phải tất cả các phụ
nữ trên 40 tuổi và dưới 19 tuổi mang thai đều dẫn đến những vấn đề này mà
chúng tôi chỉ muốn nói nguy cơ gặp vấn đề này cao.
KHHGĐ cũng có thể giúp đảm bảo sức khỏe tâm lý cho bà mẹ và các thành
viên khác trong gia đình. Cả việc sinh con lẫn trở thành cha mẹ đều là những vấn đề
quan trọng và căng thẳng trong cuộc sống. Hơn nữa, làm cha mẹ là một sự cam kết
lâu dài về mặt tình cảm, xã hội và tài chính. Chọn thời điểm thích hợp để có con là
việc làm quan trọng nhất mà hai vợ chồng có thể làm để giảm bớt những căng thẳng
về tình cảm liên quan đến việc mang thai và làm cha mẹ.
Theo tuyên bố UNFPA nhân Ngày Dân số Thế giới năm 2008 đã khẳng

định: “Lợi ích của KHHGĐ không chỉ bó gọn trong cuộc đời của chúng ta mà còn
cho cả gia đình và dân tộc” và đưa ra 3 lý do phải KHHGĐ đó là: (1) KHHGĐ cứu
sống sinh mạng con người, là biện pháp can thiệp có tác động lớn giúp nâng cao sức
khỏe phụ nữ (2) KHHGĐ đóng vai trò quan trọng trong việc tạo quyền năng cho
phụ nữ và bình đẳng giới (3) KHHGĐ là biện pháp hiệu quả trong cuộc chiến chống
đói nghèo, cha mẹ có thể có kế hoạch cho tương lai và dành nhiều nguồn lực của
mình hơn cho giáo dục và sức khỏe của từng đứa con, và điều đó có lợi cho gia
đình, cộng đồng và quốc gia. Trong các yếu tố quyết định mức sinh, thì thực hiện
KHHGĐ và tỷ lệ đang sử dụng BPTT là yếu tố tác động mạnh nhất đối với việc
giảm mức sinh (nó giải thích tới 75% sự thay đổi mức sinh) [58], [67].
1.1.4. Dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản - KHHGĐ
Sử dụng dịch vụ chăm sóc thai sản, KHHGĐ không chỉ là cung cấp
phương tiện, kỹ thuật y tế trong chăm sóc thai sản, kế hoach hoá gia đình không
mà còn phải sát hợp với nhu cầu của đối tượng. Khái niệm dịch vụ là một thị
trường, sự tồn tại của dịch vụ phụ thuộc vào 2 nhóm chủ yếu: người cung cấp
dịch vụ và người sử dụng dịch vụ. Trong chăm sóc thai sản, sử dụng dịch vụ vô
13
cùng quan trọng quyết định con số chết mẹ do tai biến sản khoa và các thương
tổn khác do mang thai và sinh đẻ.
Dịch vụ chăm sóc thai sản, KHHGĐ không bao gồm cung cấp dịch vụ cơ
bản theo chức năng các tuyến chăm sóc bao gồm chăm sóc trước, trong và sau sinh
và hỗ trợ các biện pháp KHHGĐ phù hợp với tùng đối tượng trong độ tuổi sinh đẻ.
Tiêu chuẩn của TCYTTG về chất lượng dịch vụ chăm sóc thai sản,
KHHGĐ không phải chỉ sẵn có gần nơi phụ nữ cư trú càng tốt, dịch vụ được phụ
nữ chấp nhận sử dụng, có đầy đủ trang thiết bị, dịch vụ chăm sóc sức khoẻ toàn
diện gắn liền với dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản khác, cung cấp chăm sóc
liên tục và theo dõi đầy đủ, đội ngũ cán bộ cán bộ y tế phải được cộng đồng tôn
trọng, và họ phải đáp ứng nhu cầu của phụ nữ, cán bộ y tế phải cung cấp cho phụ
nữ các thông tin qua quá trình tư vấn và tạo điều kiện cho phụ nữ trong việc ra
quyết định. Các dịch vụ này cũng cần phải có hỗ trợ xã hội và kinh tế cho cán bộ y

tế để họ có thể làm tốt nhất [67].
1.1.5. Các biện pháp tránh thai
1.1.5.1. Về biện pháp tránh thai
- Các biện pháp tránh thai hiện đại (BPTTHĐ): triệt sản, đặt dụng cụ tử cung,
thuốc tránh thai, bao cao su.
- Các biện pháp tránh thai truyền thống (BPTTTT): phương pháp giao hợp định kỳ
(phương pháp vòng kinh), phương pháp giao hợp ngắt quãng (xuất tinh ngoài âm đạo).
* Biện pháp hàng rào: tạo một hàng rào ngăn cản sự hoạt động của tinh trùng:
- Bao cao su: dành cho nam giới sử dụng, bên cạnh việc ngăn tinh trùng xâm
nhập vào đường sinh dục nữ trong hành động giao hợp, còn góp phần ngăn chặn sự
lây truyền các bệnh lây truyền qua đường tình dục. Bao cao su thế hệ mới còn được
tẩm thêm hóa chất diệt tinh trùng, góp phần nâng cao khả năng ngừa thai.
- Hóa chất diệt tinh trùng: cho tới hiện nay, phổ biến nhất vẫn là Nonoxynol-
9, với nhiều loại dạng sản phẩm như kem bôi, viên đặt âm đạo, miếng xốp (sponge)
hay tấm phim. Hóa chất này khi vào âm đạo sẽ tạo một môi trường dịch sệt, có tác
dụng làm đông tinh dịch, bất hoạt khả năng của tinh trùng. Rải rác, vẫn có trường
14
hợp có thụ thai sau khi sử dụng hóa chất diệt tinh trùng (do cách dùng sai hay do
chất lượng sản phẩm không đảm bảo). Tuy nhiên, các quan sát đều cho thấy chưa có
tình trạng bất thường nào của thai nhi được phát hiện. Biện pháp này khá hiệu quả
và tiện lợi, kèm theo khả năng diệt một số tác nhân bệnh lây truyền qua đường tình
dục. Tuy nhiên, có số ít người có khả năng dị ứng với các hoá chất sử dụng. Một số
hóa chất khác cũng đang trong vòng nghiên cứu như Carraguard, PRO2000,
Buffergel, Dextrin 2 sulfate… nhưng có vẻ tác dụng diệt khuẩn trội hơn so với tác
dụng ngừa thai.
Một số biện pháp khác không phổ biến như bao cao su dành cho nữ giới, mũ
che (màng chắn) âm đạo…
Hiệu quả tránh thai của biện pháp hàng rào từ 75 – 85%.
* Biện pháp nội tiết:
Hai nội tiết tố nữ chính là Estrogen (E) và Progesterone với đặc điểm:

- Trong nửa đầu chu kỳ kinh nguyệt, chỉ có estrogen (do buồng trứng tiết
ra) với nồng độ tăng dần; estrogen có vai trò tăng sinh lớp nội mạc tử cung (về số
lượng – độ dày).
- Trong nửa sau chu kỳ, có cả estrogen và progesterone (do buồng trứng, sau
khi đã rụng trứng, tiết ra; có vai trò giúp nội mạc tử cung phát triển về chất lượng
(nhiều mạch máu nuôi, nhiều dinh dưỡng).
- Sự sút giảm đột ngột nồng độ các nội tiết tố này sẽ dẫn đến việc xuất huyết
lòng tử cung giống như kinh nguyệt.
Việc sử dụng một nồng độ E và các progestin (P- chất tổng hợp có tác dụng
giống progesterone), kết hợp hay đơn thuần, thường xuyên có tác dụng ngăn chặn sự
rụng trứng tự nhiên. Do đó, khi dùng biện pháp nội tiết, hiện tượng rụng trứng tạm
thời bị gián đoạn; bên cạnh đó, dịch nhầy cổ tử cung và lớp nội mạc tử cung cũng có
một số thay đổi không thuận lợi cho việc thụ tinh và thụ thai. Đây là biện pháp có
hiệu quả nhất.
Có nhiều dạng sản phẩm với nhiều dạng sử dụng trong biện pháp này:
- Thuốc viên ngừa thai: Loại kết hợp E+P hay chỉ có P đơn thuần (viên thuốc
15
dành cho người cho con bú), dạng vỉ 21 viên hay 28 viên (thêm 7 viên bổ sung sắt),
cách dùng một viên mỗi ngày.
- Thuốc tiêm ngừa thai: Là dạng P có tác dụng kéo dài, một mũi tiêm cho tác
dụng trong 3 tháng.
- Thuốc cấy ngừa thai: Cũng là dạng P có tác dụng kéo dài, que cấy vào da
và tác dụng trong 3 năm.
- Các dạng P đơn thuần có thể gây vô kinh hay kinh ít, lấm tấm và kéo dài
trong lúc đang sử dụng, thời gian trở lại bình thường (kinh nguyệt cũng như khả
năng sinh sản) có thể hơi lâu hơn loại thuốc kết hợp.
Các dạng mới hiện nay: Thuốc dán ngừa thai một miếng dán cho tác dụng
trong 1 tuần (E+P), thuốc tiêm ngừa thai hàng tháng (E+P), vòng có tẩm nội tiết và
dùng đặt trong âm đạo – tác dụng hàng tháng (E+P).
Hiệu quả tránh thai bằng nội tiết từ 92 – 98%.

* Biện pháp dụng cụ: Dụng cụ tử cung (DCTC)
Là dụng cụ đặt trong lòng tử cung, có vai trò như một dị vật, với tác dụng
kêu gọi các bạch cầu đến lòng tử cung và góp phần tiêu diệt tinh trùng, ngăn tinh
trùng xâm nhập lòng tử cung; đồng thời cũng làm biến đổi nội mạc tử cung không
còn thuận lợi cho việc thụ thai. Có các loại vòng: vòng trơ, vòng có kim loại (việc
thêm kim loại, thường là đồng, sẽ làm gia tăng hoạt tính của vòng), vòng có nội tiết
(là các progestin, góp phần làm biến đổi nội mạc tử cung).
Hiệu quả tránh thai bằng dụng cụ khảng 99%.
* Biện pháp ngừa thai vĩnh viễn:
- Triệt sản nam: Thắt ống dẫn tinh, đây là thủ thuật đơn giản, hầu như không
gây ảnh hưởng đến sức khỏe người dùng. Ống dẫn tinh chỉ có vai trò dẫn tinh trùng
từ nhà máy sản xuất là tinh hoàn đến túi tinh dự trữ và phóng thích ra ngoài trong
lần giao hợp. Khi thắt ống dẫn tinh, tinh trùng sản xuất ra sẽ không có đường thoát
và sẽ tự tiêu biến đi, các chất nội tiết do tinh hoàn tiết ra vẫn giữ nhịp độ sản xuất
như trước, vẫn sẽ được thấm vào máu và phát huy tác dụng giúp người nam vẫn có
đầy đủ các đặc điểm giới tính nam.
16
- Triệt sản nữ: Thắt ống dẫn trứng, là đường thông từ lòng tử cung ra buồng
trứng, khi bị thắt, tinh trùng không còn đường gặp trứng. Buồng trứng vẫn hoạt
động bình thường, nội tiết tố nữ vẫn được tiết ra đều đặn, vẫn có trứng rụng hàng
tháng, người phụ nữ vẫn còn kinh nguyệt và những đặc điểm giới tính nữ như trước
khi áp dụng triệt sản.
Phẫu thuật nhằm nối các ống dẫn tinh hay ống dẫn trứng là những phẫu thuật
khó (thuộc loại vi phẫu), hơn nữa, các tổ chức mô sau thời gian dài triệt sản thường đã
bị xơ hóa, khả năng sinh sản sau phẫu thuật khôi phục lại thường không đạt trọn vẹn.
Hiệu quả tránh thai của phương pháp ngừa thai vĩnh viễn 99%.
* Biện pháp tự nhiên (truyền thống):
Là cách theo dõi chu kỳ rụng trứng của người phụ nữ, nhằm duy trì hoạt
động tình dục trong giai đoạn không rụng trứng, để không có khả năng thụ thai.
Thông thường, với người có vòng kinh đều đặn 28 - 32 ngày, rụng trứng thường

xảy ra khoảng ngày 14 - 15, giai đoạn nguy hiểm thường là 1 tuần xung quanh
giai đoạn này. Dịch cổ tử cung thường nhiều, dai vào quanh ngày rụng trứng,
thân nhiệt gia tăng và giữ ở mức này kéo dài từ sau rụng trứng đến khi có hành
kinh. Việc theo dõi các dấu hiệu này sẽ giúp người phụ nữ tìm ra khoảng thích
hợp trong chu kỳ để giao hợp. Biện pháp này hầu như không can thiệp vào tự
nhiên sinh lý của người phụ nữ, tuy nhiên đòi hỏi sự hiểu biết và khả năng tự chủ
của cặp vợ chồng [21], [97], [102].
1.1.5.2. Chọn lựa một biện pháp ngừa thai thích hợp
Mỗi biện pháp ngừa thai đều có chỉ định và chống định khác nhau, cũng như
đều có tỷ lệ thất bại (do dùng đúng hay không đúng cách). Ngay như biện pháp vĩnh
viễn, hiệu quả nhất, vẫn có tỷ lệ thất bại khoảng 0,1%, do người làm thủ thuật làm
sai kỹ thuật, chưa thắt hết hay chưa thắt đúng “cái cần thắt”, cũng có khi do cơ địa
người dùng, vết thương đã tự hàn gắn lại những “chia cắt” của thủ thuật [97].
Các tác dụng phụ của các biện pháp ngừa thai nói chung được xếp vào các
nhóm sau:
- Tác dụng trên chu kỳ kinh nguyệt: Làm kinh nguyệt điều hòa (thuốc ngừa
17
thai viên kết hợp dạng uống) hay gây rối loạn kinh nguyệt (vô kinh trong thuốc
tiêm ngừa thai).
- Tác dụng trên chuyển hóa: Gây giữ nước, tăng cân hay rối loạn chuyển hóa
đường, mỡ hoặc có lợi khi có kèm hoạt tính kháng androgen (chống mụn); tình
trạng loãng xương hay thiếu hụt canxi trên người dùng ngừa thai dạng P kéo dài.
- Tác dụng trên hiện tượng viêm nhiễm: Ngăn ngừa bệnh lây qua đường tình dục.
- Nguy cơ ung thư phụ khoa: Ngăn ngừa ung thư hay có khả năng thúc đẩy
một số dạng ung thư phụ khoa trên cơ địa một số nhóm người đặc biệt.
Việc chọn lựa một biện pháp ngừa thai phải do bản thân người sử dụng, sau
khi có những thông tin rõ ràng, chính xác do người trong ngành y tế tư vấn, cân
nhắc và chọn lựa tuỳ theo điều kiện sức khoẻ, gia đình, văn hoá, kinh tế của bản
thân mình, để có một biện pháp thích hợp nhất.
Sự chọn lựa này còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như:

- Hiệu quả của biện pháp ngừa thai
- Giá thành của biện pháp
- Sự sẵn có của phương pháp
- Các tác dụng phụ có lợi hay không có lợi của phương pháp [66], [28], [98].
1.1.5.3. Những phép đo cơ bản về KHHGĐ
- Tỷ lệ căp vợ chồng áp dụng các biện pháp tránh thai (SDBPTT): Là tỷ lệ
phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ (15 – 49) có chồng đang sử dụng (hoặc chồng của họ
đang sử dụng) một hoặc nhiều BPTT nào đó (dụng cụ tử cung, bao cao su, các loại
thuốc tránh thai, triệt sản, hoặc các loại tránh thai khác) trên tổng số phụ nữ từ 15 –
49 tuổi hiện đang có chồng thuộc khu vực nào đó trong một thời gian xác định. Tỷ
lệ này cũng có thể tính riêng cho từng biện pháp.
Số PN có chồng từ 15 – 49 tuổi dùng BPTT
Tỷ lệ SDBPTT = x 100
Tổng số PN có chồng từ 15 – 49 tuổi
Phụ nữ có chồng là những người được luật pháp hoặc phong tục thừa nhận,
bao gồm cả những phụ nữ sống chung với người khác như vợ chồng.
18
- Tỷ số hút điều hoà kinh nguyệt (hoặc nạo thai, sẩy thai) so với trẻ đẻ ra
sống: là số lần hút điều hoà kinh nguyệt tính trung bình cho một trẻ đẻ sống. Chỉ số
này rất quan trọng để đánh giá hiệu quả công tác kế hoạch hoá gia đình.
Số lần HĐHKN (hoặc nạo thai, sẩy thai)
Tỷ số HĐHKN = x 100
Tổng số trẻ đẻ sống
- Tỷ lệ bà mẹ sinh con thứ 3 trở lên: là tỷ lệ các bà mẹ sinh con thứ 3 trở lên
trên tổng số các bà mẹ sinh.
Số bà mẹ sinh con thứ 3 trở lên
Tỷ lệ sinh con thứ 3 = x 100
Tổng số phụ nữ sinh con
Bà mẹ sinh con thứ 3 trở lên là số phụ nữ đã có từ 2 con trở lên tiếp tục sinh
thêm con trong khoảng thời gian nào đó (thường là một năm) [66].

1.2. PHÁT TRIỂN DÂN SỐ - KẾ HOẠCH HOÁ GIA ĐÌNH
1.2.1. Phát triển dân số trên thế giới
1.2.1.2. Quy mô dân số, những thử thách và cam kết đến 2050
Ngày 13/3/2007 Liên Hợp quốc (UN) đã công bố về dự báo dân số: cho thấy
dân số thế giới đang già hoá và sẽ vượt quá con số 9 tỷ người vào năm 2050. Các
kết quả cung cấp cơ sở để đánh giá các xu hướng ở cấp toàn cầu, khu vực và quốc
gia và làm dữ liệu đầu vào để tính nhiều chỉ tiêu chủ yếu trong hệ thống Liên hợp
quốc. Báo cáo này kết hợp những kết quả của hầu hết các cuộc tổng điều tra dân số
quốc gia gần đây và nhiều cuộc điều tra mẫu về dân số chuyên sâu được tiến hành
trên khắp thế giới.
Theo Báo cáo năm 2006, dân số thế giới có thể tăng thêm 2,5 tỷ người trong
vòng 43 năm tới, từ 6,7 tỷ lên đến 9,2 tỷ vào năm 2050. Số dân tăng này tương
đương với tổng dân số thế giới năm 1950 và đa số là ở những khu vực kém phát
triển nhất, dân số ở những khu vực này dự tính tăng từ 5,4 tỷ năm 2007 đến 7,9 tỷ
vào năm 2050. Ngược lại, dân số ở những vùng phát triển dự tính không thay đổi
vẫn giữ ở mức 1,2 tỷ và sẽ giảm, nếu không có di cư từ các nước đang phát triển
19
đến các nước phát triển, dự tính hàng năm khoảng 2,3 triệu người.
Theo PRB năm 2008 world population: đến năm 2050, 10 nước có dân số
tăng: Ấn độ, Nigeria, Mỹ, Cộng hoà Công Gô, Pakistan, Trung Quốc, Indoxia,
Uganda, Ethiopia, Bangladesh và 10 nước có dân số giảm: Nhật Bản, Nga,
Ukraina, Đức, Phần Lan, Bắc Triều Tiên, Rumani, Đài Loan, Bulgaria, Tây Ban
Nha [88], [89].
Việc những dự báo này trở thành hiện thực còn tuỳ thuộc vào việc đảm bảo
mức sinh tiếp tục giảm ở các nước đang phát triển. Theo Báo cáo năm 2006, nhìn
chung mức sinh ở các nước đang phát triển giảm từ 2,75 con/1 phụ nữ trong giai đoạn
2005 – 2010 xuống còn 2,05 vào giai đoạn 2045 – 2050. Thậm chí việc giảm ở nhóm
50 nước đang phát triển nhất còn rõ nét hơn: từ 4,63 con/1 phụ nữ xuống còn 2,50
con/1 phụ nữ. Để đạt được mức giảm này, điều cốt yếu là KHHGĐ càng được mở
rộng ở những nước nghèo nhất. Vấn đề cấp bách để thực hiện được các mức giảm

sinh như dự tính cần nêu bật vấn đề là nếu mức sinh vẫn giữ nguyên ở các mức dự
tính cho giai đoạn 2000 – 2005, dân số ở các khu vực kém phát triển sẽ tăng tới 10,6
tỷ thay vì 7,9 tỷ như dự tính giảm mức sinh. Nếu mức sinh không giảm mạnh hơn
nữa, dân số thế giới có thể tăng nhiều gấp hai lần số dân đang sống năm 1950.
Về tốc độ và quy mô tiềm năng dân số thành thị cảnh báo loài người sẽ trải
qua một cuộc “cách mạng trong suy nghĩ”, để giải quyết vấn đề dân số thành thị
tăng gấp đôi ở Châu Phi và Châu Á vào năm 2030, trong báo cáo tình trạng dân số
thế giới năm 2007, UNFPA khẳng định trong vòng 30 năm nữa dân số thành thị ở
Châu Phi và Châu Á tăng thêm 1,7 tỷ người con số này lớn hơn dân số Trung Quốc
và Mỹ cộng lại. Theo báo cáo năm 2008, hơn một nửa trong 6,7 tỷ dân số thế giới
sống ở các thành phố, mặc dù các siêu đô thị (hơn 10 triệu dân) tiếp tục tăng lên
nhưng hầu hết người dân sẽ sinh sống tại thành phố 500 ngàn dân hoặc ít hơn.
Sự di cư từ nông thôn lên thành thị và kết hợp với sự gia tăng tự nhiên đang
dẫn đến một sự gia tăng không phù hợp cho sự phân bố dân cư ở thành thị, đặc biệt
ở những nước kém phát triển [19], [94].
Cần phải có sự quan tâm về chính sách trước sự gia tăng dân số với những khó
20
khăn thách thức và gây ảnh hưởng bởi đói nghèo. Phần lớn các nghiên cứu cho thấy
xu hướng nhân khẩu học là thật sự quan trọng. Tuy nhiên, tiềm năng lợi ích của dân
số phát triển chậm phụ thuộc vào thời gian và sự thay đổi về nhân khẩu học, kinh tế
xã hội, tình trạng phụ nữ và các loại hình tập trung vào các chính sách kinh tế.
KHHGĐ sẽ không nhất thiết làm giảm đói nghèo ở các nước đang phát triển. Mặt
khác, chậm tỷ lệ tăng dân số, kết hợp với công bằng phát triển kinh tế và giảm bất
bình đẳng giới tính, xuất hiện ngày càng có khả năng để đạt được mục tiêu đó [90].
1.2.2. Phát triển dân số ở Việt Nam
1.2.2.1. Quy mô dân số nước ta rất lớn và vẫn đang phát triển mạnh
Theo Tổng cục Thống kê năm 2005, Việt Nam có khoảng 83,12 triệu người,
là nước đông dân thứ 13 trên thế giới. Năm 2005, chỉ có 4 nước (Ấn Độ, Nhật Bản,
Banglades, Philippines) có dân số đông hơn và mật độ dân số cao hơn nước ta.
Theo Liên Hợp quốc, để cuộc sống thuận lợi, bình quân trên 1 km

2
, chỉ nên có từ 35
- 40 người. Như vậy, ở Việt Nam, mật độ dân số đã gấp khoảng 6 - 7 lần “mật độ
chuẩn” so với mật độ dân số Trung Quốc (136 người/km
2
, năm 2005) cũng gần gấp
đôi còn so với các nước đã phát triển thì gấp trên 10 lần !. Căn cứ vào chỉ báo này,
có thể khẳng định rằng Việt Nam là quốc gia có quy mô dân số rất lớn. Mặc dù vậy,
dân số nước ta vẫn tăng mạnh.
Dân số tăng nhưng diện tích canh tác không tăng đã làm giảm diện tích canh
tác trên đầu người. Dù rằng có nhiều tiến bộ trong nông nghiệp nhưng sản lượng
lương thực thực phẩm tăng không phù hợp với tỷ lệ tăng dân số. Các dịch vụ phục
vụ đời sống tăng cả về khối lượng lẫn chất lượng đòi hỏi nhà nước phải tăng chi phí
phúc lợi sẽ ảnh hưởng đến nền kinh tế chung, mức độ ô nhiễm môi trường tăng và
chất lượng cuộc sống bị giảm sút. Vì vậy việc khống chế gia tăng dân số tự nhiên là
một nhiệm vụ cấp bách và thường xuyên để hưởng ứng cho sự gia tăng dân số theo
kế hoạch phù hợp với phát triển của nền kinh tế - xã hội.
1.2.2.2. Mức sinh giảm mạnh nhưng chưa ổn định, còn khác nhau giữa các vùng
Tỷ suất sinh thô của Việt Nam có xu hướng giảm, đặc biệt giảm nhanh từ
năm 1993 trở lại đây. Việc mỗi phụ nữ, từ chổ sinh đẻ 6 - 7 con đến chỉ đẻ 2 con,
21
chắc chắn có ảnh hưởng rất lớn không chỉ đến sức khoẻ, học vấn, việc làm, thu
nhập, địa vị xã hội của họ mà còn ảnh hưởng tích cực tới việc nuôi, dạy con cái,
hạnh phúc gia đình, sự phát triển của cộng đồng và xã hội. Xu hướng giảm sinh
không ổn định, từ năm 2003 đến nay, mức sinh và tỷ lệ sinh con thứ 3 “nhích lên”
đôi chút. Mặt khác, mức sinh có sự khác biệt lớn giữa nông thôn, thành thị, giữa các
vùng địa lý kinh tế, các tỉnh và giữa các nhóm xã hội [52].
1.2.2.3. Sức khoẻ sinh sản đang đứng trước những thách thức mới, gay gắt
Bộ Y tế đánh giá số ca nạo phá thai hàng năm bằng số ca sinh. Riêng số ca
nạo phá thai tại các cơ sở y tế Nhà nước như sau: Năm 1992: 1,33 triệu; 1993: 1,20

triệu; 1994: 1,25 triệu; 1995: 1,20 triệu và 1996: 1,22 triệu . Nước ta được xếp vào
nhóm nước có mức nạo phá thai cao nhất trên thế giới. Những năm gần đây số ca
nạo phá thai tại các cơ sở y tế nhà nước đã giảm. Tuy nhiên, cần chú ý rằng tỷ lệ
sinh của nước ta cũng giảm. Vì vậy, tỷ số giữa số ca nạo phá thai và số ca sinh vẫn
cao, đặc biệt là số ca nạo phá thai ở tuổi vị thành niên và thanh niên trẻ.
Tỷ lệ viêm nhiễm đường sinh sản ở nữ nông thôn, dao động từ 32,8% đến
70,56%. Một nghiên cứu mới đây tại Bệnh viện phụ sản tỉnh Thanh Hoá cho thấy:
66% phụ nữ đến khám và quản lý thai nghén ở đây bị viêm đường sinh dục dưới.
Tỷ lệ này ở Bệnh viện phụ sản Trung ương là 72%. Đặc biệt là số nhiễm HIV/AIDS
lớn và đang tăng nhanh. Trong điều kiện mại dâm, ma tuý phát triển, các bệnh lây
theo đường tình dục, trong đó có HIV/AIDS là một hiểm họa lớn cho đất nước. Hầu
hết những người nhiễm HIV/AIDS trong độ tuổi lao động. Vì vậy, đây là tổn thất
lớn về cả phương diện kinh tế và xã hội [23].
1.2.2.4. Chất lượng dân số có cải thiện nhưng vẫn chưa cao
Chỉ số phát triển con người (The Human Development Index - HDI) có thể
coi là một chỉ báo về chất lượng dân số. Chỉ số này cao nhất là 1, thấp nhất là 0.
Muốn tăng HDI lên thêm 0,010, thì thường GDP bình quân đầu người lên 18%, tuổi
thọ trung bình lên thêm 1,8 năm và tỷ lệ các cấp lên 3%. Theo xếp hạng GDP đầu
người dân thì nước ta đứng thứ 114. Chỉ số HDI nước ta năm 2005 là 0,704 xếp
hạng 108/177 nước. Như vậy, HDI của nước ta không ngừng tăng lên, tuy nhiên so
22
với thế giới, thứ hạng vẫn còn rất thấp [36].
Về thể lực: Trên phạm vi toàn quốc, theo Điều tra y tế quốc gia 2002, tỷ lệ
trẻ sơ sinh nặng dưới 2500 gram là 5,6%; tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi thuộc diện thấp
còi 33%; trẻ em có cân nặng theo tuổi thấp (25,7%), béo phì (1,3%). Năm 2004, tỷ
lệ suy dinh dưỡng của trẻ em dưới 5 tuổi vẫn còn cao ở mức 26,6%, đặc biệt là ở
khu vực Tây Nguyên, Tây Bắc. Ngược lại, ở khu vực thành thị lại có tỷ lệ trẻ em
béo phì. Theo kết quả điều tra của Viện Dinh dưỡng năm 2003, có 4,9% số trẻ từ
4 - 6 tuổi tại Hà Nội và 6% trẻ dưới 5 tuổi; 22,7% trẻ đang học cấp I ở thành phố
Hồ Chí Minh bị thừa cân, béo phì. Ngoài ra, năm 2005 cả nước còn 5,3 triệu

người tàn tật, bị mắc bệnh bẩm sinh, bị ảnh hưởng chất độc màu da cam, chiếm
6,34% dân số, ảnh hưởng đến sự phát triển giống nòi.
Về trí lực: 1,5% dân số thiểu năng về thể lực và trí lực. Năm 2003, lao động
của Việt Nam có: 4,5% mù chữ, 47% mới chỉ có trình độ tiểu học (TH), 30% tốt
nghiệp trung học cơ sở (THCS) và 18,5% tốt nghiệp trung học phổ thông (THPT).
79% lao động từ 15 trở lên không có trình độ chuyên môn kỹ thuật. Khu vực nông
thôn, tỷ lệ này lên tới 87%, trong khi đó những lao động có trình độ cao đẳng (CĐ)
trở lên chỉ chiếm 1,58%.
Về tâm lực: tội phạm, tiêu cực xã hội có xu hướng gia tăng. Trong đó, trẻ em
làm trái pháp luật tăng lên - Nỗi nhức nhối của gia đình và xã hội. Theo thống kê,
trên cả nước, số trẻ em vào trường giáo dưỡng và số bị khởi tố hình sự có xu hướng
không ngừng tăng lên [1], [81].
1.2.3. Tình hình thực hiện DS - KHHGĐ
1.2.3.1. Thực hiện chính sách về DS - KHHGĐ
* Thực hiện chính sách về DS – KHHGĐ trên thế giới
Tại Hội nghị Quốc tế Dân số và Phát triển (ICPD) họp tại Cairô năm 1994,
đã nhất trí cách tiếp cận một cách toàn diện về chăm sóc sức khoẻ sinh sản
(CSSKSS), bao gồm KHHGĐ và sức khoẻ tình dục. Hội nghị ICPD đặt mục tiêu tới
năm 2015 sẽ phổ cập khả năng tiếp cận các thông tin và dịch vụ đa dạng về
CSSKSS. Các đại biểu cũng nhất trí rằng SKSS và sức khoẻ tình dục là một quyền
23
con người, một quyền lực cấu thành của chăm sóc y tế.
Tháng 5 năm 2004, Đại hội đồng y tế thế giới lần thứ 57 thông qua chiến
lược đầu tiên của TCYTTG về SKSS nhằm đẩy mạnh quá trình các mục tiêu phát
triển thiên niên kỷ và các mục tiêu SKSS của ICPD và theo dõi 5 năm thực hiện
chương trình. Chiến lược xác định 5 khía cạnh ưu tiên của sức khoẻ sinh sản và sức
khoẻ tình dục: cải thiện chăm sóc tiền sản, chăm sóc sinh nở, chăm sóc hậu sản và
chăm sóc sức khoẻ sơ sinh; cung cấp dịch vụ KHHGĐ chất lượng cao, bao gồm cả
dịch vụ triệt sản; loại bỏ việc phá thai không an toàn; chống lại các bệnh lây nhiễm
qua đường tình dục, trong đó có HIV, các bệnh nhiễm trùng đường sinh sản, ung

thư cổ tử cung và bệnh phụ khoa khác; thúc đẩy sức khoẻ tình dục [67].
* Chính sách về DS - KHHGĐ ở Việt Nam
Cách đây 47 năm, đúng vào ngày dân số thế giới đạt tới 3 tỷ người và dân số
Việt Nam vượt qua con số 30 triệu người thì Chính phủ Việt Nam ban hành Quyết
định số 216/CP ngày 26/12/1961 về việc sinh đẻ có hướng dẫn với mục đích “Vì
sức khoẻ bà mẹ, vì hạnh phúc và hoà thuận trong gia đình để nuôi dạy con cái được
chu đáo, việc sinh đẻ của nhân dân cần được hướng dẫn chu đáo”. Ngày 26/12 trở
thành một mốc lịch sử quan trọng của chương trình dân số Việt Nam, ngày được coi
là Việt Nam chính thức tuyên bố tham gia chương trình dân số toàn cầu (vì vậy mà
ngày 26/12 hàng năm được lấy là ngày Dân số Việt Nam) [29].
Cùng với xu thế phát triển chung trên thế giới, chính sách dân số của Việt
Nam không ngừng được bổ sung. Phạm vi chính sách dân số của Việt Nam là
những vấn đề có liên quan đến mức sinh, mức chết, di dân và các phân bố đặc biệt
ảnh hưởng đến quy mô, cơ cấu, chất lượng và sự phân bổ dân cư.
- Chỉ thị số 99/TTg ngày 16/10/1963 của Thủ tướng Chính phủ “về công tác
hướng dẫn sinh đẻ”.
- Quyết định số 94/CP ngày 13/5/1970 của Hội đồng Chính phủ “về cuộc
vận động sinh đẻ có kế hoạch”.
- Chỉ thị số 265/HĐBT ngày 19/10/1978 của Hội đồng Chính phủ “Đẩy
mạnh cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch trong phạm vi cả nước”.
24
- Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V năm 1981: Chỉ tiêu vận động là đẻ ít (từ
2-3 con), để muộn (từ 22 tuổi trở lên), đẻ thưa (cách nhau từ 3 - 5 năm).
- Nghị quyết 04-NQ/HNTW ngày 14 tháng 01 năm 1993 của Hội nghị lần
thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá VII về chính sách
DS - KHHGĐ “Công tác DS - KHHGĐ là một bộ phận quan trọng trong chiến lược
phát triển đất nước, là một trong những vấn đề kinh tế - xã hội hàng đầu của đất
nước, là yếu tố cơ bản để nâng cao chất lượng cuộc sống của con người, từng gia
đình và xã hội”…“Đầu tư cho công tác DS – KHHGĐ là đầu tư mang lại hiệu quả
kinh tế trực tiếp rất cao. Nhà nước cần tăng mức chi ngân sách cho công tác DS -

KHHGĐ, đồng thời động viên sự đóng góp của cộng đồng và tranh thủ sự viện trợ
của quốc tế”.
- Quyết định số 162/HĐBT ngày 18 tháng 10 năm 1998 của Hội đồng Bộ
trưởng “về một số chính sách Dân số - kế hoạch hóa gia đình”.
- Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX xác định “ Chính sách dân số nhằm
chủ động kiểm soát quy mô và tăng chất lượng dân số phù hợp với những yêu cầu
phát triển kinh tế - xã hội. Nâng cao chất lượng các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh
sản- kế hoạch hoá gia đình; giải quyết tốt mối quan hệ giữa phân bố dân cư hợp lý
với quản lý dân số và phát triển nguồn nhân lực”.
- Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt
Nam xác định những định hướng cơ bản về chính sách và kế hoạch dân số trong
giai đoạn 2006 - 2010 xác định phương hướng, nhiệm vụ chủ yếu là: “Thực hiện tốt
chính sách DS - KHHGĐ, giảm tốc độ tăng dân số. Tiếp tục duy trì kế hoạch giảm
sinh và giữ mức sinh thay thế, bảo đảm quy mô, cơ cấu dân số hợp lý, nâng cao chất
lượng dân số”[18].
- Pháp lệnh dân số (PLDS) quy định về phạm vi điều chỉnh là: “Pháp lệnh
này quy định về quy mô dân số, cơ cấu dân số, phân bổ dân cư, chất lượng dân số,
các biện pháp thực hiện công tác dân số và quản lý nhà nước về dân số”.
- Chiến lược dân số Việt Nam (CLDSVN) xác định mục tiêu toàn diện, bao
gồm quy mô dân số, cơ cấu dân số, phân bổ dân cư, chất lượng dân số và định
25
hướng đồng bộ hệ thống các giải pháp để thực hiện công tác dân số, quản lý nhà
nước về dân số. Đồng thời CLDSVN xác định phương thức tổ chức thực hiện chiến
lược và trách nhiệm của các Bộ, ngành, đoàn thể, tổ chức xã hội và Hội đồng nhân
dân, Ủy ban nhân dân các cấp trong việc tổ chức thực hiện Chiến lược [71].
- Quyết định số 03/2001/QĐ-UB ngày 20/7/2001 của Uỷ ban Quốc gia Dân
số và kế hoạch hóa gia đình về “Chiến lược truyền thông giáo dục chuyển đổi hành
vi về dân số, sức khoẻ sinh sản, kế hoạch hoá gia đình giai đoạn 2001 – 2005” [73].
1.2.3.2. Tình hình sử dụng dịch vụ kế hoạch hoá gia đình (DVKHHGĐ)
* Tình hình sử dụng DVKHHGĐ trên thế giới

Sử dụng DVKHHGĐ cũng đang gặp vấn đề khó khăn, hàng năm có khoảng
700.000 phụ nữ chết do thiếu các dịch vụ tránh thai; 120 – 150 triệu phụ nữ không
được giải quyết nhu cầu dịch vụ tránh thai; 75 triệu trường hợp thai nghén ngoài ý
muốn và khoảng 70.000 phụ nữ chết do phá thai không an toàn (WHO -1997). Theo
báo cáo của UNFPA năm 2004 trên thế giới vẫn còn 350 triệu cặp vợ chồng chưa
được tiếp cận đầy đủ DVKHHGĐ [37].
Ở Châu Phi trung bình có 5,5 con/một phụ nữ, cao gấp 2 lần Châu Á và gấp
4 lần so với Châu Âu. Chỉ có khoảng 16% phụ nữ Châu Phi thực hiện các BPTT
trong khi ở Châu Á 60% và Châu Âu là 80%. Về nhu cầu thì có 1/5 cặp vợ chồng
từ 15 – 49 tuổi muốn có ít nhất là 2 con và có 1/3 trong số họ muốn thực hiện
KHHGĐ nhưng chưa được đáp ứng [99].
* Tình hình sử dụng DVKHHGĐ ở Việt Nam
Ngày nay người ta càng nhận thức được tầm quan trọng của việc chăm sóc
sức khỏe phụ nữ. Điều quan trọng là góp phần không nhỏ trong thành tựu của công
tác chăm sóc sức khoẻ bà mẹ trẻ em - KHHGĐ, sức khỏe của phụ nữ là sự liên quan
mật thiết với các yếu tố trong xã hội như điều kiện kinh tế, văn hóa và xã hội.
Sử dụng DVKHHGĐ cũng có nhiều vấn đề vì công tác này chưa thật sự gắn
liền với việc chăm sóc sức khoẻ bà mẹ trẻ em, một số nơi lại chạy theo thành tích và
chỉ tiêu giảm sinh mà không gắn với chất lượng dịch vụ. Tỷ lệ chấp nhận các BPTT
nói chung là cao 79% các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ. Song có hơn 10% là sử

×