Tải bản đầy đủ (.pdf) (30 trang)

Ảnh hưởng của công tác truyền thông đ ến việc thực hiện kế hoạch hóa gia đình của người dân trung du miền núi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (383.07 KB, 30 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. lý do chọn đề tài

Dân số là một trong những yếu tố quyết định sự phát triển của đất nước.
Bên cạnh những tiềm lực kinh tế yếu tố con người giữ vai trị quan trọng. Nó
quyết định con đường đi lên của mỗi quốc gia. Quốc gia nào muốn phát triển
kinh tế xã hội thì nội dung cốt lõi chính là phát triển nhân tố con người về mọi
mặt
Trong thế kỷ 20 sự kiện nổi bật nhất chính là sự bùng nổ dân số, và hiện
nay vấn đề phát triển dân số trở thành vấn đề toàn cầu và được xếp ngang hàng
với các vấn đề toàn cầu khác như chiến tranh hạt nhân, ngăn chặn bệnh dịch
sida, và bảo vệ mơi trường… chính điều đó buộc các nước trên thế giới phải
xích lại gần nhau hơn.
Việt Nam là một trong những nước có nền kinh tế nghèo lạc hậu lại đông
dân cư nhất thế giới và trong khu vực. Trong cơng cuộc đổi mới tồn diện về
mọi mặt nước ta đã và đang từng bước đổi mới và phát triển về kinh tế chính trị
nhưng với sự bùng nổ dân số là 2% như hiện nay thì chỉ trong vịng 30 năm sau
dân số của nước ta sẽ tăng gấp đơi.
Trước tình hình đó đảng và nhà nước ta đã đặt vấn đề dân số lên hàng đầu
và coi đó là nhiệm vụ trọng tâm của chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Đảng
và nhà nước ta đã sớm đề ra chủ chương về kế hoạch hóa gia đình từ những năm
60 và được cụ thể hóa bằng nghị quyết trung ương khóa 4 về chính sách dân số
kế hoạch hóa gia đình cho chặng đường từ nay đến năm 2015. Trong đó nêu rõ
gia tăng dân số quá nhanh là một trong những nguyên nhân cản trở sự phát triển
kinh tế xã hội, gây khó khăn lớn cho việc cải thiện đời sống, han chế sự phát
triển về trí tuệ văn hóa của giống nịi. Nếu xu hướng này cịn gia tăng thì trong
tương lai không xa đất nước ta sẽ đứng trước những khó khăn rất lớn, thậm chí
nguy hiểm về mọi mặt.
Vì vậy để làm tốt công tác dân số kế hoạch hóa gia đình giảm tỷ lệ tăng
dân số đi đến ổn định quy mô dân số là một trong những vấn đề quan trọng đối



với nước ta. Để có thể thực hiện được điều đó thì cơng tác truyền thơng dân số
có vai trị đặc biệt quan trọng, ảnh hưởng đến viẹc sinh đẻ của người dân. Chúng
ta biết rằng để thay đổi những yếu tố truyền thống là một vấn đề khó khăn và
phức tạp, để thay đổi quan niệm và tập quán sinh đẻ của người dân là vấn đề khó
khăn khơng thể thực hiện được trong mọt sớm một chiều mà phải là một quá
trình lâu dài làm thay đổi nhận thức của người dân. Để làm được điều đó thì
cơng tác truyền thông dân số phải phát huy hết vai trị của mình để làm thay đổi
nhận thức của người dân .
Trước vấn đề trên tôi chọn chủ đề “ảnh hưởng của công tác truyền
thông đến việc thực hiện kế hoạch hóa gia đình của người dân trung du miền
núi” (qua khỏa sát xã hội học tại xã Cổ Tiết – huyện Tam Nông – tỉnh Phú Thọ)
2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
2.1. Ý nghĩa khoa học

Nghiên cức “ảnh hưởng của công tác truyền thông dân số tới việc thực
hiện kế hoạch hóa gia đình” có ý nghĩa vơ cùng quan trọng, cho phép chúng ta
nhìn nhận và đánh giá kết quả một cách khách quan toàn diện. Trên cơ sở đó xây
dựng một chiến lược truyền thơng dân số lâu dài và đề ra những biện pháp cụ
thể cho việc thực hiện kế hoạch hóa gia đình.
2.2. Ý nghĩa thực tiễn

Nghiên cứu tác động của công tác truyền thơng dân số tới việc thực hiện
kế hoạch hóa gia đình có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc. Từ những nghiên cứu này
cho phép chúng ta coi việc thực hiện dân số kế hoạch hóa gia đình ở đây như
một khuân mẫu giá trị định hướng cho mọi người hành động.
Nghiên cứu có tác động tích cựu đến việc xóa bỏ quan niệm cũ về sự
đơng con của các gia đình nơng thơn trước kia đặc biệt là quan niệm cần có con
trai để nối dõi tơng đường. Đồng thời thơng qua việc xác định đối tượng của
chương trình dân số kế hoạch hóa gia đình,cần phải xây dựng một chương trình

truyền thơng cụ thể phụ vụ cho địa bàn vùng nông thôn thực hiện tốt công tác
dân số kế hoạch hóa gia đình đưa nơng thơn khơng ngừng đổi mới và phát triển.


3. Mục đích nghiên cứu

+ Thấy được tình hình thực hiện dân số kế hoạch hóa gia đình, và thái độ
của người dân về vấn đề này như thế nào, họ mong muốn điều gì, và nguyên
nhân quan trọng nào ảnh hưởng đến cơng tác dân số kế hoạch hóa gia đình.
+ Qua khảo sát xã hội học để thấy được sơ bộ về thực tế hoạt động của hệ
thống truyền thơng dân số. Từ đó thấy được hiện trạng của các kênh truyền
thông đang tồn tại.
+ Đưa ra những khiến nghị nhằm hạn chế tiêu cực và thúc đẩy phát triển
những nhân tố tích cực ảnh hưởng đến việc thực hiện cơng tác dân số kế hoạch
hóa gia đình góp phần đưa cơng tác dân số kế hoạch hóa gia đình đạt mục tiêu:
thực hiện gia đình ít con khỏe mạnh, tạo điều kiện xây dựng gia đình ấm no
hạnh phúc.
4. Đối tượng nghiên cứu, pham vi nghiên cứu, mẫu nghiên cưu
4.1. Đối tượng nghiên cưu

Đó là “ảnh hưởng của truyền thông dân số tới việc thực hiện dân số kế
hoạch hóa gia đình”.
4.2. Phạm vi nghiên cứu

Khảo sát 6 thôn tại xã Cổ Tiết – huyện Tam Nông – tỉnh Phú Thọ.
4.3. Mẫu nghiên cứu

100 mẫu đối với những người có gia đình
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận


Theo quan điểm tiếp cận lịch sử: Quan điểm này cho phép chúng ta xem
xét cái gì từ q khứ để lại cần tơn trọng cái, cần có chính sách phát huy, gìn
giữ, cái gì cần có chính sách hạn chế, hoặc xóa bỏ cho phù hợp với sự biến đổi
tiến bộ của xã hội.
Theo quan điểm tiếp cận của chinh sách dân số cho thấy: Chính sách dân
số ảnh hưởng đến mức sinh rõ nét. Nó có tác động tích cực hoặc tiêu cực đến
q trình phát triển dân số phụ thuộc vào chính sách dân số đó có phù hợp với


thực tế đến đâu. Đây là một công cụ cần phát huy trong công cuộc vận động
giảm tỷ lệ tăng dân số ở nước ta.
5.2. Phương pháp nghiên cứ

+ Phương pháp phỏng vấn bằng bảng hỏi: là phương pháp thu thập thông
tin của xã hội học. Phỏng vấn được tiến hành trên một bàng hỏi được chuẩn bị
chu đáo.
Trong nghiên cứu đã tiến hành phỏng vấn với 100 bảng hỏi thuộc 6 thôn
chủ yếu là những người trong độ tuổi sinh đẻ của địa bàn.
+ Phương pháp phỏng vấn sâu: là phương pháp thu thập thông tin chi tiết
theo yêu cầu của đề tài, loại phỏng vấn này thường để thu thập thông tin nhằm
hiểu biết sâu sắc hơn những khía cạnh, những vấn đề nào đó của đề tài nghiên
cứu.
Trong q trình khảo sát tơi đã thực hiện phỏng vấn sâu 8 người trong đó:
một chủ tịch xã, một cán bộ hội phụ nữ xã, một cán bộ y tế xã, 2 cộng tác viên
dân số thôn và ba người dân trong độ tuổi sinh đẻ nhằm hiểu biết sâu sắc về các
khía cạnh có liên quan đến vấn đề dân số.
+ Phương pháp phân tích tài liệu: để thu thập thông tin về dân số và tác
động của dân sốđến cuộc sống. Tôi sử dụng phương pháp phân tích tài liệu
thơng qua các tài liệu thống kê về dân số kế hoạch hóa gia đình của ủy ban dân

số kế hoạch hóa gia đình, và một số tạp chí sách báo có liên quan
+ Phương pháp quan sát: sử dụng phương pháp quan sát để nhìn nhận
cuộc sống của gia đình người được phỏng vấn, qua đó đánh giá mức sống cũng
như hành vi cử chỉ của người dân nơi đây có đúng với câu trả lời của họ hay
không?
6. Giả thiết nghiên cứu và khung lý thuyết
6.1. Giả thuyết nghiên cứu

+ Mức sinh ở xã còn cao và quan niêm cần có con trai vẫn cịn chi phối
mạnh đến việc sinh con của người dân xã cổ tiết.
+ Ảnh hưởng của công tác truyền thông đến công tác dân số kế hoạch hóa
gia đình là dất quan trọng nhưng vẫn còn hạn chế.


+ Ảnh hưởng của các kênh truyền thơng chính thức và khơng chính thức
tác động đến các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ rất có ý nghĩa vì chính họ
quyết định hành vi sinh đẻ của mình.
6.2. Khung lý thuyết

Điều kiện kinh tế-xã hội xã
Cổ Tiêt

Chính sách dân số kế
hoạch hóa gia đình

Kênh truyền
thơng chính thức

Kênh truyền
thơng khơng

chính thức

Nhận thức của
vợ-chồng

Kế hoạch hóa gia
đình( sinh đẻ kế
hoạch)


NỘI DUNG
Chương1: Cơ sở lý luận và thực tiễn
1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu

Vấn đề dân số kế hoạch hóa gia đình là vấn đề nóng bỏng khơng chỉ ở
nước ta mà cịn là vấn đề mang tính chất tồn cầu. Chính vì vậy ngay từ khi đất
nước được giải phóng đảng và nhà nước ta đã đặt vấn đề dân số vào vị trí chiến
lược, tuy nhiên vấn đề này mới thực sự phát triển mạnh vào những năm gần
đây,và đã có nhiều thành tựu đáng kể.Có được những thành tựu đó chính là nhờ
vào việc đầu tư đúng đắn và tập trung vào việc đào tạo các chuyên gia, nghiên
cứu lý luận và thực tiễn bằng những phương tiện hiện đại. Từ đó có thể thấy
rằng khả năng kiểm soat mưc sinh của nước ta chưa phải là ngay truớc mắt
nhưng trong tương lai không xa chúng ta sẽ đạt được điều đó.
Trong những năm qua đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu về vấn đề
dân số kế hoạch hóa gia đình như cơng trình nghiên cứu kiến thức tháiđộ của
nhân viên kế hoạch hóa gia đình cấp cơ sở về các biện pháp tránh thai; nghiên
cứu về mơ hình lồng ghép dân số và phát triển ở các xã nghèo ở hịa bình do
viện xã hội học tiến hành: cơng trình nghiên cứu vịng tránh thai 380 của viện
bảo vệ bào mẹ và trẻ em Trung ương; Đặc biệt là cơng trình nghiên cứu của hội
liên hiệp phụ nữ Việt Nam. Kết quả thu được từ nghiên cứu này là kiến thức của

phụ nữ trong lĩnh vực này cịn khơng đầy đủ và nhiều khi khơng chính xác.
Cơng trình nghiên cứu cơng tác truyền thơng dân số ở Ha Tây năm 1992 cũng
đã thu được những chỉ báovề mức độ tiếp nhận thông tin truyền thơng của người
dân nơi đây đã có tác dụng đến việc thực hiện kế hoạch hóa gia đình.
Có thể nói, hiện nay dân số đang là một vấn đề quan tâm của cả thế giới.
Ở nước ta việc nghiên cứu về vấn đề dân số là vấn đề đã được coi trọng từ lâu.
Và có nhiều cơng trình nghiên cứu đã có những đóng góp lớn lao cho sự biến
đổi dân số Viêt Nam. Đó là tính hợp thời và đem lại những cơ sở khoa học bước
đầu cho việc ra quyết định trong tiến trình quản lý sự phát triển dân số kế hoạch
hóa gia đình của đất nước. Tại nghị quyết hội nghị lần thứ 4 của ban chấp hành


trung ương đảng khóa 7 về chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình chỉ rõ: “
sự gia tăng dân số quá nhanh là một trong những nguyên nhân quan trọng cản
trở tốc độ phát triển kinh tế xã hội gây khó khăn cho việc cải thiện đời sống của
người dân, hạn chế về mặt phát triển trí tuệ, văn hóa, và thể lực giốn nịi”.
Chính vì vậy làm tốt cơng tác dân số kế hoạch hóa gia đình , thực hiện
gia đình ít con giảm nhanh tỉ lệ dân số tiến tới ổn định quy mô dân số là vấn đề
quan trọng và bức xúc đối với nước ta.
2. Khái niệm công cụ

Truyền thông dân số là q trình liên tục chia sẻ thơng tin kiến thức, thái
độ tình cảm và kỹ năng thuộc lĩnh vực dân số và kế hoạch hóa gia đình nhằm tạo
sự hiểu lẫn nhau giữa bên truyền thông và bên nhận để dẫn tới những thay đổi
trong nhận thức và trong hành động.
2.1. Khái niệm truyền thông dân số

Truyền thông đại chúng là những phương tiện thông tin đại chúng quan
trọng như báo chí, phát thanh truyền hình, pa nơ, áp phích, …ở xã, đài phát
thanh là một phương tiện truyền thông quan trọng được sử dụng rộng rãi trong

việc phổ biến kiến thức, tuyên truyền các chủ trương , chính sách của đảng và
nhà nước về công tác dân số kế hoạch hóa gia đình, vận động đồng bào trong xã
thực hiện các mục tiêu dân số.
2.2. Khái niệm truyền thông đại chúng

Truyền thơng chính thức bao hàm những thiết chế nhà nứơcvĩ mô thông
qua các phương tiện truyền thông đại chúng. Các thiết chế nhà nước thơng qua
các cấp chính quyền, các tổ chức quần chúng, các tổ chức chức năng.
2.3. Khái niêm truyền thơng chính thức

Truyền thơng khơng chính thức là những giao lưu nằm ngồi những thiết
chế chính thức như các quan hệ gia đình, thân tộc, bạn bè, đồng nghiệp…
2.4. Khái niệm truyền thơng khơng chính thức

Chính sách dân số là những biện pháp những ,pháp chế, các chương trình
quản lý và những hoạt động khác của chính phủ nhằm mục tiêu thay đổi hoặc


sửa đổi các xu hướng dân số hiện hành vì sự tồn tại và phồn vinh của mỗi quốc
gia.
2.5. Khái niệm dân số

Kế hoạch hóa gia đình là chủ động quyết định số con và khoảng cách lần
sinh thông qua việc áp dụng các biện pháp tránh thai. Để có gia đình ít con, khỏe
mạnh, hạnh phúc, giầu có là quyền và trách nhiệm của mỗi người. Mỗi cặp vợ
chồng họ được quyền tự do quyết định những ý thức trách nhiệm đầy đủ về số
con của mình trên cơ sở thông tin và những hiểu biết cần thiết để thực hiện
những quyết định ấy. ( ủy ban dân số kế hoạch hóa gia đình)
2.6. Khái niệm kế hoạch hóa gia đình


Sức khỏe sinh sản là tình trạng hồn tồn khỏe mạnh về thể chẩt, tinh thần
và xã hội không có bệnh tật hoặc dị tật về tất cả những gì liên quan đến hệ
thống, chức năng và quá trình sinh sản. Hay có thể hiểu: sức khỏe sinh sản là
quyền của nam giới và nữ giới được thông tin và có thể tiếp cận được với những
biện pháp tránh thai an toàn, hiệu quả phù hợp với khả năng kinh tế và có thể
chấp nhận được theo sự lựa chọn của mình hoặc các biện pháp tránh thai khác
khơng trái với luật pháp. Sức khỏe sinh sản còn bao gồm quyền được chăm sóc
y tế để đảm bảo cho người phụ nữ được an tồn trong q trình mang thai và
sinh nở
2.7. Khái niệm sức khỏe sinh sản

Nhận thức của con người diễn ra ở nhiều cấp độ khác nhau gồm nhận thức
lý tính và nhận thức cảm tính. Nhận thức cảm tính ở độ tiếp thu kinh nghiệm
sống xã hội và bản thân, nhận thức lý tính phản ánh gián tiếp những thuộc tính
bản chất, các mối liên hệ có tính quy luật của hiện tượng xã hội và được thể
hiện qua hệ thống ngôn ngữ nảy sinh trong hoạt động thực tiễn là tiêu chuẩn của
chân lý, la thước đo của nhận thức. Nhận thức có thể được hiểu là sự nhìn nhận
đánh giá của một cá nhân, của một nhóm xã hội… về một đối tượng, một vấn đề
nào đó mà nó được biểu hiện qua hệ thống tháiđộ, hành vi, cử chỉ của chủ thể
nhận thức.


Chương 2: Kết quả khảo sát
1. Sơ lược địa bàn khảo sát

Cổ tiết là xã nằm ở trung tâm của huyện Tam Nơng , xã có diện tích đất tự
nhiên là 477 ha trong đó diện tích đất canh tác là 370 ha trong đó diện tích trồng
lúa là 270 ha và diện tích trồng hoa mầu là 77 ha . cả xã có1480 hộ với 5822
khẩu. trong đó tập trung chủ yếu là làm nông nghiệp chiếm tới 93% là lam nơng
nghiệp cịn lại là các nghề khác.

Trong những năm qua do đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi
và áp dụng một số biện pháp khoa học kỹ thuật nên đời sống người dân có phần
được cải thiện, bình quân đầu người tăng từ 4.090.000 đ/ người /năm (2005) lên
đến 5.196 000đ/ người /năm (2006) . Tính đến nay cả xã có 182 hộ nghèo
đạt12,3% giảm 4,71% so với năm trước. Số hộ giầu đạt 21,5% , cịn lại là hộ
trung bình và khá.
Hiện nay xã có 6 thơn: thơn Cổ Tiết làng , thơn Đức Phong, thôn Danh
Hựu, thôn Tân Thịnh, thôn Ghềnh, thôn Doanh Trại.
Xã có các đồn thể như là : Mặt trận tổ quốc, Hội phụ nữ, Hội nông dân,
Hội cựu chiến binh, Đồn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh đã có những hoạt
động tích cực và có nhiều đóng góp vào sự nghiệp phát triển của toàn xã.
Là một xã thuần nơng, khơng có nghề truyền thống thu nhập chủ yếu dựa
vào nguồn thu từ thuế, như thuế đất, thuế chuyển quyền sử dụng đất, …nhưng
trong những năm gần đây do được sự quan tâm của các cấp chính quyền khuyến
khích phát triển tiểu thủ cơng nghiệp và dịch vụ, đặc biệt là có sự thuận lợi về
giao thơng nên hoạt động bn bán và các loại hình dịch vụ đã phát triển mạnh
mẽ đem lại nguộn thu lớn cho xã ;
Nguồn thu từ trồng trọt :18,64%
Nguồn thu từ chăn nuôi: 27,45%
Nguồn thu từ các nghành dịch vụ:33,6%
Đối với vấn đề giáo dục, xã đã thực hiện tốt nghị quyết trung ương đảng
đề ra như là đầu tư xây dựng cơ sở vật chất đầy đủ quan tâm tới việc đào tạo


nhân tài và quan tâm tới việc giảng dạy. trong năm qua xã đã có những chính
sách khuyến học hỗ trợ những sinh viên nghèo vượt khó , xã đã cho sửa chữa 6
phịng học và đóng mới bàn ghế cho lớp học vơi chi phi lên tới 48,7 triệu đồng,
xã đã cho xây dựng trừơng mần non để đạt trường chuẩn quốc gia.
Trong năm qua xã đã khơng có một trường hợp nào bỏ học và có 30 em
đạt học sinh giỏi trong đó có 5 em đạt học sinh giỏi cấp tỉnh và có 43 em thi đỗ

vào các trường đại học.
Đối với vấn đề y tế : được sự quan tâm của đảng và nhà nứơc và các cấp
chính quyền cơ sở, xã đã xây dựng được một trạm y tế với đội ngũ cán bộ đủ
trình độ từ y sỹ trở lên trong đó có một bác sỹ đa khoa.
Y tế xã đã làm tốt công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu cho người dân, tổ
chức tiêm phòng khám bệnh cho học sinh trong nhà trường đạt kết quả tốt. thực
hiện tơt ba cơng trình vệ sinh. Trên 90% nhân dân được sử dụng nươc sạch.
Ngồi cán bộ trạm, các khu cịn có cộng tác viên y tế thôn, đội giúp cho
trạm phát hiện kịp thời các dịch bệnh, không để lây lan ảnh hưởng đến đời sống
sức khỏe cộng đồng.
Về văn hóa xã hội: xã tiếp tục duy trì và thực hiện cuộc vận động “tồn
dân đồn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” vì vậy trong năm 2006
cả xã có 86,7% gia đình văn hóa.
Đối với việc cưới hỏi, mừng thọ, tang lễ đều đúng quy định của địa
phưong và pháp luật, khơng có hủ tục mê tín dị đoan.
Về công tác truyền thông dân số thường xuyên được giữ vững, đảm bảo
thơng tin kịp thời đường lối chính sách của đảng và nhà nước,các quy định của
địa phương, các sự kiện chính trị quan trọng. Năm 2006 đã phát hành 513 buổi
và kẻ được 3 panô, căng 10 băng zôn tuyên truyền, 20 khẩu hiệu. Tuy nhiên do
máy phát thanh của đài truyền thanh xã quá cũ, vật tư không đảm bảo hay bị
hỏng nên công tác tuyên truyền có lúc bị gián đoạn, cịn bị hạn chế về lượng
phát thanh


2. Kết qủa khảo sát
2.1. Thực trạnh công tác dân số kế hoạch hóa gia đình
2.1.1. Mong muốn có con trai chi phối mạnh

Xã Cổ Tiết có mật độ dân cư đông, đất rộng, nền kinh tế chủ yếu dựa vào
nơng nghiệp là khơng có nghề phụ, tiểu thủ cơng nghiệp và dịch vụ chưa phát

triển mạnh. Trước sự phát triển cơng nghiệp hóa hiện đại hóa nơng nghiệp nơng
thơn của xã trong thời gian tới thì việc thực hiện dân số kế hoạch hóa gia đình
góp phần tích cực vào việc thực hiện phát triển kinh tế- xã hội của xã.
Trong những năm gần đây hoạt động truyền thông dân số được lãnh đạo
đầu tư mạnh mẽ, hoạt động truyền thơng dân số đã có sự kết hợp giữa bên thực
hiện kế hoạch hóa gia đình với các tổ chức y tế, hội phụ nữ, giáo dục tham gia
đắc lực, xã đã đầu tư vào việc nâng cao tri thức về dân số cho cán bộ thơn xóm,
mỗi thơn có một cộng tác viên dân số và một y tế thôn thường xuyên được giáo
dục nâng cao hiểu biết về dân số.
Xã đã xúc tiến công tác vận động tuyên truyền nhận thức thực hiện trương
trình dân số với nhiều biện pháp khác nhau như đình sản, thắt ống dân tinh với
nam, đặt dụng cụ tử cung đối với nữ. Cơng tác tun truyền thực hiện kế hoạch
hóa gia đình trở thành sâu rộng với mọi đối tượng, mọi lứa tuổi trong đó đặc biệt
tập trung vào những cặp vợ chồng đang trong độ tuổi sinh đẻ. Vận động các
thơn xóm, thành lập các tổ chức, các câu lạc bộ như các tổchức văn nghệ, hay
những cuộc họp phụ nữ hàng tuần để tuyên truyền kiến thức về dân số kế hoạch
hóa gia đình, cùng với nó là cơng tác truyền thông dân số trên ti vi, sách báo,
đặc biệt là đài truyền thanh xã. Xã đã đưa ra hình thức phạt hành chính đối với
gia đình nào sinh con thứ ba và có những phần thưởng khích lệ đối với gia đình
có con em chăm ngoan học giịi.
Do làm tốt công tác dân số và được sự quan tâm của ủy đảng và chính
quyền, cùng với sự nỗ lực của cán bộ, cộng tác viên dân số kế hoạch hóa gia
đình nên trong năm 2006 vừa qua ban dân số kế hoạch hóa gia đình đã đạt kết
quả đáng khích lệ đó là ;
Tỷ lệ sinh giảm xuống còn1,42%.


Tỷ lệ sinh con thư 3 giảm .
Tỷ lệ sử dụng biện pháp tránh thai cao hơn năm trước.
Thông qua những biện pháp cụ thể trên nên địa phương đã làm cho trương

trình dân số kế hoạch hóa gia đình ở đây đạt được nhưng kết quả đáng khích lệ,
tỷ lệ sinh ngày càng giảm, tỷ lệ sử dụng biện pháp tránh thai ngày phổ biến và
rộng rãi hơn so với trước. điều này thể hiện rõ hơn qua thống kê sau.
Bảng 1: Tỷ lệ sinh trong những năm gần đây của xã Cổ Tiết:
Thờigian (năm)

Tỷ lệ (%)

2000

2,3%

2001

2,01%

2002

1,87%

2003

1,87%

2004

1,58%

2005


1,55%

2006

1,42%

(Nguồn : Thống kê của ban dân số kế hoạch hóa gia đình xã Cổ Tiết, huyện Tam
Nông )
Thông kê trên về tỷ lệ sinh con trong những năm qua cho thấy, quan niệm
sinh nhiều con đã ngày càng giảm đi, điều đó chứng tỏ nhận thức của nhân dân
về vấn đề dân số ngày càng cao và co sự chuyển biến tích cực. Họ nhận thức
được “đẻ con thì phải ni cho ăn học đàng hồng, đẻ nhiều thì làm sao ni
được, chỉ cần đứa trai đứa gái là đủ rồi, đẻ nhiều thì khổ lắm” và điều đó hầu
như người dân nào cũng hiểu “ chỉ cần 2 đứa thơi.
Có thể nói rằng nhận thức về hành vi sinh đẻ từ 1 -2 con ngày càng được
nâng cao.Nhưng bên cạnh đó quan niêm cần có con trai khơng những nó cịn tồn
tại mà còn chi phối mạnh mẽ đến hành vi sinh đẻ của các cặp vợ chồng.
Theo như số liệu thống kê của ủy ban dân số kế hoạch hóa gia đình của xã
cho biết, trong năm 2003 có tới 11 trường hợp sinh con thứ ba trong năm 2005
là 9 trường hợp và năm 2006 là 7 trường hợp tập trung chủ yếu ở những gia đình
sinh con một bề nhất là lại toàn con gái.


Trong q trình khảo sát thì tơi phát hiện có sự mẫu thuẫn giữa nhận thức
và hành động thậm chí cịn có sự pha lệch giữa nhận thức và hành động. tại sao
người dân đều nhận thức được rằng “đẻ nhiều con thì khổ- chỉ 2 con là đủ”
những lại có rất nhiều trường hợp sinh con thứ 3 ? chính vì vậy chúng tơi đã đặt
ra câu hỏi “ mong muốn có con trai” và đã thu được kết quả sau:

Bảng 2: Thăm dị mong muốn có con trai (%)

Đối tượng

Phương

Giới

Nghề nghiệp

Tuổi

Thuần

Phi

Hỗn

nơng

nơng

hợp

82,1

83,7

58,3

60,7


24,5

17,9

16,3

41,7

39,3

100

100

100

100

100

Nam

Nữ

20-29

30-35

36-45


46-50

>50



78,5

57,3

71,2

66,5

73,5

75,5

Khơng

21,5

42,7

28,8

33,5

26,5


Tổng

100

100

100

100

100

Án trả lời

( Nguồn: khảo sát xã hội học tại xã Cổ Tiết –Tam Nông )
Qua bảng số liệu trên cho thấy mong muốn có con trai để nối dõi tông
đường đã ăn sâu trong nhận thức của người dân, và nó thể hiện dõ nhất ở những
người trên 50 tuổi chiếm tới81,2% đây chính là do ảnh hưởng của phong tục tập
quán cổ xưa đã ăn sâu trong nhận thức của những người cao tuổi “phải có đứa
con trai để khi nằm xuống cịn có người hương khói cho mình” và cũng có lẽ do
trình độ văn hóa cịn hạn chế ít được tiếp xúc với sách báo nên tư tưởng cịn có
nhiều lạc hậu.
Mong muốn con trai ở lứa tuổi 29-29 là 71,2% và 30-45 là 66,5% , với sự
tiếp cận tư tưởng mới ngày càng nhiều và được thường xuyên tiếp xúc với công
tác dân số nên tư tưởng của họ có nhiều tiến bộ hơn và họ hiểu được rằng “chỉ
nên và chỉ được đẻ từ 1-2 con” nhưng có lẽ chính từ việc họ hiểu được rằng chỉ
được đẻ 2 con nên sự mong muốn có con trai càng mạnh mẽ hơn . Và có lẽ đây
cũng chính là ngun nhân giải thích vì sao mà giới trẻ nhận thức đầy đủ về kiến
thức dân số mà tỷ lệ mong muốn có con trai lại chiếm tới 71,2% chỉ thấp hơn



lứa tuổi36-45 có hơn 2% và thậm chí cịn cao hơn 36-45 những 4,7% , và đây
cũng chính là nguyên nhân dẫn đến tình trạng có tới 9 trường hợp sinh con thứ 3
năm 2005 và 7 trường hợp năm 2006.
Phải chăng đây chính là thiếu sót trong cơng tác dân số đẩy mạnh đến việc
sinh đẻ có kế hoạch đẻ it, đẻ thưa mà không thực sự quan tâm đến vấn đề giới
trong cơng tác dân số, chính sự thiếu sót ấy đã dẫn đến chuyện thương tâm “phụ
nữ có 2 con gái và khi mang thai đứa thư ba đi siêu âm lại là gai đã cho đẻ non
khi thai nhi được 7 tháng tuổi” ( pvs) hoặc có những trường hợp bỏ con bên lề
đường chỉ vì là con gái.
Điều đó đã khẳng định cho chúng ta một điều đó là quan niện cần có con
trai nó không chỉ ăn sâu trong nhận thức của những người mà ta cho là cổ hủ lạc
hậu mà nó cịn chi phối khá mạnh mẽ đến hành vi của giới trẻ. Điều này đặt ra
vấn đề là chúng ta phải có kế hoạch tổ chức vận động riêng đối với nội dung cụ
thể, cho họ nhận thức dõ trách nhiệm của mình trong việc thực hiện nghĩa vụ đối
với con cai, với bản thân mình và đối với xã hội.
Mong muốn có con trai ở mỗi một lứa tuổi khác nhau và nó cũng có sự
khác nhau giữa nam và nữ. mong muốn có con trai của nam giới là 76,5% và nữ
giới là 53,3 % điều đó cho thấy đã số những người đàn ơng trong gia đình nào
cũng mong muốn có con trai. Chúng ta biết rằng ở một nơi với tư cách là một
cộng đồng làng xã , nơi lưu giữ những phong tục tập quán thì giá trị của đứa
con trai được đề cao, bởi nó khơng chỉ là chỗ dựa về mặt tình cảm khi về già mà
giá trị của đứa con trai càng tăng lên khi đặt nó trong quan hệ với họ hàng “ là
trưởng họ thì bắt buộc phải có con trai,” hoặc “khơng có con trai thì mọi người
kích bác là mình khơng biết đẻ” và “khơng có con trai thì phải ngồi mân dưới”
có lẽ chính vì vậy nên dù họ có nhận thức được rằng pháp luận chỉ cho đẻ 1-2
con nhưng nếu có được con trai thi “bị phạt cũng chẳng sao” thậm chí có những
trường hợp là đảng viên nhưng họ cũng “sẵn sàng chấp nhận khai trừ đảng để có
được con trai”.Điều đó cho thấy gia trị của con trai rất lớn đối với một gia đình,
nó thực sự có ý nghĩa rất lớn đối với người dân nơi đây đặc biệt là những nguời

nam giới.


Và cũng chính vì vậy mà mong muốn có người con trai của nam giới đã
trở thành một sức ép về con trai đối với phụ nữvà càng nặng nề hơn đối với
người phụ nữ nào sinh con một bề. theo như số liệu khảo sát thì mong muốn có
con trai của người phụ nữ là tương đối cao chiếm53,8%.Điều đó chúng ta cũng
có thể hiểu rằng người đàm ơng trong gia đình là người quyết định những cơng
việc lớn nhỏ có thể nói anh ta là chủ trong một gia đình , vì vậy khi người chồng
quyết định thì người vợ không thể từ chối. Một thực tế cho thấy khi người phụ
nữ là dân trong một gia đình đặc biệt là dâu cả hoặc trưởng họ thì sức ép về việc
sinh con trai là đăc biệt lớn. giới tính của đứa con đặc biệt là con trai góp phần
trong việc khẳng định vị thế của người phụ nữ trong gia đình và họ tộc nhà
chơng và chỉ chừng nào sinh được con trai thì mới thực sự yên tâm, con khơng
thì sẽ bị họ hàng nhà chồng coi thường, và một lý do quan trọng khác đó là sinh
con trai mới có thể bảo vệ được hạnh phúc của gia đình nếu khơng “các ơng xẽ
đi tìm kiếm nơi khác” vì vậy mà khi chưa có con trai thì nhất thiết phải sinh
cho tới khi có con trai. Đây chính là ngun nhân vì sao trong năm qua có nhiều
trường hợp sinh con thứ 3.
Nghề nghiệp khác nhau , nên ý định sinh con trai cũng khác nhau. Đối với
hộ thuần nơng mong muốn có con trai là83,1% , đối với hộ phi nông nghiệp là
58,3% và hỗn hợp là65,%.
Có thể thấy nghề nghiệp ảnh hưởng rất lớn đến thái độ cũng như tới việc
quyết định sinh đẻ của người dân. Sở dĩ mong muốn có con trai đối với những
gia đình nơng nghiệp lên tới83,15 là vì trong điều kiện canh tác lúa nước, sức
lao động cơ bắp là chủ yếu và cũng chính từ nền kinh tế nông nghiệp ấy khiến
họ quanh năm với đồng ruộng ít có cơ hội tiếp xúc với các phương tiện truyền
thơng nên quan niện của họ vẫn có nhiều cổ hủ và lạc hậu hơn đối với những gia
đình phi nơng và hỗn hợp.
Qua phân tích trên cho thấy ở một cộng đồng làng xã nơi có những phong

tục tập qn, trong đó có các chuẩn mực, quy mơ gia đình, và nền kinh tế lúa
nước thì giá trị của người con trai ngày càng được đề caovà nó cịn ăn sâu vào
trong nhận thức của người dân xã Cổ Tiết .Do đó trong chiến lược vận động dân


sơ và kế hoạch hóa gia đình ở khu vực nơng thơn nói chung và xã Cổ Tiết nói
riêng đang gặp phải nhiều khó khăn đáng kể và là một trong những cản trở lớn
đối với việc thực hiện công tác dân số kế hoạch hóa gia đình. Địa phương cần
có những chính sách, những biện pháp tun truyền thiết thực và mạnh mẽ hơn
thì mới có thể loại trừ được tư tưởng trọng nam khinh nữ đã trở thành căn cố của
người dân nơi đây.
2.1.2. Hiểu biết và sử dụng các biện pháp tránh thai

Theo số liệu thống kê của ủy ban dân số xã cho biết, cả xã hiện có 1049
phụ nữ có chồng đang trong độ tuổi sinh đẻ ( từ 15-49) với số lượng người
trong độ tuổi sinh đẻ đông như vậy nên hoạt động công tác dân số kế hoạch hóa
gia đình có nhiệm vụ vô cùng quan trọng trong việc vận động bà con sinh đẻ có
kế hoạch và đặc biệt là vấn đề hỗ trợ chị em trong việc sử dụng các biện pháp
tránh thai. Trong năm qua cả xã đã có 80 trường hợp sử dụng bao cao su tránh
thai, 89 trường hợp đặt vòng, 75 trường hợp sử dụng thuốc tránh thai và 04
trường hợp đình sản. Điều đó cho thấy việc sử dụng các biện pháp tránh thai của
chị em trong xã tương đối cao thậm chí cịn vượt so với chỉ tiêu mà ban y tế xã
đã đề ra .
Để năm rõ hơn về vấn đề này tôi thực hiện khảo sát về việc sử dụng biện
pháp tránh thai và đã thu được kết quả sau
Bảng 3: việc sử dụng các biện pháp tránh thai của phụ nữ đang trong độ
tuối sinh đẻ của xã Cổ Tiết.
Biện pháp tránh thai

Tỷ lệ %


Dụng cụ tử cung

40,3

Thuốc uống tránh thai

13,5

Bao cao su

19,6

Triệt sản

3,2

Biện pháp khác

4,8

Không sử dụng

18,6


Từ bảng số liệu trên cho thấy những người trong độ tuổi sinh đẻ sử dụng
những biện pháp tránh thai khác nhau, trong đó số người sử dụng vịng tránh
thai là tương đối cao chiếm tới 40,3%, những biện pháp khác như bao cao su là
19,6%, thuốc tránh thai là 13,5% và các biện pháp khác như tính lịch hoặc xuất

tinh ngoài là 4,8%.
Trong nghiên cứu và phỏng vấn sâu được biết số người sử dụng biện pháp
đặt vòng tránh thai ở đây cao là vì sử dụng biện pháp này thuận tiện sử dụng
được lâu dài cho tới khi nào muốn sinh con thì đi tháo vịng, nhưng bên cạnh đó
thì biện pháp này cũng có một số tác dụng phụ đó là thường gây chóng mặt,
nhức đầu, đau lưng, và một số bệnh phụ khoa khác khiến cho nhiều chị em thiếu
thiện cảm khi sử dụng biện pháp này .bên cạnh đó thì các dịch vụ kế hoạch hóa
ngày nay càng được phát triển mạnh, các cơ sở y tế tư nhân hoạt động ngày càng
tích cực hơn và chị em có nhu cầu tránh thai có thể dễ dàng tìm thấy trên thị
trường hay các cơ sở y tế tư nhân những biện pháp mà mình mong muốn, chính
vì vậy mà các biện pháp tránh thai như thuốc hoặc bao cao su cũng được sử
dụng nhiều, nhưng đây chỉ là biện pháp nhất thời và cũng là ngun nhân làm
nảy sinh yếu tố có thai ngồi ý muốn.song có thể nói rằng đã có nhiều biến đổi
đáng kể trong việc sử dụng biện pháp tránh thai, bên cạnh hình thức đặt vịng thì
biện pháp tránh thai bằng bao cao su và thuốc tránh thai cũng được chị em tin
tưởng và sử dụng nhiều, và nhu cầu về sử dụng các biện pháp tránh thai đã thực
sự xuất hiện.
Chúng ta biết rằng các biện pháp tránh thai là một yếu tố quyết định quan
trọng cho sự thành công của cơng tác dân số kế hoạch hóa gia đình. Vì vậy mà
việc cung cấp các biện pháp tránh thai cùng với sự tư vấn tốt giúp cho đối tượng
sử dụng các biện pháp tránh thai phù hợp, giúp các cặp vợ chồng tự xác định số
con và khoảng cách giữa các lần sinh.
2.1.3. Độ tuổi kết hôn

Độ tuổi kết hôn cũng là một trong những nhân tố quan trọng trong cơng
tác dân số kế hoạch hóa gia đình của xã. Trong những năm gần đây có nhiều ý
kiến cho rằng độ tuổi kết hôn của những vùng nông thôn giảm đi do kết hôn sớm


và có xu hướng tảo hơn. Trong q trình thu thập thông tin và phỏng vấn sâu

chúng tôi được biết, tình trạng kết hơn sớm chủ yếu do họ tìm hiểu yêu đương
sớm, và đến khi đủ 18 tuổi thì họ đã sẵn sàng cho việc kết hôn.phỏng vấn sâu
cho biết “ khi u thì dấu bố mẹ khơng ai biết là chúng yêu nhau, đến khi lỡ rồi
thì mọi người mới biết, chỉ còn cách cưới cho chúng”. Điều đó cho thấy sự lơ là
của bố mẹ và người thân trong gia đình trong việc quản lý con cái và nhận thức
của trẻ cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng “chưa đến tuổi
kết hơn mà đã làm mẹ” q sớm. bên cạnh đó thì phong tục tập quán cũng ảnh
hưởng mạnh đến độ tuổi kết hôn, qua nghiên cứu cho thấy những cô gái ở tuổi
20 mà chưa có ai để ý đã bắt đầu lo và ở lứa tuổi 21-22 mà chưa có người hỏi thì
đã bị xếp vào diện quá lứa nhỡ thì thậm chí có cơ mới chỉ học song phổ thơng đã
lo lấy chồng vì “sợ bố mẹ lo lắng”, con ở lứa tuổi 25 mà chưa có ai lấy thì coi
như đã khơng cịn cơ hội, khi được hỏi thì được biết “những ai đi học hoặc đi
làm ăn ở ngồi thì cịn lấy chồng lấy vợ ở tuổi 20-22, cịn ai ở nhà thì đa số là
lấy chồng lấy vợ sớm 17-18 là lấy rồi” thậm chí “có những cơ gái mới 21 tuổi đã
có 2 con”và “ ở nhà là ruộng thì lập gia đình sớm để có người làm, và để cho ổn
định gia đình” và việc lấy vợ lấy chông sớm ở đây như trở thành phong trào.
Khi hỏi về vấn đề này thì cán bộ tư pháp của xã cho biết “có những
trường hợp đăng ký chưa đủ tuổi, khơng cho đắng ký thì họ vẫn tổ chức cưới mà
không cần đăng ký” và “những người đủ tuổi đăng ký thì đa số ở độ tuổi 18-20”
theo như báo cáo của ban tư pháp xã cho biêt trong năm qua có 45 trường hợp
đăng ký kết hơn nhưng chỉ có 6-8 trường hợp là từ 22-24 tuổi, hoặc có những
cặp chồng thì 24-25 tuổi nhưng vợ chỉ 17-18 thậm chí khơng đủ tuổi kết hơn.
Như vậy có thể thấy xu hướng kết hơn ở độ tuổi 18-19 ở xã đã trở thành
phổ biến mà nguyên nhân chính bắt nguồn từ yếu tố tâm lý. Mặc dù khơng vi
phạm độ tuổi kết hơn nhưng nó đi ngược lại với cuộc vận động nâng cao độ tuổi
kết hơn nhằm thực hiện có hiệu quả trương trình dân số kế hoạch hóa gia đình.
Giải quyết được vấn đề tâm lý cho phụ nữ là góp phần thiết thực trong cơng tác
dân số kế họach hóa gia đình. Bời vì nếu người phụ nữ kết hơn sớm sẽ kéo dài
độ tuối sinh đẻ, nếu không sử dụng các biện pháp tránh thai có độ an tồn cao



thì có nhiều nguy cơ sinh sinh con vượt kế hoạch. Song nếu chỉ tập trung nâng
cao độ tuối kết hơn mà khơng gắn liền với kế hoạch hóa thì cũng xẽ khơng đem
lại hiệu quả cao. Điều này địi hỏi phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa các nội dung
trong việc thực hiện công tác tuyên truyền dân số. và để thực hiện được điều này
thì phải có sự tác động của công tác truyền thông, các kênh truyền thơng khác
nhau có mức độ ảnh hưởng đến từng đối tượng khác nhau, và để người dân có
thể nhận thức và thay đổi được hành động của mình thì phải có thời gian khơng
thể thực hiện được ngay trong một sớm một chiều.
Qua thực trạng công tác dân số kế hoạch hóa gia đình của người dân xã
Cổ Tiết có thể thấy, cơng tác dân số của xã đã đạt được một số kết quả đáng
khích lệ nhưng bên cạnh đó cịn có nhiều hạn chế, có rất nhiều nguyên nhân ảnh
hưởng, tác động mạnh đến công tác dân sô của địa phương nhưng trong nghiên
cứu này tôi tập chung làm rõ các yếu tố truyền thông nào đã tác động đến cơng
tác dân số kế hoạch hóa gia đình của địa phương.
2.2. Yếu tố truyền thơng ảnh hưởng đến cơng tác dân số kế hoạch hóa gia đình

Trong thời đại ngày nay với sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ
thuật trong các lĩnh vực như điện tử viễn thơng thì vai trị của truyền thơng ngày
càng sáng giá vì nó thực sự đóng vai trị quan trọng trong mọi đời sống xã hội.
Trong chiến lược truyền thơng dân số ở nứơc ta thì vấn đề dân số và kế
hoạch hóa là giải pháp trung tâm, và sự thành bại của giải pháp đó phải kể đến
thái độ chấp nhận của nhóm dân cư trong xã hội. trong đó phải khẳng định vai
trị của cơng tác truyền thơng dân số
Trong q trình thực hiện khảo sát thì chúng tơi nhận thấy sự có mặt của
hai yếu tố truyền thông tác động mạnh đến nhận thức và hành vi của địa
phương.đó là kênh truyền thơng chính thức và truyền thơng khơng chính thức.
Kênh truyền thơng chính thức: như báo chí, phát thanh truyền hình, panơ,
áp phích, đặc biệt là đài phát thanh xã là một trong những phương tiện truyền
thông quan trọng trong việc phổ biến kiến thứcdân số, và tuyên truyền các

đường lối chính sách của đảng và nhà nước.


Kênh truyền thơng khơng chính thức: là những giao lưu xã hội, nằm ngồi
những thiết chế chính sách như các quan hệ gia đình, bạn bè, đồng nghiệp…
2.2.1. Truyền thơng chính thức
2.2.1.1. Truyền thơng đại chúng

Xã Cổ Tiết là xã thuần nông nhưng trong những năm qua do được sự
quan tâm của đảng ủy và chính quyền địa phương cùng với chính sách mở cửa
của nhà nước ta, và do xã có địa hình giao thơng thuận tiện nên các loại hình
giao dịch hàng hóa thuận tiên, đời sống người dân ngày càng được cải
thiện.trong năm qua thu nhập bình quân đầu người của xã là5.196.000đ/
người/năm, còn về đời sống tinh thần, thực tế cho thấy phần lớn các hộ gia đình
có ti vi, và 25% hộ có video và trên 45% có đài các loại. tuy nhiên đó chỉ là cơ
sở vật chất ban đầu, vấn đề là ở chỗ mức độ theo dõi thơng tin đó như thế
nào?qua khảo sát cho kết qủa như sau:
Bảng 4: mức độ theo dõi thông tin.
Phương án trả lời

chung

Thuần nông

Phi nông

Hỗn hợp

Ti vi




74,5

72,8

82,5

74,2

khơng

25,5

27,2

17,5

25,8



31,3

32

64,7

51.3


sách báo khơng

68,7

68

35,5

48,7

radio



35,4

21,5

17,6

14,1

khơng

64,6

78,5

82,4


85,9

Đài phát Có

64,7

80.4

82,5

74,2

thanh

35,3

19,6

17,5

26,8

Đọc

khơng

Qua khảo sát trên cho thấy, mức độ theo dõi các phương tiện truyền thông
như ti vi, đài và phát thanh của xã chiếm ưu thê hơn hẳn so với sách báo. Điểu
đó có thể hiểu sau một ngày làm việc vất vả thì phương tiện thư gian của nguời
dân là xem ti vi hoặc nghe đài để nắm bắt thông tin, và đa số mọi người đều có

tâm lý là ngại cầm đến sách vở, và một nguyên nhân nữa khiến người dân it tiếp
cận được với công tác dân số qua sách báo là do khơng có sẵn, phải bỏ tiền ra


mua hoặc phải mất thời gian đi mượn,và họ cũng “ khơng có thời gian ngồi
đọc”, đó chính là ngun nhân mà người dân nơi đây không thường xuyên tiếp
xúc với báo chí.
Thực tế cho thấy các phương tiện nghe nhìn được người dân theo dõi ở
mức cao chiếm tới 74,5% và 64,7% đặc biệt là vơ tuyến truyền hình đã có sức
thu hút mạnh mẽ đối với người nơng dân nơi đây. Nhưng ở mỗi nghề nghiệp
khác nhau thì mức độ theo dõi thông tin khác nhau.và nếu xét theo nghề nghiệp
thì những người những người trong nhóm thuần nông không theo dõi phương
tiện truyền thông đại chúng cao hơn nhóm phi nơng và hỗn hợp như: những
người khơng theo dõi tivi nhóm thuần nơng là27,2% ở phi nơng là 17,5% và hỗn
hợp là25,8% , đọc sách báo nhóm thuần nông là 68%, phi nông là 35,5%, và hỗn
hợp là48,7%. Như vậy có thể thấy mức độ theo dõi thơng tin của nhóm phi nơng
cao hơn hẳn so với nhóm hỗn hợp và thuần nơng, điều này phản ánh nhu cầu
nắm bắt thơng tin của nhóm này cao hơn hẳn so với các nhóm khác, bên cạnh đó
là do họ có điều kiện kinh tế tốt hơn và thời gian rảnh rỗi nhiều hơn so với các
nhóm khác, và thực tế cho thấy số người đọc báo nghe đài thường tập trung vào
những cán bộ viên chức, những người làm công tác chuyên môn
Từ bảng số liệu trên ta thấy rõ được vai trò to lớn của kênh truyền thơng
đại chúng, đã phát huy được vai trị của mình trong cơng tác truyền thơng góp
phần to lớn về thay đổi nhận thức và hành vi của người dân trong việc chấp nhận
sử dụng các biện pháp tránh thai và trong công tác truyển tải thông tin về vấn đề
dân số kế hoạch hóa gia đình.
Bên cạnh các kênh truyền thơng đại chúng thì các kênh truyền thơng trực
tiếp từ chính quyền đồn thể có vai trị to lớn trong cơng tác dân số, bởi vì kênh
truyền thơng trực tiếp này can thiệp mạnh mẽ vào đời sống của nhân dân, vào
các quan vợ chồng, gia đình.

2.2.1.2. Chính quyền đồn thể

Trong cơng tác truyền thơng thì chính quyền đồn thể cóvai trị to lớn,
mỗi tổ chức có chức năng khác nhau, nhiệm vụ và quyền hạn khác nhau nhưng
đều chịu sự chỉ đạo của uỷ ban nhân dân xã và đều thực hiện một mục tiêu


chung đó là phát triển xã hội. chính vì vậy khi có chủ trương chính sách từ trên
đưa xuống xã thực hiện bằng việc giao nhiệm vụ cho các cơ quan các tổchức xã
hội:
Thực tiễn cho thấy khi có chính sách của trên đưa xuống thì các tổ chức
xã hội và nghiệp vụ xã hội phát động tuyên truyền về cơng tác dân số hoặc đến
từng hộ gia đình thuyết phục nhưng những hoạt động này không diễn ra thường
xuyên mà chỉ theo đợt theo định kỳ.
Đối với tổ chức y tế với chức năng của mình cịn có nhiệm vụ là cung cấp
tư liệu, các thông tin về dân số kế hoạch hóa gia đình cho cấp trên đồng thời
phải cung cấp và sử lý các đối tượng đến thực hiện các biện pháp tránh thai như
đặt vòng, cấp bao cao su, thuốc, hút và nạo phá thai… đồng thời phải hướng dẫn
cũng như tư vấn các biện pháp tránh thai đó cho người dân.
Đài phát thanh xã là một trong những phương tiện truyền thông quan
trọng của xã trong cơng tác tun truyền kế hoạch hóa, và được phát vào hồi
5h30 đến 6h sáng và từ 5h đến 5h30 chiều, nhằm cung cấp những thông tin cho
người dân, cịn thơng tin về kế hoạch hóa gia đình được phát theo định kỳ và
trong khoảng thời gian ngắn như đặt vịng tiêm chủng, hoặc chăm sóc sức khỏe
bà mẹ và trẻ em.ngồi việc phát thanh cịn có những hoạt động tuyên truyền
bằng khẩu hiệu, kẻ vẽ áp phích tuyên truyền.Bên cạnh đó xã cịn có các biện
pháp hành chính như là sự phạt đối với hộ gia đình nào sinh con thứ ba, nếu
không xẽ không đăng ký khai sinh. Hoặc khai trừ ra khỏi tổ chức đảng(nếu là
đảng viên)
Như vậy có thể thấy hoạt động truyền thơng dân số kế hoạch hóa gia đình

ở đây cơ quan quyền lực địa phương giao cho mỗi tổ chức chức năng thực hiện
nhiệm vụ cụ thể, mỗi tổ chức nghiệp vụ này hoạt động tương đối độc lập theo
chức năng của mình nhưng đều có sự chỉ đạo tập trung của ủy ban nhân dân xã
vì vậy thường có hoạt động phối hợp nhất định giữa các tổ chức đó với nhau và
đều hướng tới mục tiêu chung là vận động cơng tác dân số kế hoạch hóa gia
đình, ổn định và phát triển đất nước.


2.2.2. Truyền thơng khơng chính thức

Trong cuộc sống của mỗi con người thì yếu tố mơi trường, hịan cảnh
sống, có tác động mạnh mẽ đến nhận thức và hành vi của con người và nó là yếu
tố ln tồn tại bên cạnh con người và hòa nhập váo cuộc sống của họ khiến
chúng ta khó có thể kiểm sốt được.trong cơng tác dân số kế hoạch hóa gia đình
thì các yếu tố gia đình, họ hàng làng xóm, bạn bè là những yếu tố có tác động
mạnh mẽ đến nhận thức và hành vi của mỗi cá nhân
2.2.2.1. Gia đình

Gia đình là một tế bào quan trọng để hình thành nên xã hội, trong một gia
đình cũng có các quan hệ khác nhau như vợ -chồng, bố mẹ- con cái, ông bà- các
cháu…trong các quan hệ ấy thì quan hệ quan trọng nhất có ý nghĩa nhất là quan
hệ vợ -chồng,và có ý nghĩa quan trọng hơn trong cơng tác dân số và đa số các
cặp vợ chồng đều có sự bàn bạc thảo luận với nhau trong việc quyết định sinh
con( 78%), sử dụng biện pháp tránh thai (69% )điều này cho thấy việc quyết
định sinh con và sử dụng các biện pháp tránh thai được các cặp vợ- chồng quan
tâm nhiều nhất và khi cả vợ và chồng quan tâm đến kế hoạch hóa họ sẽ bàn với
nhau để thơng qua đó có thể nâng cao nhận thức và hiểu rõ được lợi ích của vấn
đề này.như vậy có thể thấy thiếu truyền thơng giữa vợ và chồng xẽ là một cản
trở lớn trong công tác dân số kế hoạch hóa gia đình.nhưng người làm cơng tác
dân số kế hoạch hóa gia đình nên có những hoạt động khuyến khích các cặp vợ

chồng và coi đó là một kênh truyền thơng quan trọng về kế hoạch hóa gia đình,
để có thể nâng cao chất lượng truyền thơng này cần phải có sự đầu tư hơn nữa
như: việc nâng cao số lượng và chất lượng các thông tin về vấn đề này, cấp phát
tài liệu liên quan đế kế hoạch hóa gia đình, chúng ta biết rằng dù kênh truyền
thơng đại chúng có cung cấp thơng tin kiến thức kế hoạch hóa gia đình những
người quyết định cuối cùng vẫn là vợ và chồng, vì vậy mà truyền thơng giữa vợ
và chồng là một trong những yếu tố quan trọng tác động mạnh mẽ đến công tác
dân số và kế hoạch hóa gia đình.


2.2.2.2. Họ hàng và làng xóm

Quan hệ họ hàng và làng xóm có một vai trị quan trọng trong đời sống
của người dân việt nam đặc biệt là ở những vùng q thì quan hệ này cịn quan
trọng hơn rất nhiều , các cụ xưa có câu “bán anh em xa, mua láng giềng gần”
điều đó nói lên tầm quan trọng trong quan hệ họ hàng làng xóm.
Trong cơng tác dân số kế hoạch hóa thì người quyết định hành vi sinh đẻ
của các cặp vợ chồng chủ yếu do hai vợ chồng quyết định, song về mặt nào đó
thì hành vi sinh đẻ của vợ chồng cũng bị chi phối bởi quan hệ họ hàng thân tộc
như: bố mẹ đẻ, anh chị em, bố mẹ chồng.
Chúng ta đều biết trong xã hội nơng thơn thì quan hệ thân tộc họ hàng có
vai trị quan trọng, đặc biệt trong xã hội ngày nay khi mà các gia phả đang được
khôi phục và phát triển thì nó cũng ảnh hưởng mạnh mẽ đến quyết định hành vi
sinh đẻ của các cặp vợ chồng. Theo như kế quả điều tra của chúng tơi cho thấy
có tới 83,2% các cặp vợ chồng trả lời là sinh con theo ý muốn của chính mình
nhưng bên cạnh đó có tới 16,8% trả lời là sinh con theo ý muốn của bố mẹ
chồng hoặc những người thân tộc “ bố mẹ chồng em bảo em là dâu trưởng lại là
trưởng họ nên nhất định phải đẻ cho được con trai” hoặc “ phải có con trai thì
mới được ghi tên vào gia phả của dịng họ”cũng có trường hợp cũng chỉ vì
mong bằng chị bằng anh “ các anh chị em đều có con trai cả, nên em cũng cố

lấy đưa”thậm chí có anh cịn cho biết “ bạn bè chơi với nhau chúng nó ai cũng
có con trai, mình cũng khơng thể kém được” cũng chỉ vì tâm lý cho bằng bạn
bằng bè mà anh bắt vợ phải nghiên cứu sách báo để đẻ được con trai.
Có thể thấy quan hệ họ hàng thân tộc và làng xóm có tác động mạnh mẽ
đến hành vi sinh đẻ của các cặp vợ chồng. đặc biệt là ở những vùng q nơng
thơn việt nam nói chung và ở Cổ Tiết nói riêng nơi mà quan hệ họ hàng nội
ngoại ln được coi trọng, nó đã trở thành những chuẩn mực truyền thống khó
có thể thay đổi được. khi sống trong một cộng đồng thì cá nhân xẽ phải tuân
theo những chuẩn mực của cộng đồng vì vậy mà công tác dân số phải phát hiện
ra được những ưu và nhược điểm để từ đó phát huy được những ưu điểm có lợi
cho cơng tác dân số và hạn chế nhược điểm


Trong quá trình khảo sát đã thu đứợc kết quả về nhận biết thông tin kế
hoạch
Bảng: nhận biết về thông tin kế hoạch hóa gia đình:
Phương án trả lời

Giới tính
Nam

Nữ

Chính quyền

37,0

28,8

Đoàn thể


46,3

33,7

Đài báo

53,6

47,2

Trạm y tế xã

74,4

93,2

Vợ chồng

34,3

37,2

Người khác

16,9

27,8

Qua bảng số liệu trên cho thấy đa số mọi người tiếp nhận thông tin từ các

tổ chức như trạm y tế xã và chính quyền đồn thể xã. Điều đó cho thấy vai trị
của các tổ chức các đồn thể hay nói cách khác là các kênh truyền thơng chính
thức đã có tác động mạnh đế nhận thức của người dân nơi đây. Nhưng giữa nam
và nữ có mức độ nhận thưc và thu nhận thông tin từ các nguồn khác nhau như:
nhận biết thơng tin của nam giới qua chính quyền đoàn thể hay đài báo cao hơn
hẳn so với nữ giới, nhưng nhận biết thông tin qua trạm y tế xã hoặc qua người
khác ở nữ giới cao hơn hẳn so với nam giới( nữ là 93,2%,nam là 74,4%), qua
phỏng vấn sâu cho biết, “ phụ nữ ngoài việc đi làm đồng về thì cịn phải lo lắng
cơng việc ở nhà như nấu cơm, lợn ga, con cai…còn người chồng thì đa số khơng
bận tâm đến việc đó, nếu có thì cũng chỉ có phần nào” điều đó cho thấy thời
gian làm việc nhà khiến cho người phụ nữ không cịn thời gian để tham gia vào
các hoạt động đồn thể, và theo doĩ đài báo hơn nữa theo như truyền thống của
các miền q thì chỉ có người đàn ông trong gia đình mới được tham gia vào lễ
hội và họp bàn nên cũng là nguyên nhân mà phụ nữ it nắm được những thông tin
từ các tổ chức chính quyền hơn nam giới.
Đặc biệt là trong cơng tác truyền thơng khơng chính thức thì vai trị truyền
thơng vợ và chồng chiếm chỉ số cao hơn hẳn so với các loại truyền thồng không


×