Tải bản đầy đủ (.doc) (56 trang)

Vai trò của các NHTM đối với các hoạt động kinh tế ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (311.82 KB, 56 trang )

Trường ĐHHH Bài tập lớn KTVM Khoa KTVTB
LỜI MỞ ĐẦU
Kinh tế vĩ mô mang lại cho chúng ta cái nhìn bao quát về tình hình
kinh tế của một quốc gia. Việc nghiên cứu những tương tác giữa các bộ phận
của nền kinh tế, giữa hành vi của các nhà doanh nghiệp và của những người
tiêu dùng đơn lẻ được gọi là kinh tế vĩ mô. Mục tiêu của kinh tế vĩ mô là
xem xét tất cả các xu thế của nền kinh tế, chẳng hạn như mức sử dụng nhân
công, mức tăng trưởng kinh tế, cán cân thanh toán và lạm phát. Việc nghiên
cứu nền kinh tế thế giới chủ yếu là nghiên cứu tổng quát về kinh tế vĩ mô.
Giống như tốc độ động cơ được điều chỉnh bởi lượng cung ứng nhiên
liệu, kinh tế vĩ mô bị ảnh hưởng chủ yếu bởi chính sách tiền tệ (kiểm soát
lượng cung tiền tệ của một quốc gia) và chính sách tài khóa (kiểm soát thu
và chi của chính phủ). Việc kiểm soát nền kinh tế thực chất nằm trong tay
của Ngân hàng Trung ương (NHTW) và của chính phủ, bởi vì, chỉ có chính
phủ và NHTW mới có thể kiểm soát được lượng tiền tệ để nạp cho nền kinh
tế.
Chính sách tiền tệ của một quốc gia cũng như việc kiểm soát lượng
tiền lưu thông là thuộc chức năng của NHTW. Ngân hàng Nhà nước Đức,
Ngân hàng Nhà nước Anh, Ngân hàng Nhà nước Nhật Bản đều điều chỉnh
lượng cung ứng tiền tệ theo những mục tiêu căn bản giống như Quỹ dự trữ
liên bang của Mỹ nhằm đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát.
Giống như người lái xe sử dụng bộ phận gia tốc để tăng giảm tốc độ
của xe, NHTW kiểm soát nền kinh tế bằng cách gia giảm lượng cung ứng
tiền tệ. Thông qua những quy định chặt chẽ về cung ứng tiền tệ như một
công cụ thúc đẩy nền kinh tế, NHTW giữ cho nền kinh tế khỏi bị biến động
quá mức.
Chính sách tiền tệ thực chất như một trò chơi đánh đó. Không có số liệu
nào có thể nói cho ta biết nền kinh tế đang tăng trưởng nhanh đến mức nào,
mà cũng không có cái gì cho ta biết nền kinh tế sẽ đáp ứng những thay đổi
có thể xảy ra theo tháng hay theo năm nhanh đến mức nào. NHTW dùng
"một mắt" để theo dõi tốc độ lạm phát có thể bùng ra do nền kinh tế quá


nóng. Còn mắt kia để theo dõi tốc độ thất nghiệp có thể tăng nhanh do nền
kinh tế suy giảm.
Nền kinh tế cũng có thể kiểm soát được bằng điều chỉnh chính sách tài
chính khóa bằng những khoản thu chi của chính phủ. Mặc dù NHTW kiểm
soát lượng cung ứng tiền tệ của một quốc gia, nhưng việc thu chi của chính
phủ cũng ảnh hưởng lớn đến tăng trưởng kinh tế của đất nước. Cho dù tốt
1
Trường ĐHHH Bài tập lớn KTVM Khoa KTVTB
hay xấu đi nữa thì những ảnh hưởng kinh tế chủ yếu đối với cuộc sống hàng
ngày của chúng ta như lạm phát và thất nghiệp trước tiên là kết quả của
những quyết định ở tầm vĩ mô.
Các ngân hàng thương mại (NHTM) là kênh thông tin huy động vốn
của các doanh nghiệp; điều tiết các hoạt động kinh tế của xã hội; là công cụ
của chính phủ trong việc tài trợ vốn cho các mục tiêu chiến lược hoạt động
của các trung gian tài chính. Trong những năm qua hệ thống các NHTM ở
Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ với sự gia tăng và lớn mạnh cả về số lượng
và chất lượng. Hoạt động của các NHTM liên quan đến hầu hết các chủ thể
kinh tế trong xã hội nên sự sụp đổ của một ngân hàng sẽ làm ảnh hưởng đến
quyền lợi của người gửi tiền đồng thời đến toàn hệ thống. Bản chất hoạt
động của các ngân hàng là chứa đựng những rủi ro. Vì thế sự điều tiết chặt
chẽ và giám sát thường xuyên của NHTW sự điều chỉnh của chính sách tiền
tệ sẽ ngăn cản xu hướng theo lợi nhuận quá mức. Chính sách tiền tệ sẽ quyết
định trực tiếp đến phương hướng hoạt động của các ngân hàng.
Để tìm hiểu sâu hơn, trong bài tập lớn lần này, em sẽ đề cập đến lý
thuyết về chính sách tiền tệ, vai trò kiểm soát thị trường tiền tệ của NHTW
và tác động của chính sách tiền tệ đối với hoạt động của hệ thống NHTM ở
Việt Nam thời kỳ 2005 đến nay.
2
Trường ĐHHH Bài tập lớn KTVM Khoa KTVTB
NỘI DUNG CHÍNH

Chương 1: Lý thuyết về chính sách tiền tệ và vai trò kiểm soát thị
trường tiền tệ của Ngân hàng Trung ương.
A. Giới thiệu môn học, vị trí của môn học trong chương trình học
Đại học
1.1 Giới thiệu về môn học
1.1.1. Đối tượng nghiên cứu của kinh tế học vĩ mô
Kinh tế học vĩ mô – một phân ngành của kinh tế học – nghiên cứu sự
vận động và những mối quan hệ kinh tế chủ yếu của một đất nước trên bình
diện toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Nói cách khác, kịnh tế học vĩ mô nghiên cứu sự lựa chọn của mỗi
quốc gia trước những vấn đề kinh tế và xã hội cơ bản như: tăng trưởng kinh
tế, lạm phát, thất nghiệp, xuất nhập khẩu hàng hóa và tư bản, sự phân phối
nguồn lực và phân phối thu nhập giữa các thành viên trong xã hội.
Những vấn đề then chốt được kinh tế học vĩ mô quan tâm nghiên cứu
bao gồm mức sản xuất, thất nghiệp, mức giá chung và cán cân thương mại
của một nền kinh tế. Phân tích kinh tế học vĩ mô hướng vào giải đáp các câu
hỏi như: Điều gì quyết định giá trị hiện tại của các biến số này? Điều gì quy
định những thay đổi của các biến số này trong ngắn hạn và dài hạn? Thực
chất chúng ta khảo sát mỗi biến số này trong những khoảng thời gian khác
nhau: hiện tại, ngắn hạn và dài hạn. Mỗi khoảng thời gian đòi hỏi chúng ta
phải sử dụng các mô hình thích hợp để tìm ra các nhân tố quyết định các
biến kinh tế vĩ mô này.
Một trong những thước đo quan trọng nhất về thành tựu kinh tế vĩ mô
của một quốc gia là tổng sản phẩm trong nước (GDP). GDP đo lường tổng
sản lượng và tổng thu nhập của một quốc gia. Phần lớn các nước trên thế
giới đều có tăng trưởng kinh tế trong dài hạn. Các nhà kinh tế vĩ mô tìm
cách giải thích sự tăng trưởng này. Nguồn gốc của tăng trưởng nhanh hơn
các nước khác? Liệu chính sách của chính phủ có thể ảnh hưởng đến tăng
trưởng kinh tế dài hạn của một nền kinh tế hay không?
Mặc dù tăng trưởng kinh tế là một hiện tượng phổ biến trong dài hạn,

nhưng sự tăng trưởng này có thể không ổn định giẵ các năm. Trên thực tế,
GDP có thể giảm trong một số thời kì. Những biến động ngắn hạn của GDP
được gọi là chu kì kinh doanh. Hiểu biết về chu kì kinh doanh là một mục
tiêu chính của kinh tế học vĩ mô. Tại sao các chu kì kinh doanh lại xuất
3
Trường ĐHHH Bài tập lớn KTVM Khoa KTVTB
hiện? Các lực lượng kinh tế nào gây ra sự suy giảm tạm thời trong mức sản
xuất, các lực lượng nào làm cho nền kinh tế phục hồi? Phải chăng các chu kì
kinh doanh gây ra bởi các sự kiện không dự tính được hay chúng bắt nguồn
từ các lực lượng nội tại có thể dự tính trước được? Liệu chính sách của chính
phủ có thể sử dụng để làm dịu bớt hay triệt tiêu những biến động ngắn hạn
trong nền kinh tế hay không? Đây là những vấn đề lớn đã được đưa ra và ít
nhất cũng đã được giải đáp một phần bởi kinh tế học vĩ mô hiện đại.
Tỷ lệ thất nghiệp, một thước đo cơ bản về cơ hội tìm việc làm và hiện
trạng của thị trường lao động, cho chúng ta một thước đo khác về hoạt động
của nền kinh tế. Sự biến động ngắn hạn của tỉ lệ thất nghiệp liên quan đến
những dao động theo chu kì kinh doanh. Những thời kì sản lượng giảm
thường đi kèm với tăng thất nghiệp và ngược lại. Một mục tiêu kinh tế vĩ mô
cơ bản đối với mọi quốc gia là đảm bảo trạng tahí đầy đủ việc làm, sao cho
mọi lao động sẵn sàng và có khả năng làm việc tại mức tiền lương hiện hành
đều có việc làm.
Biến số then chốt thứ ba mà cá nhà kinh tế vĩ mô đề cập đến là lạm
phát. Lạm phát là hiện tượng phổ biến trên toàn thế giới trong những thập kỉ
gần đây. Vấn đề đặt ra là điều gì quyết định tỉ lệ lạm phát dài hạn và những
dao động ngắn hạn của lạm phát trong một nền kinh tế? Sự thay đổi tỉ lệ lạm
phát có liên quan như thé nào đến chu kì kinh doanh? Lạm phát có tác động
đến nền kinh tế như thế nào và phải chăng ngân hàng trung ương nên theo
đuổi mục tiêu lạm phát bằng không?
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và khu vực hóa đã trở thành một trong
những xu thế phát triển chủ yếu của quan hệ kinh tế quốc tế hiện đại, tất cả

các nước trên thế giới đều điều chỉnh chính sách theo hướng mở cửa, giảm
và tiến tới dỡ bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế qua, làm cho việc trao đổi
hàng hóa, luân chuyển các yếu tố sản xuất như vốn, lao động và kĩ thuật trên
thế giới ngày càng thông thoáng hơn, một vấn đề được kinh tế học vĩ mô
hiện đại quan tâm nghiên cứu là cán cân thương mại. Tầm quan trọng của
cán cân thương mại là gì điều gì quyết định sự biến động của nó trong ngắn
hạn và dài hạn? Để hiểu cán cân thương mại vấn đề then chốt cần nhận thức
là mất cân bằng thương mại liên quan chặt chẽ với dòng chu chuyển vốn
quốc tế. Nhìn chung, khi một nước nhập khẩu nhiều hàng hóa hơn từ thế
giới bên ngoài so với xuất khẩu, nước đó cần phải trang trải cho phần nhập
khẩu dôi ra đó bằng cách vay tiền từ thế giới bên ngoài, hoặc phải giảm
4
Trường ĐHHH Bài tập lớn KTVM Khoa KTVTB
lượng tài sản quốc tế hiện nắm giữ. Ngược lại, khi xuất khẩu nhiều hơn nhập
khẩu, thì nước đó sẽ tích tụ thêm tài sản của thế giới bên ngoài. Như vậy,
nghiên cứu về mất cân bằng thương mại liên quan chặt chẽ với việc xem xét
tại sao các công dân một nước lại đi vay hoặc cho vay các công dân nước
khác vay tiền.
Cũng như các lĩnh vực nghiên cứu khác, kinh tế học nói chung và
kinh tế học vĩ mô nói riêng có những cách nói và tư duy riêng. Điều cần thiết
là phải học được các thuật ngữ của kinh tế học bởi vì nắm dược các thuật
ngữ này sẽ giúp cho bạn trao đổi với những người khác về các vấn đề kinh tế
một cách chính xác. Việc nghiên cứu kinh tế học có một đóng góp rát lớn
vào nhận thức của bạn về thế giới và nhiều vấn đề xã hội của nó. Tiếp cận
nghiên cứu với một tư duy mở sẽ giúp bạn hiểu được các sự kiện mà bạn
chưa từng biết trước đó
1.1.2. Phương pháp nghiên cứu
Mỗi quốc gia có thể những lựa chọn khác nhau tùy thuộc vào các ràng
buộc của họ về các nguồn lực kinh tế và hệ thống chính trị - xã hội. Song, sự
lựa chọn đúng đắn nào cũng cần đến những hiểu biết sâu sắc về hoạt động

mang tính khách quan của hệ thống kinh tế. Kinh tế học vĩ mô sẽ cung cấp
những kiến thức và công cụ phân tích kinh tế đó. Những kiến thức và công
cụ phân tích này được đúc kết từ nhiều công trình nghiên cứu và tư tưởng
của nhiều nhà khoa học kinh tế thuộc nhiều thế hệ khác nhau. Ngày nay,
chúng càng được hoàn thiện thâm để có thể mô tả chính xác hơn đời sống
kinh tế vô cùng phức tạp của chúng ta.
Trong khi phân tích các hiện tượng và mối quan hệ kinh tế quốc dân,
kinh tế học vĩ mô sử dụng chủ yếu phương pháp phân tích cân bằng tổng
hợp, tức là xem xét sự cân bằng đồng thời tất cả các thị trường hàng hóa và
các nhân tố. xem xét đồng thời khả năng cung cấp và sản lượng của toàn bộ
của nền kinh tế, từ đó xác định đồng thời giá cả và sản lượng cân bằng.
Ngoài ra, kinh tế học vĩ mô cũng sử dụng những phương pháp nghiên cứu
phổ biến như: tư duy trừu tượng, phương pháp phân tích thống kê số lớn, mô
hình hóa kinh tế, Đặc biệt những năm gần đây và tương lai, các mô hình
kinh tế lượng, kinh tế vĩ mô sẽ chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong các lý
thuyết kinh tế vĩ mô hiện đại.
5
Trường ĐHHH Bài tập lớn KTVM Khoa KTVTB
1.2. Vị trí của môn học kinh tế vĩ mô trong chương trình học Đại
học
Để đáp ứng yêu cầu về cải cách và đổi mới nền kinh tế ở nước ta,
phục vụ cho sự nghiệp đào tạo cán bộ kinh tế tài chính trong thời đại mới
hiểu về cách thức của nền kinh tế cùng với cách ứng xử của đất nước đối với
các vấn đề kinh tế trong phạm vi quốc gia, trong chương trình đào tạo đại
học, môn học kinh tế vĩ mô đóng vai trò cơ bản. Môn học này đã trang bị
cho sinh viên những kiến thức cơ sở và bản chất, giúp sinh viên hiểu được
những vấn đề kinh tế đang diễn ra hàng ngày cũng như hiểu được lý do về
sự ứng xử trước những vấn đề đó của nhà nước.
Giúp cho sinh viên kết nối được kiến thức, biện chứng trong tư duy,
môn học kinh tế vĩ mô kết hợp với môn kinh tế vi mô góp phần tạo nền

móng kiến thức cho sinh viên có khả năng lĩnh hội kiến thức chuyên ngành,
kiến thức bộ môn kinh tế học.
B. Trình bày các chức năng của tiền, các nhân tố hình thành thị
trường tiền tệ
2.1. Các chức năng của tiền
Để được chấp nhận chung trong việc thanh toán, tiền phải có những
chức năng đặc biệt của nó. Nhìn chung, các lý thuyêt tiền tệ hiện đại đều
nhấn mạnh ba chức năng căn bản của tiền: phương tiện thanh toán, dự trữ
giá trị và đơn vị hạch toán.
2.1.1. Phương tiện thanh toán
Phương tiện trao đổi là một vật được mọi người chấp nhận để đổi lấy
hàng hoá và dịch vụ. Tiền được dùng trong giao dịch mua, bán hàng hoá,
dịch vụ. Vậy tiền cho phép trao đổi giá trị mà không cần trao đổi hàng hoá
trực tiếp. Nó tạo điều kiện thuận lợi đặc biệt cho quá trình lưu thông hàng
hoá, được coi là dầu bôi trơn cho mọi hoạt động kinh tế, thúc đẩy phân công
lao động và mở rộng chuyên môn hoá sản xuất. Dòng lưu thông tiền tệ trở
thành hệ thống huyết mạch cho toàn bộ nền kinh tế thị trường. Chúng ta hãy
tưởng tượng trong nền kinh tế không có tiền, một vị giáo sư kinh tế hộc
muốn uống bia, nhưng chỉ có thể đổi lấy bia bằng bài giảng của mình thì liệu
giáo sư đó có thoả mãn được mong muốn đó không? tuy nhiên trong nền
kinh tế tiền tệ ông giáo sư có thể yên tâm giảng dạy kinh tế học vì muốn
uống bia lúc nào cũng được, vì sẽ nhận được thù lao bằng tiền và có thể sử
dụng tiền để mua đồ uống và các thứ khác mà giáo sư đó có nhu cầu. Quán
bia sẽ chấp nhận những tờ tiền giấy được quy định là tiền bởi vì họ tin rằng
6
Trường ĐHHH Bài tập lớn KTVM Khoa KTVTB
những người khác cũng chấp nhận chúng. Như vậy tiền có giá trị bởi vì dân
cư nghĩ rằng nó có giá trị. Nó tạo điều kiện thuận lợi đặc biệt cho quá trình
lưu thông hàng hoá, được coi là dầu bôi trơn cho mọi hoạt động kinh tế, thúc
đẩy phân công lao động và mở rộng chuyên môn hoá sản xuất. Dòng lưu

thông tiền tệ trở thanh hệ thống huyết mạch cho toàn bộ nền kinh tế thị
trường.
2.1.2. Dự trữ giá trị
Tiền hôm nay có thể được tiêu dùng giá trị của nó trong tương lai.
Dân chúng sẽ chỉ giữ tiền một khi họ tin rằng nó sẽ tiếp tục có giá trị trong
tương lai,do vậy tiền có thể hoạt động với tư cách là phương tiện trao đổi chỉ
khi nó cũng đóng vai trò là phương tiện boả tồn và cất giữ giá trị. Tất nhiên,
tiền không phải là phương tiện cất giữ giá trị duy nhất trong nền kinh tế, bởi
vì một người có thể chuyển sức mua từ hiện tại đến tương lai bằng cách nắm
giữ các tài sản khác. Thuật ngữ “tài sản” được dung để chỉ ngững phương
tiện cất giữ giá trị trong đó có tiền và các tài sản khác không phải tiền. Như
vậy, taiền là một loại tài sản tài chính mà nhờ nó đã mở ra hoạt động tín
dụng, thúc đẩy quá trình tích tụ để mở rộng sản xuất.
2.1.3. Đơn vị hạch toán
Với hai chức năng trên tiền trở thành một đơn vị hạch toán rất tiện lợi
và hiệu quả vì nó được chấp nhận rộng rãi trong mọi giao dịch. Tiền cung
cấp một đơn vị tiêu chuẩn giá trị, được dùng để đo lường giá trị của các hàng
hoá khác. Đặc biệt, nó cần thiết cho mọi nền kinh tế, vì khả năng so sánh các
chi phí và lợi ích của các phương án kinh tế. Nó còn là cơ sở để hạch toán
mọi hoạt động kinh tế từ sản xuất đến lưu thông và tiêu dùng của mọi quốc
gia.
2.2. Các nhân tố hình thành thị trường tiền tệ
Bất cứ một thị trường nào cũng hai chiều hoạt động đó là cung và cầu;
trong thị trường chứng khoán thì có cung của người bán chứng khoán và cầu
người mua chứng khoán hay trong thị trường việc làm có cung người muốn
thuê, tuyển dụng lao động và cầu người lao động. Và trong thị trường tiền tệ
cũng như vậy, có cung tiền và cầu tiền. Đây chính là hai nhân tố giúp hình
thành thị trường tiền tệ.
2.2.1. Cung tiền
2.2.1.1. Các loại tiền

Với chức năng phương tiện thanh toán và dự trữ, giá trị tiền là một
loại tài sản chính. Trong thực tế chúng được biểu hiện dưới nhiều hình thức
7
Trường ĐHHH Bài tập lớn KTVM Khoa KTVTB
khác nhau như tiền giấy, tiền kim loại, tài khoản ngân hàng, sổ tiết kiệm, tín
phiếu. Không phải loại tiền trên đều có khả năng chuyển đổi dễ dàng. Khả
năng này được xác định bởi tính dễ dàng chuyển đổi từ một tài sản tài chính
trở thành một phương tiện có khả năng sẵn sàng được sử dụng cho việc mua
bán hàng hóa và dịch vụ.
Ta có thể phân chia các loại tiền theo tính chuyển đổi như sau:
Tiền mặt lưu hành với sự đa dạng về lượng giá trị danh nghĩa tuy
không sinh lợi, nhưng có khả năng sẵn sàng thanh toán cao nhất và được gọi
là M
o
.
Tiền gửi tài khoản ngân hàng không kỳ hạn có thể viết séc… để thanh
toán cũng là một loại tiền có khả năng thanh toán cao, tuy mức độ sẵn sàng
cho thanh toán có kém tiền mặt.
Vì vậy, tiền mặt và tiền gửi ngân hàng không thời hạn được nhiều
nước coi là tiền giao dịch (M1) – một trong những đại lượng đo lường cung
tiền chủ yếu của một số quốc gia.
Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn (ngắn hạn) tuy chính chuyển đổi kém
hơn so với tiền gửi ngân hàng, nhưng vẫn có khả năng chuyển sang tiền mặt
mà không gặp nhiều khó khăn, nên nó cũng được coi là có khả năng thanh
toán.
M
1
+ tiền tiết kiệm có kỳ hạn (ngắn hạn) được gọi là M
2
. Vì khả năng

thanh toán tương đối cao của loại tiền này, nên cũng có nhiều nước xác định
M
2
là đại lượng đo cung tiền chủ yếu.
Ngày nay, sự phát triển và lớn mạnh của hệ thống tài chính đã cho ra
đời nhiều loại tài sản tài chính khác ngày càng trở nên quan trọng như các
chứng khoán cơ bản (tín phiếu kho bạc ngắn hạn, ), các giấy xác nhận tài
chính đối với tài sản hữu hình, các chấp nhận thanh toán của ngân hàng,
Chúng cũng có khả năng nhất định nào đó trong thanh toán và vì thế, tùy
theo tính chất dễ chuyển đổi sang thanh toán mà được xếp vào các đại lượng
cung tiền M
3
, M
4
,…
Vậy, mức cung tiền là một khái niệm quan trọng được xác định bởi
khối lượng M (có thể là M
1
hoặc M
2
…) bao gồm các loại tiền có khả năng
thanh toán cao nhất nhằm thỏa mãn nhu cầu trao đổi, giao dịch thường
xuyên của hoạt động kinh tế quốc dân.
Trên giác độ kinh tế vĩ mô, người ta quan tâm nhiều hơn đến M
1
, M
2
;
đồng thời cũng theo dõi chặt chẽ động thái của các thành phần tiền tệ khác.
Vì vậy, khối lượng tiền tệ M tùy mỗi thời kỳ, mỗi quốc gia có thể lựa chọn

8
Trường ĐHHH Bài tập lớn KTVM Khoa KTVTB
là M
1
và M
2
dùng làm đại lượng chính đo mức cung tiền. Nhiều nước đang
phát triển thường lựa chọn đại lượng đó là M
2
. Tỷ lệ M
2
/GDP là một chỉ số
quan trọng phản ánh khái quát quy mô của nguồn vốn luân chuyển và mức
độ tiền tệ hóa của một nền kinh tế.
2.2.1.2. Định nghĩa mức cung tiền (MS)
Mức cung tiền là tổng số tiền có khả năng thanh toán cao nhất bao
gồm tiền mặt đang lưu hành và tiền gửi không kỳ hạn trong hệ thống ngân
hàng.
Chúng ta cần phân biệt cung tiền với cơ sở tiền tệ, tức là lượng tiền do
NHTW phát hành. Cơ sở tồn tại dưới hai hình thái: tiền mặt ngoài hệ thống
ngân hàng và dự trữ của các NHTM. Trong nền kinh tế hiện đại, cung tìên
bao giờ cũng lớn hơn cơ sở tiền tệ.
2.2.1.3. Các nguồn cung về tiền
NHTW là cơ quan độc quyền phát hành tiền. Lượng tiền phát hành
chủ yếu là tiền mặt, được gọi là tiền cơ sở (hay cơ sở tiền).
Trong quá trình lưu thông, một phần của lượng tiền này được các tác
nhân kinh tế giữ lại để chi tiêu dần (thanh toán) và một phần nằm tại các
ngân hàng dưới dạng tiền dự trữ.
Vậy, khối lượng tiền cơ sở bằng tiền mặt lưu hành và tiền dự trữ trong
các ngân hàng.

H = U + R
Trong đó: H - tiền cơ sở
U- tiền mặt lưu hành
R- tiền dự trữ trong các ngân hàng
Khi các ngân hàng thương mại tham gia vào thị trường tiền tệ, thì việc
xác định tổng lượng tiền tệ trở nên phức tạp hơn, bởi sự quay vòng bộ phận
tiền cơ sở trong tay các ngân hàng. Sự quay vòng đã làm tăng tổng mức
cung tiền nên tiền cơ sở còn được gọi là tiền mạnh.
2.2.1.4. Ngân hàng thương mại(NHTM) và “hoạt động tạo ra
tiền” của NHTM
 NHTM là một loại hình doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ nhận tiền
gửi và cho vay tạo ra lợi nhuận trên cơ sở lãi suất cho vay lớn hơn lãi suất
tiền gửi.
 Đặc điểm hoạt động của NHTM:
- Khi NHTM nhận được một khoản tiền gửi thì nó bắt buộc phải giữ
lại để dự trữ theo một tỷ lệ % nào đó do NHTW quy định nhằm:
9
Trường ĐHHH Bài tập lớn KTVM Khoa KTVTB
+ Đảm bảo khả năng chi trả thường xuyên của NHTM.
+ Theo yêu cầu quản lý tiền tệ của NHTW.
- Tỷ lệ % đó được gọi là tỉ lệ dự trữ bắt buộc (quỹ dự phòng quy định)
r
b
=
D
R
b
.100%
Trong đó: R
b

là lượng tiền gửi dự trữ bắt buộc.
D là số tiền gửi
2.2.1.5. Xác định mức cung tiền MS
Mức cung tiền là tổng số tiền có khả năng thanh toán. Nó bao gồm
tiền mặt đang lưu hành và các khoản tiền gửi không kỳ hạn tại các NHTM.
Như vậy, mức cung tiền lớn hơn nhiều so với lượng tiền cơ sở, bởi hoạt
động “tạo ra tiền” của các ngân hàng thương mại. Vậy, mức cung tiền do
những nhân tố nào tác động? Mức cung tiền, trước hết được quyết định bởi
quy mô của lượng tiền cơ sở và sau đó, bởi khả năng tạo ra tiền của NHTM
nhờ số nhân tiền tệ.
 Cách xác định mức cung tiền
Hình 1.1 cho biết: tiền cơ sở H là tiền do NHTW phát hành biểu hiện
dưới dạng tiền mặt lưu hành và tiền mặt dự trữ tại ngân hàng. Các khoản tiền
gửi ngân hàng là bội số của tiền dự trữ của ngân hàng.
Hình 1.1 trình bày mối quan hệ giữa lượng tiền cơ sở và mức cung
tiền. Như vậy trên giác độ tổng thể nền kinh tế quốc dân, số nhân tiền tệ
chính là tỷ số giữa mức cung tiền là lượng tiền cơ sở.
m
M =
H
MS
Trong đó: m
M
– số nhân tiền tệ
Mức cung tiền (MS)
Tiền mặt
lưu hành
Dự trữ tiền
mặt của
các NH

Các khoản tiền
gửi không kỳ hạn
Hình 1.1. Xác định mức cung tiền
10
Tiền cơ sở (H)
Trường ĐHHH Bài tập lớn KTVM Khoa KTVTB
Từ đó ta có thể xác định mức cung tiền (MS) sẽ là:
MS = m
M
.H
Trong hình 1.1 mức cung tiền bao gồm hai thành phần tiền mặt lưu
hành và tiền gửi không kỳ hạn.
MS = U + D
Trong đó: MS – mức cung tiền
U – tiền mặt lưu hành
D – tiền gửi
Thì tỷ lệ dự trữ tiền mặt trong lưu thông so với tiền gửi là:
s =
D
U
Và tỷ lệ dự trữ thực tế sẽ là:
r
a
=
D
R
a
Trong đó: r
a
– tỷ lệ dự trữ thực tế

R
a
– dự trữ thực tế
D – tiền gửi
Số nhân tiền tệ (m
M
) sẽ là:
m
M
=
rs
s
+
+1

 Các nhân tố tác động đến mức cung tiền danh nghĩa bao gồm
- Tiền cơ sở (H): nếu H nhiều thì MS tăng.
- Tỷ lệ dự trữ bắt buộc trong dân (s): tỷ lệ dự trữ bắt buộc trong dân
càng nhỏ thì số nhân tiền tệ càng lớn. Tỷ lệ này phụ thuộc vào:
+ Thói quen thanh toán của xã hội
+ Phụ thuộc tốc độ tăng của tiêu dùng: tốc độ tiêu dùng càng tăng thì
s càng tăng.
+ Khả năng đáp ứng tiền mặt của các NHTM: khả năng đáp ứng càng
cao thì s càng thấp.
- Tỷ lệ dự trữ thực tế (r
a
): tỷ lệ dự trữ thực tế càng nhỏ thì số nhân tiền
tệ càng lớn. Tỷ lệ dự trữ thực tế phụ thuộc vào ba yếu tố:
+ Tỷ lệ dự trữ bắt buộc của NHTW
+ Tính không ổn định của lượng tiền mặt vào và ra khỏi các NHTM

đã bắt buộc các NHTM muốn dự trữ tiền mặt nhiều hơn.
+ Sự thiệt hại do phải trả lãi suất nếu phải vay tiền do thiếu hụt dự trữ.
11
Trường ĐHHH Bài tập lớn KTVM Khoa KTVTB
 Ngoài ra có thể xác định MS theo phương trình trao đổi tiền tệ
Mức cung tiền có tác động mạnh mẽ đến trạng thái hoạt động của nền
kinh tế. Vì tiền tệ có chức năng là phương tiện trao đổi nên khi hàng hóa và
dịch vụ được sản xuất ra nhiều hơn, thì cũng cần thiết phải thay đổi cung
tiền. Mối quan hệ này được xác định trong phương trình trao đổi về lượng
của tiền tệ:
M.V=P.Q
Trong đó: M là mức cung tiền; khối lượng tiền
V là vận tốc lưu thông tiền tệ
P là giá trung bình
Q là sản lượng thực tế và do đó P.Q = GNP
n
Giả sử tốc độ lưu thông (V) là ổn định thì mức cung tiền (M) cần phải
được điều chỉnh theo sự thay đổi quy mô của GNP
n
. Sự thay đổi mức cung
tiền có tác động trực tiếp đến lãi suất thị trường của tiền tệ và qua lãi suất tác
động đến tiêu dùng, đầu tư, xuất khẩu, Do vậy, việc kiểm soát mức cung
tiền (M) được coi là một chính sách tiền tệ quan trọng đặc biệt trong quản lý
vĩ mô.
2.2.2. Mức cầu về tiền (LP,MD)
2.2.2.1. Các loại tài sản tài chính
- Tài sản giao dịch (thanh khoản) không tạo ra thu nhập, nhưng được
dùng để thanh toán khi mua hàng hóa dịch vụ…
- Các tài sản tài chính khác tạo ra thu nhập (tín phiếu, cổ phiếu, sổ tiết
kiệm, ) nhưng không thể dùng trực tiếp để mua hàng hóa.

Hầu hết các hộ gia đình và các doanh nghiệp giữ của cải của họ dưới
dạng kết hợp cả hai loại tài sản này. Trong phần này, mọi tài sản giao dịch
được gọi là tiền và mọi tài sản khác có thu nhập được gọi chung là trái
phiếu.
2.2.2.2. Mức cầu về tiền
 Định nghĩa: Mức cầu về tiền là khối lượng tiền cần để chi tiêu
thường xuyên, đều đặn cho nhu cầu tiêu dùng cá nhân và sản xuất kinh
doanh.
 Phân biệt cầu tiền danh nghĩa (LP
n
) và cầu tiền thực tế (LP
r
):
- Khi giá cả tăng lên, mức cầu tiền danh nghĩa cũng tăng theo để đảm
bảo thu mua đủ khối lượng hàng hoá cần thiết đã dự định, như vậy, thực chất
của mức cầu về tiền tệ là cầu về cán cân tiền tệ thực tế.
- Mức cầu tiền thực tế (LP
r
) phụ thuộc vào 2 yếu tố:
12
Trường ĐHHH Bài tập lớn KTVM Khoa KTVTB
+ Thu nhập thực tế: Con người giữ một phần tài sản ở dạng tiền để có
thể mua được hàng hóa, dịch vụ. Khi thu nhập tăng, tiêu dùng cũng sẽ tăng
và theo đó cầu tiền cũng tăng lên.
+ Lãi suất: Chi phí giữ tài sản dưới dạng tiền và thu nhập từ lãi suất
mà các tài sản có thể tạo ra nếu như để chúng dưới dạng trái phiếu. Lãi suất
chính là chi phí cơ hội của việc giữ tiền. Trong các điều kiện khác không
thay đổi, khi lãi suất giảm xuống người dân muốn để nhiều tài sản dưới dạng
tiền hơn và ít tài sản dưới dạng trái phiếu hơn.
LP

r
=
P
LP
n
 Hàm cầu về tiền:
- Định nghĩa: Quan hệ tỉ lệ nghịch giữa lãi suất và mức cầu về tiền
được gọi là hàm cầu về tiền (hàm ưa thích tiền thanh khoản).
- Hàm này có dạng như sau:
LP = kY - hi
Trong đó: LP - mức cầu tiền thực tế
Y - thu nhập
i - lãi suất
k, h - các hệ só phản ánh độ nhạy cảm của mức cầu tiền đối
với thu nhập và lãi suất.
- Đồ thị cầu về tiền:
Y
o
Y
1
I
I
o
Y
LP
1
M
1
M
o

LP
o
Lượng tiền thực tế
Hình 1.2. Đường cầu tiền
13
Trường ĐHHH Bài tập lớn KTVM Khoa KTVTB
Hình 1.1 cho biết:
+ Hàm LP biến thiên giảm theo lãi suất.
+ Đường LP
0
là đường cầu về tiền khi thu nhập ở Y
0
.
+ Khi thu nhập tăng tới Y
1
thì đường LP dịch chuyển đến LP
1
.
Cùng mức lãi suất i
o
nhưng cầu về tiền sẽ lớn hơn (M
1
> M
0
) khi thu
nhập tăng lên (Y
1
> Y
0
).

- Khi tính mức cầu về tiền, người ta còn chú ý đến nhu cầu dự phòng.
Đó là những khoản chi tiêu cần thiết nhưng chưa có khả năng dự tính trước,
nên cần phải giữ một lượng tiền nào đó để dự phòng. Khi dự tính mức cầu
tiền dự phòng, người ta thường so sánh giữa thiệt hại của việc không sẵn tiền
với khoản lãi mất đi do giữ tiền lại cho nhu cầu này.
2.2.2.3. Mức cầu trái phiếu, mối quan hệ giữa mức cầu về tiền và
câu trái phiếu
 Cầu về trái phiếu: là mức cầu về những loại tài sản có thể sinh lời,
các loại trái phiếu hay sinh lời nhưng chứa những rủi ro giá của chúng được
xác định trên thị trường nên rất khó dự đoán. Giữ tiền thì không tạo ra lãi
suất nhưng lại không gặp rủi ro trừ trường hợp lạm phát.
 Để đơn giản hóa ta chia toàn bộ tài sản tài chính thành 2 loại tiền và
trái phiếu. Mỗi người đều tự quyết định lựa chọn sự phân phối tài sản của
mình theo hai loại trên (được gọi là quyết định tích sản) sao cho có thu nhập
cao, an toàn nhất… Ta có thể biểu hiện sự phân phối trên bằng đẳng thức:
LP + DB =
P
WN
Trong đó: LP - cầu tiền thực tế
DB - giá trị thực tế của cầu các loại trái phiếu
P - chỉ số giá
WN - tổng tài sản tài chính danh nghĩa
Tổng giá trị tài sản tài chính trong nền kinh tế có thể đo lường được
từ những loại tài sản cụ thể đã được cung ứng như mức cung tiền, số lượng
và giá trị trái phiếu các loại đã đưa ra thị trường… và được biểu hiện bằng
đẳng thức:
P
WN
=
P

MS
+ SB
Trong đó:
P
MS
là mức cung tiền thực tế
SB giá trị thực tế của cung các loại trái phiếu.
14
Trường ĐHHH Bài tập lớn KTVM Khoa KTVTB

P
WN
là tổng các tài sản tài chính thực tế đã cung ứng ra thị
trường.
Thay vào ta có:
LP + DB =
P
MS
+ SB
Suy ra:
LP -
P
MS
= SB – DB
hay (LP -
P
MS
) – (SB – DB) = 0
Giả sử rằng, thị trường tiền tệ cân bằng thì LP -
P

MS
= 0 và khi đó
SB – DB = 0, nghĩa là thị trường trái phiếu cũng cân bằng. Tóm lại, khi thị
trường tiền tệ cân bằng thì thị trường tài sản cũng cân bằng hoặc nói theo
cách khác, thị trường tài chính nói chung cũng cân bằng.
3. Phân tích hoạt động của hệ thống NHTM và vai trò điều tiết thị
trường tiền tệ của NHTW
3.1. Hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM)
Nghiệp vụ căn bản nhất của ngân hàng là nhận tiền gửi của người tiết
kiệm và cho vay lại số tiền đó. Bên cạnh đó, ngân hàng còn có vai trò quan
trọng thứ hai nữa: ngân hàng làm cho mọi việc mua bán trở nên thuận lợi
hơn bằng cách cho phép mọi người viết séc đối với khoản tiền gửi trong
ngân hàng. Nói cách khác, ngân hàng giúp tạo ra một tài sản đặc biệt mà mọi
người đều sử dùng như một phương tiện trao đổi. Vai trò cung cấp phương
tiện trao đổi là quan điểm quan trọng phân biệt ngân hàng với các trung tâm
tài chính khác. Do đó NHTM hoạt động theo các nguyên tắc sau:
 NHTM là một doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, một tổ chức môi
giới tài chính. Hoạt động của nó cũng như hoạt động của các tổ chức môi
giới tài chính khác như quỹ tín dụng, công ty bảo hiểm… là nhận tiền gửi
của người này (cá nhân doanh nghiệp, các tổ chức xã hội…) và đem số tiền
đó cho người khác vay để sinh lợi. NHTM cũng được coi là một tổ chức tài
chính trung gian, đứng ra thu thập các tài khoản tiết kiệm của dân cư, những
người muốn để dành một phần giá trị thu nhập cho tiêu dùng trong tương lai,
cũng như thu thập các khoản tiền nhàn rỗi khác trong xã hội, và đem những
khoản tiền này cho những người cần vay để chi tiêu trong hiện tại. Ngân
hàng thu lợi nhuận trên cơ sở lãi suất chênh lệch. Vai trò cung cấp phương
15
Trường ĐHHH Bài tập lớn KTVM Khoa KTVTB
tiện thanh trao đổi, thanh toán là điểm quan trọng để phân biệt ngân hàng
với các trung gian tài chính khác.

 Sự phát triển của hệ thống ngân hàng đã cho phép mỗi ngân hàng
riêng biệt không cần phải lưu giữ đầy đủ mọi giá trị các khoản tiền vào, ra
trong một ngày ở ngân hàng. Thông qua một hệ thống thanh toán của Ngân
hàng Nhà nước mà ở đó mỗi NHTM đều có một tài khoản của mình, công
việc thanh toán bù từ được tiến hành và cuối ngày chỉ cần thanh toán khoản
chênh lệch giữa toàn bộ số tiền gửi và rút ra trên tài khoản của ngân hàng
thương mại mở tại hê thống thanh toán. Điều này mở ra khả năng hạ thấp
mức dự trữ của NHTM, tăng tốc độ thanh toán, đẩy nhanh các hoạt động
giao dịch. Sự thanh toán liên ngân hàng không chỉ diễn ra trong một nước.
Mối quan hệ giữa ngân hàng các nước thông qua việc ngân hàng nước này
làm chi nhánh cho ngân hàng nước khác, với công nghệ ngân hàng hiện đại
như hệ thông máy tính… đã làm cho quá trình thanh toán quốc tế diễn ra
nhanh chóng, thuận lợi và giảm bớt rủi ro.
 Sự “tạo ra tiền ngân hàng” của tiền gửi.
Quá trình tạo ra tiền là sự mở rộng nhiều lần số tiền gửi và được thực
hiện bởi hệ thống các NHTM. Để thấy rõ vai trò tạo tiền của hệ thống
NHTM, ta xem xét hai tình huống sau:
- Tình huống 1 : Ngân hàng hoạt động theo nguyên tắc dự trữ 100%.
Đầu tiên đặt giả thiết là thế giới không tồn tại bất kỳ một ngân hàng
nào. Nếu không có ngân hàng nào trong nền kinh tế, sẽ không có tiền gửi và
do đó cung tiền đơn giản chỉ bằng khối lượng tiền mặt. Điều này hoàn toàn
tương tự xảy ra nếu như có tiền mặt đến gửi tại hệ thống ngân hàng thì sẽ
không có tiền mặt trong tay công chúng - toàn bộ tiền giấy và tiền kim loại
sẽ được giữ dưới dạng dự trữ - nhưng trái lại lượng tiền gửi đúng bằng khối
lượng tiền mặt, trong điều kiện thay đổi cung tiền.
- Tình huống 2: Ngân hàng hoạt động theo nguyên tắc dự trữ một
phần và quá trình tạo tiền.
Trong thực tế, các ngân hàng luôn cho vay. Bởi vì các ngân hàng dự
trữ tính rằng không phải tất cả những người gửi sẽ rút toàn bộ tiền gửi ngay
lập tức và cùng một lúc, họ không cần dự trữ bằng số tiền gửi. Trái lại, họ

chỉ giữ một phần số tiền huy động được và cho vay phần còn lại. Hệ thống
ngân hàng như vậy được gọi là hệ thống ngân hàng dự trữ một phần. Mỗi
ngân hàng khi nhận được một khoản tiền gửi, bắt buộc phải để lại để lại dự
trữ theo một tỷ lệ % nào đó (ví dụ 10% số tiền gửi) do NHTW quy định. Số
16
Trường ĐHHH Bài tập lớn KTVM Khoa KTVTB
tiền dự trữ này chủ yếu dùng để bảo đảm khả năng ổn định cho việc chi trả
thường xuyền của NHTM và yêu cầu quản lý tiền tệ của NHTW. Tùy theo
loại tiền gửi và quy mô của chúng mà NHTW quy định những tỷ lệ dự trữ
bắt buộc khác nhau. Một phần tiền dự trữ được gửi tại ngân hàng dưới dạng
tiền mặt, còn một phần gửi vào tài khoản của mình tại NHTW.
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ là:
r
b
=
D
R
b
Trong đó: r
b
- tỷ lệ dự trữ bắt buộc
R
b
- dự trữ (tiền) bắt buộc
D - tiền gửi
Một khoản tiền gửi mới đưa vào hệ thống ngân hàng sẽ tạo thêm một
khoản dự trữ mới (∆R) và cho phép tạo ra một lượng tối đa khoản cho vay
mới. Những khoản cho vay mới được đưa trở lại hệ thống ngân hàng, lại trở
thành những khoản tiền gửi mới (∆D) bằng
rb

1
∆R. Kết quả lượng tiền gửi
tăng thêm là:
∆D =
rb
1
∆R
- Ví dụ: Với r
b
= 10%, không có sự rò rỉ tiền mặt (toàn bộ tiền mặt đều
được lưu thông qua hệ thống ngân hàng). Ông A là khách hàng của ngân
hàng X quyết định gửi 100USD tiền mặt vào tài khoản tại ngân hàng X. Vậy
ngân hàng X sẽ có thêm một khoản tiền gửi mới 100$. Ngân hàng X bắt
buộc phải giữ lại 10USD, cho ông B vay 90USD còn lại. Ông B dùng tiền
vay được di mua hàng tại cửa hàng M. Cửa hàng M gửi toàn bộ số tiền bán
hàng vào tài khoản tại ngân hàngY. Ngân hàng Y sẽ có thêm 90$ tiền gửi
mới, giữ lại 9$ và cho ông C vay 81$ (sẽ kết thúc khi

R
b
ở các ngân
hàng là 100USD)
NH Người gửi Người vay Tiền gửi
mới
Dự trữ
mới
Cho vay
mới
Tích luỹ
gia tăng

X A B 100 10 90 -
Y M C 90 9 81 90
Z N 81 8,1 72,9 171
… … … … … … …
900
1000 100 900
17
Trường ĐHHH Bài tập lớn KTVM Khoa KTVTB
- Nhận xét: Thông qua các hoạt động tín dụng, hệ thống NHTM tạo ra
một lượng tiền lớn gấp nhiều lần so với cở sở ban đầu.
3.2. Vai trò điều tiết thị trường tiền tệ của NHTW
3.2.1. Định nghĩa
NHTW là một thiết chế đặc biệt trong hệ thống ngân hàng, nó hoạt
động như một cơ quan công quyền có nhiệm vụ quản lý và điều tiết thị
trường tiền tệ.
3.2.2. Chức năng của NHTW
3.2.2.1. NHTW là cơ quan độc quyền phát hành tiền mặt
NHTW được giao trọng trách độc quyền phát hành tiền theo các quy
định trong luật và được Chính phủ phê duyệt nhằm đảm bảo thống nhất và
an toàn cho hệ thống lưu thông tiền tệ của quốc gia. Đồng tiền do NHTW
phát hành là đồng tiền lưu thông hợp phát duy nhất, nó mang tính chất
cưỡng chế lưu hành, vì vậy mọi người không có quyền từ chối nó, trong
thanh toán nhiệm vụ phát hành tiền còn bao gồm trách nhiệm của NHTW
trong việc phát hành, thời điểm phát hành cũng như phương thức phát hành
để đảm bảo ổn định tiền tệ và phát triển kinh tế.
3.2.2.2. NHTW là ngân hàng của các ngân hàng thương mại
- Mở tài khoản và nhận tiền của các ngân hàng trung gian. NHTW
nhận tiền gửi từ các ngân hàng trung gian dưới hai dạng: tiền gửi dự trữ bắt
buộc (là khoản tiền mặt dự trữ mà các ngân hàng trung gian bắt buộc phải
gửi tại NHTW để nhằm đảm bảo khả năng chi trả của các ngân hàng này

trước nhu cầu rút tiền của các khách hàng. Tiền dự trữ bắt buộc được tính
toán trên cơ sở số dư tiền gửi huy động bình quân trong kỳ tại ngân hàng
trung gian nhân với tỷ lệ dự trữ bắt buộc được NHTW quy định theo từng
thời kỳ. Khoản tiền gửi này không được NHTW trả lãi) và tiền gửi thanh
toán.
- Cấp tín dụng cho các ngân hàng trung gian. NHTW cấp tín dụng cho
các ngân hàng trung gian dưới hình thức chiết khấu lại các chứng từ có giá
ngắn hạn do ngân hàng trung gian nắm giữ. Thông qua hành vi mua lại này,
NHTW đã làm tăng lượng vốn khả dụng cho hoạt động của ngân hàng trung
gian, tạo điều kiện cho các ngân hàng này mở rộng các hoạt động tín dụng.
Ngoài ra NHTW còn góp phần quan trọng trong việc đảm bảo cho sự an
toàn của hệ thống ngân hàng thông qua hoạt dộng cấp tín dụng khi đóng vai
trò “người cho vay cuối cùng” của các ngân hàng. Trong trường hợp một
18
Trường ĐHHH Bài tập lớn KTVM Khoa KTVTB
ngân hàng có nguy cơ phá sản, NHTW có thể sẽ cung cấp những khoản tín
dụng không hạn chế nhằm giúp cho ngân hàng đó thoát khỏi sự đổ vỡ.
- Là trung tâm thanh toán bù trừ cho hệ thống ngân hàng trung gian.
Thông qua dịch vụ thanh toán bù trừ, NHTW góp phần tiết kiệm được chi
phí thanh toán cho các ngân hàng trung gian và toàn xã hội, đảm bảo vốn
luân chuyển nhanh chóng trong hệ thống ngân hàng và phản ánh chính xác
quan hệ thanh toán giữa các chủ thể kinh tế trong xã hội. Mặt khác, thông
qua hoạt động này NHTW có thể kiểm tra sự biến động vốn khả dụng của
từng ngân hàng trung gian, là cơ sở để có những kiến nghị kịp thời.
3.2.2.3. NHTW là ngân hàng của Chính phủ
- Là thủ quỹ cho kho bạc nhà nước thông qua quản lý tài khoản của
kho bạc.
- Quản lý dự trữ quốc gia. Về nguyên tắc, NHTW chỉ cần giữ cho dự
trữ không rơi xuống dưới mức tối thiểu mà luật quy định. Còn trong qúa
trình hoạt động của mình, NHTW hoàn toàn có thể sự dụng dự trữ quốc gia

để phục vụ cho thao tác trong chính sách tiền tệ.
- Cấp tín dụng cho Chính phủ. Phần lớn các khoản tín dụng được cấp
gián tiếp thông qua việc tái chiết khấu các trái phiếu kho bạc do các ngân
hàng trung gian nắm giữ để tránh nguy cơ lạm phát.
- Làm đại lý, đại diện và tư vấn cho Chính phủ. Dịch vụ đại lý mà
NHTW cung cấp thường xuyên và hiệu quả cho Chính phủ là đại lý trong
việc phát hành chứng khoán. Chính phủ có nhu cầu bù đắp thiếu hụt ngân
sách. Ngoài ra, NHTW còn đại diện cho Chính phủ tại các tổ chức tiền tệ
quốc tế, ký kết các điều ước quốc tế về tiền tệ và hoạt động ngân hàng theo
sự uỷ quyền của Chính phủ.
3.2.2.4. NHTW có khả năng tham gia vào quá trình hoạch định
chính sách phát triển kinh tế xã hội, ban hành các thể chế hoạt động
ngân hàng đồng thời tư vấn cho Chính phủ về các vấn đề tài chính tiền
tệ
- Sử dụng các công cụ để điều tiết thị trường tiền tệ thực hiện chính
sách tiền tệ.
- Thanh tra, giám sát hoạt động của hệ thống ngân hàng.
- Đảm bảo ổn định của hệ thống ngân hàng.
- Bảo vệ khách hàng.
19
Trường ĐHHH Bài tập lớn KTVM Khoa KTVTB
3.2.3. Các công cụ mà NHTW sử dụng để điều tiết thị trường tiền
tệ
NHTW điều chỉnh mức cung tiền và các tỷ lệ lãi suất bằng nhiều công
cụ khác nhau, nhằm tác động vào lượng tiền mạnh (H) và số nhân tiền tệ.
Ngoài ra, NHTW có thể trực tiếp kiểm soát có lựa chọn một số khoản
tín dụng cũng như một vài biện pháp khác nhau.
Các công cụ quản lý tiền tệ của NHTW là:
3.2.3.1. Nghiệp vụ thị trường mở
 Nghiệp vụ thị trường mở là nghiệp vụ trong đó NHTW sử dụng các

nghiệp vụ mua, bán chứng khoán trên thị trường tiền tệ mở (là thị trường
tiền tệ của NHTW được sử dụng để mua bán trái phiếu kho bạc Nhà nước)
để thay đổi cơ số tiền, từ đó tác động tới lượng tiền cung ứng và mức lãi suất
trên thị trường .
 Cơ chế tác động: Các hoạt động của NHTW trên thị trường mở sẽ
gây ra những tác động gián tiếp tới lượng tiền cung ứng và lãi suất thị
trường theo các cơ chế sau:
- Thứ nhất, khi NHTW mua (hoặc bán) các chứng khoán, nó sẽ làm
tăng (hoặc giảm) ngay lập tức dự trữ của các ngân hàng trung gian (dù người
bán là ngân hàng trung gian hay là khách hàng của ngân hàng này). Khả
năng tạo tiền gửi thông qua cung ứng tín dụng của hệ thống ngân hàng vì thế
bị ảnh hưởng, dẫn đến làm tăng (hoặc giảm) lượng tiền cung ứng. NHTW
thực hiện biện pháp này khi nền kinh tế ở trong tình trạng suy thoái.
- Thứ hai, khi vốn khả dụng của từng ngân hàng tăng (hoặc giảm) do
tác động của nghiệp vụ thị trường mở, mức cung vốn trên thị trường tiền tệ
liên ngân hàng tăng lên (hoặc giảm xuống). Trong điều kiện các yếu tố liên
quan không thay đổi, lãi suất thị trường liên ngân hàng sẽ giảm xuống (hoặc
tăng lên). NHTW thực hiện biện pháp này khi nền kinh tế ở trong tình trạng
phát đạt quá mức.
Chúng ta cần lưu ý rằng, chỉ khi NHTW mua hoặc bán trái phiếu của
Chính phủ mới làm thay đổi cơ sở tiền tệ. Hoạt động của NHTM không làm
thay đổi cơ sở tiền tệ do vậy không làm thay đổi cung tiền nếu tỷ lệ dự trữ và
tỷ lệ tiền mặt so với tiền gửi không đổi.
3.2.3.2. Quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc
 Dự trữ bắt buộc là số tiền mà các NHTG buộc phải duy trì trên một
tài khoản tiền gửi không hưởng lãi tại NHTW. Nó được xác định bằng một
tỷ lệ % nhất định trên tổng số dư tiền trong một khoảng thời gian nào đó.
20
Trường ĐHHH Bài tập lớn KTVM Khoa KTVTB
 Cơ chế tác động: việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc và mức dự trữ

bắt buộc ảnh hưởng đến lượng tiền cung ứng theo ba cách:
- Thứ nhất, khi NHTW quyết định tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, bộ phận
dự trữ dư thừa trước đây của các ngân hàng thành dự trữ bắt buộc, làm giảm
khả năng cho vay của hệ thống ngân hàng.
- Thứ hai, tỷ lệ dự trữ bắt buộc là một phần trong mẫu số của hệ số
mở rộng tiền gửi. Vì thế sự tăng lên của tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ làm giảm hệ
số mở rộng tiền gửi và do đó là khả năng mở rộng tiền gửi của hệ thống
ngân hàng.
- Thứ ba, tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng lên là giảm mức cung ứng của các
NHTG trên thị trường liên ngân hàng, từ đó dẫn đến tăng các mức lãi suất
dài hạn và giảm khối lượng tiền cung ứng.
3.2.3.3. Lãi suất chiết khấu
Công cụ thứ ba mà NHTW có thể sử dụng để kiểm soát cung tiền là
lãi suất chiết khấu, tức lãi suất mà NHTW áp dụng khi cho NHTM vay tiền.
Khi không đủ dự trữ bắt buộc, NHTM phải vay tiền của NHTW. Tình huống
này có thể xảy ra bởi vì ngân hàng đã cho vay quá nhiều hoặc bởi vì có quá
nhiều khoản tiền được rút ra. Khi một NHTW cho một ngân hàng vay tiền,
hệ thống ngân hàng sẽ có nhiều dự trữ hơn và họ có thể tạo ra nhiều tiền
hơn. NHTW có thể thay đổi cung ứng tiền tệ bằng cách thay đổi lãi suất
chiết khấu. Lãi suất chiết khấu càng cao, các ngân hàng càng ít vay tiền của
NHTW để bù đắp dự trữ. Bởi vậy, biện pháp tăng lãi suất chiết khấu có xu
hướng làm giảm cơ sở tiền tệ và số nhân tiền, dẫn đến cung ứng tiền tệ giảm.
Ngược lại, biện pháp giảm lãi suất chiết khấu sẽ khuyến khích các ngân
hàng vay nhiều tiền hơn từ NHTW và dự trữ với tỷ lệ thấp hơn, dẫn tới cơ sở
tiền tệ và số nhân tiền tăng và cung ứng tiền tệ tăng. Khi hoạt động của thị
trường mở chưa phát triển thì công cụ này trở nên quan trọng.
NHTW sử dụng hình thức cho vay chiết khấu không chỉ để kiểm soát
cung ứng tiền tệ, mà còn nhằm giúp đỡ các tổ chức tài chính khi họ rơi vào
tình thế khó khăn.
Ví dụ: vào năm 2005, mọi người đồn rằng ngân hàng cổ phần Phương

Nam có rất nhiều khoản nợ khó đòi và rất nhiều người gửi tiền đã rút tiền ra.
Để cứu ngân hàng này, NHNN Việt Nam đã hoạt động với tư cách người
cho vay cuối cùng.
Ngoài 3 công cụ chủ yếu trên đây nhằm điều tiết gián tiếp đối với thị
trường tiền tệ, NHTW còn có những công cụ khác như kiểm soát tín dụng có
21
Trường ĐHHH Bài tập lớn KTVM Khoa KTVTB
lựa chọn, quy định trực tiếp đối với lãi suất (tiền gửi, tiền tiết kiệm, cho
vay… )…
Tuy có trong tay nhiều công cụ hữu hiệu nhưng kết quả kiểm soát
mức cung tiền của NHTW còn bị giới hạn bởi khả năng kiểm soát tỷ lệ dự
trữ tiền mặt so với tiền gửi của công chúng. Tỷ lệ này (s) phụ thuộc vào thói
quen thanh toán của xã hội và khả năng hoạt động của các tổ chức tài chính
– ngoài tầm kiểm soát của NHTW.
Tóm lại, có thể kết luận: NHTW có nhiều khả năng thực tế để ấn định
mức cung tiền (M) theo dự kiến, có thể tăng thêm hay giảm bớt nó bằng các
công cụ điều tiết của mình, chủ động thực hiện chính sách tiền tệ đã hoạch
định.
22
Trường ĐHHH Bài tập lớn KTVM Khoa KTVTB
Chương II: Đánh giá việc tác động của chính sách tiền tệ đối với
hoạt động của hệ thống NHTM Việt Nam thời kỳ 2005 đến nay
1. Nhận xét chung về tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam
Về cơ bản thì tình hình kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn này
tương đối ổn định: tốc độ tăng trưởng kinh tế ngày càng cao, chỉ số phát
triển con người không ngừng được nâng cao, thu nhập bình quân đầu người
ngày một cải thiện và từ đó đời sống của nhân dân ngày một đi lên. Vị thế
của Việt Nam ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế đặc biệt khi Việt
Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ chức thương mại thế giới. Gia
nhập WTO sẽ tạo điều kiện để Việt Nam cải cách chính sách, thể chế luật

pháp vì phải cam kết xây dựng hệ thống chính sách minh bạch hơn, ổn định
và dễ dự đoán; tạo điều kiện thuận lợi trong giải quyết tranh chấp thương
mại quốc tế, nhằm bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp Việt Nam; Bên cạnh
đó, tạo điều kiện để Việt Nam không bị đối xử như một nền kinh tế phi thị
trường như hiện nay… Đặc biệt, hàng hoá và dịch vụ của Việt cũng sẽ được
đối xử bình đẳng hơn trên thị trường quốc tế, qua đó mở rộng thị trường,
tăng xuất khẩu. Mặt khác, chúng ta cũng phải đối mặt với những khó khăn
như: phải sửa đổi và xây dựng cơ chế chính sách cho phù hợp với quy định
WTO; nguồn thu ngân sách trước mắt sẽ bị suy giảm do cắt giảm thuế nhập
khẩu; vấn đề an sinh xã hội sẽ phức tạp do phải cắt giảm lao động trong
nhiều ngành nghề, do doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả phải phá sản, do
khoảng cách giàu nghèo gia tăng…
 Khái quát lại, trong bối cảnh khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh
tế toàn cầu ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất, đầu tư trực tiếp nước ngoài,
xuất khẩu và du lịch; ở trong nước, thiên tai, dịch bệnh liên tiếp xảy ra gây
nhiều khó khăn cho hoạt động sản xuất và đời sống của các tầng lớp dân cư,
nhờ sự chỉ đạo kiên quyết và điều chỉnh kịp thời mục tiêu kinh tế từ ưu tiên kiềm
chế lạm phát sang ngăn chặn suy giảm kinh tế của Đảng, Chính phủ, cùng với
nỗ lực phấn đấu của cả hệ thống chính trị và cộng đồng doanh nghiệp nên tình
hình kinh tế - xã hội nước ta đã từng bước ổn định và có những chuyển biến tích
cực. Sản xuất công nghiệp đạt kết quả khá; kinh tế vĩ mô giữ ổn định; lạm phát
được kiềm chế; đời sống dân cư được chăm lo và hỗ trợ kịp thời. Vì vậy, để đạt
được mục tiêu tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, cần tập trung làm
tốt một số việc sau đây:
- Một là, tạo điều kiện thuận lợi để đẩy nhanh tiến độ xây dựng các công
trình trọng điểm và nhanh chóng đưa vào sử dụng nhằm phát huy hiệu quả đầu
23
Trường ĐHHH Bài tập lớn KTVM Khoa KTVTB
tư. Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh và tăng cường các biện
pháp nhằm thu hút mạnh hơn nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.

- Hai là, sớm có chính sách tài khoá và tiền tệ hợp lý để thúc đẩy quá
trình cấu trúc lại doanh nghiệp, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của sản
phẩm trong nước, tạo cơ sở quan trọng thực hiện hiệu quả cuộc vận động
“Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”. Các doanh nghiệp được hưởng
nguồn vốn vay hỗ trợ lãi suất cần sử dụng vốn đúng mục đích, đầu tư vào những
ngành, lĩnh vực mang lại lợi ích cho doanh nghiệp, thúc đẩy sản xuất phát triển,
tạo việc làm và thu nhập cho người lao động.
- Ba là, tăng cường các hoạt động kiểm tra, kiểm soát thị trường nội địa;
theo dõi sát diễn biến của thị trường thế giới có ảnh hưởng tới giá cả hàng hóa
trong nước để kịp thời đề ra giải pháp phù hợp, giữ bình ổn giá đối với các mặt
hàng thiết yếu nhằm ngăn ngừa lạm phát tăng cao.
- Bốn là, tận dụng tối đa những thuận lợi từ các Hiệp định, thỏa thuận
kinh tế song phương nhằm đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng Việt Nam có
thế mạnh; khuyến khích doanh nghiệp thực hiện các đợt hạ giá bán sản phẩm, tổ
chức đưa hàng Việt về nông thôn để kích cầu tiêu dùng.
- Năm là, thực hiện tốt công tác chăm lo các đối tượng chính sách, người
nghèo và nhân dân ở những vùng khó khăn; theo dõi sát tình hình đời sống, việc
làm của người lao động để kịp thời có chính sách hỗ trợ. Khẩn trương hoàn
thành và sớm đưa vào sử dụng những công trình nhà ở tái định cư, nhà ở cho
công nhân có thu nhập thấp và ký túc xá sinh viên; thực hiện có hiệu quả Đề án
dạy nghề gắn với giải quyết việc làm cho nông dân.
2 . Trình bày mục tiêu của chính sách tiền tệ thời kỳ 2005 đến nay
Chính sách lưu thông tiền tệ hay chính sách tiền tệ là quá trình quản lý
hỗ trợ đồng tiền của chính phủ hay NHTW để đạt được những mục đích đặc
biệt như kiềm chế lạm phát, duy trì ổn định tỷ giá hối đoái, đạt được toàn
dụng lao động hay tăng trưởng kinh tế. Chính sách lưu thông tiền tệ bao gồm
việc thay đổi các loại lãi suất nhất định, có thể trực tiếp hay gián tiếp thông
qua các nghiệp vụ thị trường mở; qui định mức dự trữ bắt buộc; hoặc trao
đổi trên thị trường ngoại hối.
Chính sách tiền tệ nhắm vào hai mục tiêu là lãi suất và lượng

cung tiền. Thông thường, không thể thực hiện đồng thời hai mục tiêu này.
Chỉ để điều tiết chu kỳ kinh tế ở tình trạng bình thường, thì mục tiêu lãi suất
được lựa chọn. Còn khi kinh tế quá nóng hay kinh tế quá lạnh, chính sách
tiền tệ sẽ nhằm vào mục tiêu trực tiếp hơn, đó là lượng cung tiền.
24
Trường ĐHHH Bài tập lớn KTVM Khoa KTVTB
 Mục tiêu của Chính sách tiền tệ
Rõ ràng là NHTW có thể điều chỉnh đến việc cung ứng tiền để tác
động đến tổng cầu và do đó tác động một cách tiềm tàng đến mức tăng
trưởng GDP thực tế, mức thất nghiệp, và mức tăng của giá cả.
- Do đó, về mặt lý thuyết, NHTW có thể dùng chính sách tiền tệ để
ngăn chặn sự biến động của nền kinh tế trong chu kỳ kinh tế.
- Chính sách như vậy được gọi là chính sách ngược chu kỳ - chính
sách này được sử dụng để cưỡng lại chu kỳ kinh tế.
- Khi nền kinh tế ở dưới mức tăng trưởng tự nhiên, về mặt lý thuyết
NHTW có thể tăng cung ứng tiền để cố gắng tăng AD và tăng mức tăng
trưởng GDP thực tế.
- Khi nền kinh tế ở trên mức tăng trưởng tự nhiên, nó gây ra những áp
lực lạm phát, và về mặt lý thuyết ngân hàng trung ương có thể giảm tăng
trưởng tiền tệ để giảm AD, và giảm áp lực lạm phát.
- Tuy nhiên, trên thực tế NHTW không phải bao giờ cũng kiểm soát
hoàn toàn tình huống.
 Các khó khăn của Chính sách tiền tệ trên thực tế
Trên thực tế, có rất nhiều khó khăn tiềm tàng đối với việc thực hiện
chính sách tiền tệ.
- Thứ nhất, như chúng ta đã thấy, cung ứng tiền bao gồm cả các
khoản tiền gửi ngân hàng, mà nó được quyết định một phần bởi hoạt động
của NHTW, và một phần do quyết định của các hộ gia dình/doanh nghiệp và
ngân hàng. Do đó, sự thay đổi trong cung ứng tiền có thể không chính xác
như ngân hàng mong muốn.

- Thứ hai, có một loạt độ trễ trong việc thực thi chính sách tiền tệ,
điều này có nghĩa là có thể mất đến 18 tháng để áp dụng được chính sách
tiền tệ cho toàn bộ nền kinh tế - điều này có thể đến quá trễ. Ví dụ, NHTW
có thể giảm lãi suất, nhưng các dự án đầu tư cần thời gian để xây dựng và
thực hiện, và các nhà máy có thể không hình thành và hoạt động trong
khoảng thời gian mong muốn.
- Thứ ba, chính sách tiền tệ sẽ tác động đến giá cả, và điều này có thể
có tác động cản trở đến chính sách tiền tệ. Ví dụ, nếu chúng ta đạt đến mức
có đầy đủ việc làm, một chính sách tiền tệ tăng lên sẽ làm tăng mức giá cả,
và có ảnh hưởng nhỏ đến GDP thực tế và mức giá.
2.1. Chính sách tiền tệ năm 2005
25

×