Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

THƠ MỚI TRONG CHƯƠNG TRÌNH MÔN VĂN HỌC - PHỔ THÔNG TRUNG HỌC .

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (264.79 KB, 11 trang )

1
1
THƠ MỚI TRONG CHƯƠNG TRÌNH
MÔN VĂN HỌC - PHỔ THÔNG TRUNG HỌC
Tào Văn Ân
Một thời gian khá dài, trong
chương trình môn văn phổ thông trung
học, Thơ mới nói riêng và văn học lãng
mạn nói chung chỉ được trình bày sơ
lược ở phần khái quát về văn học Việt
Nam giai đoạn 1930-1945. Từ sau đại
hội Đảng lần thứ VI, cùng với sự đổi mới
trong đời sống xã hội trên nhiều lĩnh
vực, chương trình môn văn ở các lớp
phổ thông trung học cũng đã có những
điều chỉnh cho phù hợp với cách nhìn
mới, với tình hình thực tế của văn học
nước nhà. Từ 1989 đến nay, chương
trình môn văn có những thay đổi đáng
kể. Một số bài thơ tiêu biểu nhất của
Thơ mới được đưa vào giảng dạy trong
chương trình môn Văn lớp 11 (chương
trình hợp nhất hai bộ sách miền Nam và
miền Bắc năm 2000). Cụ thể có một tác
giả và các bài thơ sau:
1. Xuân Diệu: Tiểu sử và sự nghiệp thơ văn.
2
. Thơ duyên.
3
. Đây mùa thu tới
4


. Vội vàng.
5
. Nguyệt cầm
(đọc thêm)

6
. Tràng giang
của Huy Cận.

7
. Đây thôn Vĩ Dạ
của Hàn Mặc Tử.

8
. Tống biệt hành
của Thâm Tâm

9
. Tiếng sáo thiên thai
của Thế Lữ (đọc thêm)

1
0.
Tương tư
của Nguyễn Bính.
Những bài
Nguyệt Cầm, Tiếng sáo thiên thai, Tương tư
không được phân
tích và bình giảng trên lớp mà chỉ yêu cầu học sinh đọc thêm. Như vậy, Thơ mới
được giảng dạy trực tiếp trên lớp chỉ có 1 tác giả là Xuân Diệu và 7 bài thơ với

sự phân bố thời gian là 8 tiết. Có thể nói các nhà biên soạn chương trình đã
chọn và giới thiệu với học sinh lớp 11 một tác giả và những bài thơ tiêu biểu của
Thơ mới nhằm giúp học sinh thấy được những cái hay, đặc biệt là những cái mới
của phong trào thơ ca này. Sự phân bố số bài như trên là tương đối hợp lí so với
những tác phẩm văn học hiện thực phê phán và văn học cách mạng cùng giai
đọan (chủ yếu được dạy ở lớp 12).
2
2
Để có thêm tư liệu cho việc giảng
dạy, chúng tôi liệt kê những bài Thơ mới
và những bài nghị luận văn chương có
liên quan trong 2 bộ sách giáo khoa lớp
11 mới nhất được biên soạn theo
chương trình thí điểm Trung học phổ
thông (do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban
hành theo quyết định số 47/2002/QĐ-Bộ
GD và ĐT ngày 19 tháng 11năm 2002
của Bộ trưởng Bộ GD và ĐT ) được xuất
bản tháng 7 năm 2004. Giữa hai bộ sách
mới có một số khác biệt nhỏ như sau:
Chương trình của Bộ sách thứ
nhất do Trần Đình Sử làm Tổng chủ biên
gồm các bài:
1. Tác giả Xuân Diệu.
2.
Vội vàng
của Xuân Diệu.
3.
Tràng giang
của Huy Cận

4.
Đây thôn Vĩ Dạ
của Hàn Mặc
Tử.
5.
Mưa xuân
của Nguyễn Bính.
6.
Một thời đại trong thi ca
của Hoài Thanh.
(Phần đọc thêm bắt buộc:
Tống biệt hành
của Thâm Tâm;
Tiếng địch
sông Ô

của Phạm Huy Thông;
Đây mùa thu tới
; Tựa tập “
Thơ thơ
” của Xuân Diệu)
Chương trình của bộ sách thứ 2 do Phan Trọng Luận làm Tổng chủ biên
gồm các bài:
1. Tác giả Xuân Diệu.
2.
Vội vàng
của Xuân Diệu.
3.
Tràng giang
của Huy Cận

4.
Đây thôn Vĩ Dạ
của Hàn Mặc Tử.
5.
Tương tư
của Nguyễn Bính.
6.
Một thời đại trong thi ca
của Hoài Thanh
(Phần đọc thêm bắt buộc:
Tống biệt hành
của Thâm Tâm;
Tiếng địch
sông Ô
của Phạm Huy Thông,
Đây mùa thu tới
; Tựa tập “
Thơ thơ
” của Xuân
Diệu)
Như vậy, chương trình của 2 bộ sách vừa được xuất bản có một khác biệt
nhỏ trong việc chọn lựa giữa 2 bài thơ của Nguyễn Bính (Bộ 1:
Mưa xuân
, Bộ 2:
Tương tư
). Ngoài ra không còn sự khác biệt nào ở cả 2 phần chính thức và đọc
thêm bắt buộc.
So với sách chỉnh lí hợp nhất năm 2000, chương trình chính thức phần
Thơ mới trong 2 bộ sách giáo khoa thí điểm mới nhất giảm đi 1 bài nhưng nếu
học sinh phải học thêm những bài “đọc thêm bắt buộc” thì tổng số vẫn là 10

bài. Giáo viên đương nhiên phải dạy kĩ các bài chính thức nhưng không thể
không lưu ý học sinh phải đọc kĩ những bài “đọc thêm bắt buộc”.
3
3
Để phân tích và giảng dạy những bài thơ mới trong chương trình lớp 11,
có thể cần phải lưu ý một số vấn đề quan trọng sau:
1. Vấn đề văn bản và cách hiểu một số từ của các bài Thơ mới
trong chương trình môn văn PTTH.
Trước hết cần phải xác định chính xác văn bản thơ mà trong khi trích
đăng cũng như bình giảng không ít người đã sơ sót, mặc dù đã được nhiều lần
đính chính.
Có những khác biệt ở một số bài thơ giữa 4 bộ sách giáo khoa văn học
lớp 11 được xuất bản từ năm 2000 trở về trước:

Tên bài
thơ
Sách lớp 11 Ban
KHXH. Đặng
Thanh Lê chủ
biên
Sách lớp 11.
Nguyễn Đình Chú
chủ biên
Sách lớp 11. Trần
Hữu Tá chủ biên
Sách lớp 11
chương trình hợp
nhất năm 2000
Đây mùa
thu tới

-Trong vườn sắc
đỏ rũa màu xanh
-Trong vườn sắc đỏ
rũa màu xanh
-Trong vườn sắc
đỏ rủa màu xanh
-Trong vườn sắc
đỏ rủa màu xanh
Thơ
Duyên
-Anh đi lững
đững chẳng theo
gần
Anh đi lững đững
chẳng theo gần

Anh đi lững
thững chẳng theo
gần

Anh đi lững đững
chẳng theo gần

Vội vàng
-(In thiếu cả câu)

-Con gió xinh thì
thào trong lá biếc
Và này đây ánh
sáng chớp hàng mi

-Con gió xinh thì
thào trong lá biếc

Và này đây ánh
sáng chớp hàng mi
-Cơn gió xinh thì
thào trong lá biếc

Và này đây ánh
sáng chớp hàng mi
-Con gió xinh thì
thào trong lá biếc
Đây
thôn Vĩ
Dạ
-Sao anh không
về chơi thôn Vĩ ?
-Lá trúc che
ngang mặt chữ
điền ?
-Sao anh không về
chơi thôn Vĩ ?
-Lá trúc che ngang
mặt chữ điền ?
-Sao anh không về
chơi thôn Vĩ
-Lá trúc che ngang
mặt chữ điền
-Sao anh không về
chơi thôn Vĩ ?

-Lá trúc che ngang
mặt chữ điền ?
Tràng
giang
-Thuyền về, nước
lại sầu trăm ngả
-Lòng quê dợn
dợn vời con nước
Chim nghiêng
cánh nhỏ: bóng
chiều sa
-Thuyền về nước
lại sầu trăm ngả
-Lòng quê dợn
dợn vời con nước
Chim nghiêng cánh
nhỏ: bóng chiều sa
-Thuyền về nước
lại, sầu trăm ngả
-Lòng quê dờn
dợn vời con nước
Chim nghiêng
cánh nhỏ: bóng
chiều sa
-Thuyền về, nước
lại, sầu trăm ngả
-Lòng quê dợn
dợn vời con nước
Chim nghiêng cánh
nhỏ bóng chiều sa

Tống
biệt
hành
Chí lớn chưa về
bàn tay không
Một chị hai chị
cũng như sen
Giời chưa mùa
thu tươi lắm thay
Chí lớn chưa về
bàn tay không ?
Một chị hai chị
cũng như sen
Giờ chưa mùa thu
tươi lắm thay
Chí nhớn chưa về
bàn tay không
Một chị hai chị
cùng như sen
Giời chưa mùa thu
tươi lắm thay
Chí lớn chưa về
bàn tay không
Một chị hai chị
cùng như sen
Giời chưa mùa thu
tươi lắm thay

Qua so sánh, chúng tôi nhận thấy sách văn học chỉnh lí năm 2000 đã khắc
phục được những sơ sót mà các bộ sách giáo khoa xuất bản trước đó mắc phải.

Trong các bộ sách giáo khoa trước, bên cạnh những lỗi chủ yếu do in ấn, vẫn có
những lỗi do người soạn chưa thật cẩn thận dẫn đến việc giải thích sai nghĩa
của từ. Chẳng hạn, trong không ít lần, sách giáo khoa và nhiều tài liệu đã in sai
từ "dợn dợn" trong bài
Tràng giang
của Huy Cận thành "dờn dợn"
.
Từ việc
4
4
trích sai thơ như vậy, người soạn sách cũng như người giảng dạy phân tích cái
hay của từ ngữ và hình tượng thơ đã không ít lần giải thích thiếu chính xác ý
nghĩa của từ ngữ cũng như dụng ý của nhà thơ. Trong một bài phê bình về cách
hiểu sai từ "
dợn dợn
" trong bài thơ
Tràng giang
, Trần Mạnh Hảo cũng tiếp tục
hiểu hai từ trên thành
dờn dợn.
Ông viết: "
Chúng tôi chỉ xin lấy một ví dụ khi tác
giả sách giáo khoa giảng giải cho giáo viên hiểu câu thơ thứ ba của khổ thơ kết:
"Lòng quê dờn dợn vời con nước" như sau: "Dờn dợn: dờn là màu xanh dờn.
Dợn là dợn lên, gợn lên (cỏ non xanh dợn chân trời- Truyện Kiều) Sách giáo
khoa giải thích từ dờn dợn cũng chưa đúng: "dờn là màu xanh dờn". Dờn
là một trợ từ, nhiều trường hợp chỉ có nghĩa khi đi kèm với một từ mẹ khác. Nó
đi trước dợn theo kiểu gờn gợn, cốt làm cho sự dợn của sóng bớt đi,
nhỏ đi (Tào Văn Ân nhấn mạnh) như cái dợn kia được nhìn từ xa, chứ không
phải dờn là màu xanh dờn như sách giáo khoa đã giải thích

"
(1)
Nếu Trần Mạnh
Hảo và một số nhà giáo đã đọc kỹ lời đính chính của chính nhà thơ Huy Cận thì
sẽ không giải thích từ láy toàn phần
dợn dợn
thành
dờn dợn
: "
Hai chữ dợn
dợn của tôi thường bị đọc sai thành dờn dợn, như thế chẳng có ý nghĩa
gì. Trong bài thơ Tràng giang có nhiều điệp ngữ như: điệp điệp, song song, dợn
dợn. Mỗi từ điệp như thế đều có ý nghĩa riêng về nội dung cũng như về nghệ
thuật
"
(2)
. Việc in chính xác văn bản không phải chỉ là yêu cầu đối với việc giảng
dạy các bài Thơ mới hay môn ngữ văn mà là yêu cầu chung trong ngành sư
phạm, đặc biệt là với sách giáo khoa. Những sơ sót này đã được sách chỉnh lí
hợp nhất năm 2000 điều chỉnh. Đây cũng chính là những điều kiện đầu tiên để
cảm thụ đúng đắn thơ ca.
Những bài thơ được in trong sách giáo khoa thí điểm xuất bản năm 2004
mặc dù đã sữa chữa nhiều sơ sót trong các lần in trước nhưng do trích thơ từ
những nguồn khác nhau nên cũng có vài khác biệt. Hãy thử so sánh một số bài
Thơ mới trong 2 bộ sách vừa nêu:
5
5

Tên bài thơ Sách giáo khoa thí điểm lớp 11, tập
2, Bộ 1- Trần Đình Sử chủ biên

Sách giáo khoa thí điểm lớp 11, tập
2, Bộ 2- Phan Trọng Luận chủ biên
Vội vàng Con gió xinh thì thào trong lá biếc
(Thơ thơ, Nxb Đời nay, H. 1938)
Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc
Tuyển tập Xuân Diệu, tập 1- Thơ,
nxb Văn học, H. 1983.
Đây thôn Vĩ Dạ Ai biết tình ai có đậm đà?
(Đau thương, nxb Hội nhà văn, H.
1995
Ai biết tình ai có đậm đà.
(Thơ Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên
tuyển chọn và giới thiệu, nxb Văn
học, H. 1991
Tràng giang Thuyền về, nước lại sầu trăm ngả
Sông dài trời rộng, bến cô liêu
Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
(Lửa thiêng, Nxb Hội nhà văn, H.
1995)
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng
(Lửa thiêng, Nxb Đời Nay, HN,
1940)
Tống biệt hành Một chị, hai chị cũng như sen
Trời chưa mùa thu tươi lắm thay
1940
(Thơ Thâm Tâm, Nxb Văn học,
H.1998)
Một chị, hai chị cùng như sen

Giời chưa mùa thu, tươi lắm thay
(Thi nhân Việt Nam, in lần thứ 2,
Nguyễn Đức Phiên xb, H. 1943
Tiếng địch
sông Ô
Chỉ trích một số đoạn tiêu biểu
(Theo Huy Thông; Tiếng sóng –Yêu
thương-Tiếng địch sông Ô, Nxb Hội
nhà văn, Hà Nội 1995)
Trích từ câu 175 đến hết bài thơ
(câu 234)
(Theo Hà Nội báo, số 2 ngày 8-1-
1936)

Qua so sánh, có thể thấy Bộ 2, sách thí điểm có những sơ sót dẫn đến
việc hiểu sai câu thơ và không thấy hết những nét riêng của nhà thơ. Chẳng
hạn: Con gió khác với cơn gió, và đó là cách nói mới mẻ của Xuân Diệu. Trong
bài “
Tràng giang”
, giữa hai câu: “
Thuyền về, nước lại sầu trăm ngả”

“ thuyền
về nước lại, sầu trăm ngả”
không thể hiểu giống nhau được do dấu phảy được
đặt ở những vị trí khác nhau Giảng bài “
Đây thôn Vĩ Dạ
” không thể không
chú ý đến 3 dấu hỏi trong 3 khổ thơ đi liền theo các câu:
Sao anh không về chơi

thôn Vĩ? Có chở trăng về kịp tối nay? Ai biết tình ai có đậm đà?.
Phải chăng vì in
thiếu dấu hỏi cuối câu thơ “
Ai biết tình ai có đậm đà
?” mà sách giáo viên lớp 11
(Bộ 2, tập 2) hoàn toàn không đề cập đến chi tiết này, trong khi đó ở sách Bài
tập (Bộ 1, tập 2) lại đưa vào một ý lớn để hướng dẫn cho giáo viên giảng dạy?
“Mỗi khổ thơ trong bài thơ chứa đựng một câu hỏi. Những câu hỏi này đã
giúp độc giả nhận ra được tiếng nói trữ tình sâu thẳm của bài thơ. Với câu hỏi
đầu tiên vốn có dáng dấp của một lời tự nhắc (Sao anh không về chơi thôn Vĩ?)
ta nghe được niềm xốn xang trong lòng nhân vật trữ tình khi kỉ niệm về Huế, về
thôn Vĩ được đánh thức một cách đột ngột. Còn câu hỏi thứ hai (Có chở trăng
về kịp tối nay?) cho thấy nhân vật dần chìm sâu vào mặc cảm về thân phận và
tự thấy mình là kẻ “chậm chân”, “lỡ chuyến” giữa cuộc đời. Câu hỏi xuất hiện
cuối bài (Ai biết tình ai có đậm đà?) ẩn ngụ một chút hoài nghi, một chút trách
móc, vừa thoáng vẻ cam chịu, vừa nhói lên khát vọng sống khôn cùng”
(3)
Những bài Thơ mới được đưa vào giảng dạy trong chương trình lớp 11 là
những bài thơ hay, tiêu biểu nhất của phong trào Thơ mới, thể hiện khá rõ nét
đặc trưng cơ bản của thơ lãng mạn. Nhưng ở mỗi nhà thơ; mỗi bài thơ; những
đặc trưng đó được thể hiện với những sắc thái riêng biệt, độc đáo tùy thuộc vào
6
6
đối tượng, hoàn cảnh riêng, cảm xúc, quan niệm nghệ thuật, tài năng và cá tính
sáng tạo của từng nhà thơ. Chẳng hạn, nỗi buồn và cô đơn là một nét chung
được thể hiện ở hầu hết các nhà Thơ mới nhưng tâm trạng, cảm xúc đó được
biểu hiện khác nhau qua các tác giả cũng như ở các bài thơ khác nhau của cùng
một tác giả. Nếu người đọc bắt gặp ở bài
Thơ duyên
một nỗi buồn nhè nhẹ,

phảng phất của một thanh niên mới lớn ngẩn ngơ trước vẻ đẹp của cô gái
nhưng vẫn e dè ngần ngại vì
"lần đầu rung động nỗi thương yêu"
thì cái buồn
đã trở nên u uất, tiếc nuối, cô đơn hơn trong
Đây mùa thu tới

Vội vàng.

Người đọc có thể cảm nhận được tình yêu trong sáng với những hình ảnh hài
hòa trong
Thơ duyên
của Xuân Diệu nhưng cũng lay động bởi hình ảnh tươi
sáng, hài hòa rồi chia lìa, buồn bã trong
Tràng giang
của Huy Cận,
Đây thôn Vĩ
Dạ
của Hàn Mặc Tử và cũng không thể không thấy được khúc ca bi tráng ở cảnh
Hạng Võ biệt Ngu Cơ trong
Tiếng địch sông Ô
của Phạm Huy Thông Đây cũng
chính là điều thể hiện mối quan hệ riêng chung thống nhất nhưng đa dạng và
phong phú trong sáng tạo nghệ thuật.
Đặt Thơ mới lãng mạn trong mối tương quan với thơ hiện thực và thơ
cách mạng, không thể không thấy những hạn chế của nó trong việc phản ánh
những vấn đề lớn của hiện thực cách mạng xét trên những tiêu chí đánh giá của
văn học cách mạng. Tuy nhiên nhìn từ góc độ hiện đại hóa nền văn học Việt
Nam thì phải nói Thơ lãng mạn nói riêng và văn học lãng mạn nói chung có vai
trò của người tiên phong. Đây không phải là nét đặc thù trong văn học Việt Nam

mà là một đặc điểm có tính qui luật phổ biến của văn học thế giới. Bởi vì những
nhà văn lãng mạn là những người nhạy cảm hơn ai hết trước những qui phạm
gò bó của thi pháp thơ ca thời Trung đại. Vấn đề hiện đại hóa văn học, dĩ nhiên
không phải chỉ có văn học lãng mạn mà còn có sự đóng góp của các dòng văn
học khác nhưng cũng cần thấy vai trò tiên phong của văn học lãng mạn. Không
phải không có lí khi có nhiều người đồng nhất khái niệm hiện đại hóa văn học
với khái niệm chủ nghĩa lãng mạn.
2. Vấn đề cái mới của Thơ mới trong chương trình môn văn PTTH.
Xuân Diệu là tác gia Thơ mới duy nhất được giảng dạy trong chương trình
môn Văn lớp 11. Sau này, dù chương trình có thay đổi theo hướng tinh giản,
Xuân Diệu vẫn được giữ lại cùng những bài thơ tiêu biểu nhất của ông.
Trong việc nghiên cứu văn chương nói chung, thật khó có thể xác định
một cách dứt khoát tác giả nào lớn hơn tác giả nào, bài thơ nào hay hơn bài thơ
nào. Việc xác định giá trị của một bài thơ, bên cạnh những tiêu chí chung còn có
một vấn đề quan trọng thuộc về chủ quan là tình cảm, thị hiếu thẩm mĩ, là cái
tạng của người cảm thụ. Người đọc thơ có thể thích Huy Cận hơn Xuân Diệu,
thích Hàn Mặc Tử hơn Thế Lữ, thích Xuân Diệu hơn Nguyễn Bính Đây là điều
bình thường trong cảm thụ thơ ca. Nhưng khi khẳng định "
Xuân Diệu là nhà thơ
mới nhất trong những nhà thơ mới
" (Hoài Thanh) thì có lẽ dễ dàng tìm được sự
đồng tình ở các giáo viên và những người am hiểu về Thơ mới. Cái mới của Thơ
mới được biểu hiện trước hết ở Phan Khôi, Thế Lữ, Lưu Trọng Lư nhưng có thể
nói được tập trung thể hiện rõ nét và tiêu biểu nhất trong thơ Xuân Diệu. Phải
chăng chọn Xuân Diệu là tác gia duy nhất của Thơ mới, các tác giả biên soạn
sách muốn nhấn mạnh đến những cái mới mà các tác giả Thơ mới đã đạt được?
Từ suy nghĩ đó, chúng tôi cho rằng, giảng về Xuân Diệu, thơ Xuân Diệu, và cả
7
7
những nhà Thơ mới khác, cần phải nhấn mạnh những cái mới trong thơ của họ

so với những nhà thơ trước đó. Nói cách khác, giảng về Thơ mới, nhất thiết phải
giúp cho học sinh thấy được cái mới trong thơ họ so với thơ Trung đại Việt Nam.
Riêng với Xuân Diệu, không chỉ thấy rõ cái mới trong thơ ông so với các nhà thơ
Trung đại mà còn cần chỉ rõ cái mới đó so với các nhà thơ lãng mạn cùng thời.
Trong quá trình phát triển của thơ ca Việt Nam hiện đại, Xuân Diệu có
một vai trò hết sức quan trọng. Ông được các nhà phê bình văn học cùng thời
nhận xét là người mang đến cho
Thơ mới nhiều cái mới nhất
(Vũ Ngọc Phan),
Người mới nhất trong những nhà Thơ mới
( Hoài Thanh). Cái mới trong thơ
Xuân Diệu được thể hiện trên nhiều phương diện từ quan niệm nghệ thuật về
thế giới và con người đến những cách tân táo bạo trong hình thức nghệ thuật
thơ ca
Những đổi mới của thơ Xuân Diệu trong giai đoạn 1930-1945 gắn liền với
quan niệm nghệ thuật của ông về con người và thế giới. Là một nhà thơ lãng
mạn, Xuân Diệu có ít nhiều điểm tương đồng với các nhà Thơ mới. Nếu như các
nhà Thơ mới đề cao cái tôi, ý thức sâu sắc về cá nhân thì Xuân Diệu cũng không
vượt ra ngoài qui luật chung đó của thời đại nhưng con người cá nhân trong thơ
Xuân Diệu cũng có những nét riêng không lẫn vào đâu được, đó “
là Một, là
Riêng, là Thứ Nhất
” như ông quan niệm. Cũng như các nhà Thơ mới, ông cũng
thể hiện con người với nhiều ước mơ, mộng tưởng, cô đơn, lạc loài nhưng điều
quan trọng trong thơ ông là con người đó đồng thời cũng gắn bó sâu xa, máu
thịt với cuộc đời thường nhật, biểu hiện một khát vọng sống mãnh liệt, nồng
nàn, tha thiết.
Xuân Diệu đã cảm nhận thế giới vượt ra ngoài thông lệ so với những nhà
thơ của quá khứ cũng như nhiều nhà thơ đương thời. Những sự vật vốn trừu
tượng, vô hình thường hiện lên một cách sinh động, cụ thể trong mối tương

quan, tổng hòa của các giác quan.
Riêng trên bình diện ngôn ngữ thơ ca, Xuân Diệu có những điểm mới, rất
sáng tạo, lạ lùng, mà đương thời không ít người chê là ngô nghê, lai căng, mất
gốc Quả thật, nhiều câu thơ của Xuân Diệu chịu ảnh hưởng của sự diễn đạt
của câu văn Pháp.

Trong thơ Xuân Diệu có hàng loạt những từ ngữ mới mẻ nhưng cũng chỉ
những từ ngữ ấy mới diễn đạt được cái mới trong tâm hồn thi sĩ của nhà thơ:

Nhan sắc ơi, bình minh quá, tháng giêng cười, tuôn âu yếm, lùa mơn trớn, rượu
nơi mắt, gấm trong lòng, chùm mong nhớ, khóm yêu đương, hoa kỹ nữ, gió
phong lưu, tình thổi gió, trăng mối lái, trăng vú mộng, tắt nắng đi, buộc gió lại

Xuân Diệu bắt đầu làm thơ từ năm 1933 nhưng chỉ thật sự nổi bật khi
phong trào Thơ mới đã giành thắng lợi. Và có thể nói Xuân Diệu trở thành nhà
thơ nổi bật trong giai đoạn phát triển mạnh mẽ nhất của phong trào thơ ca
này.

Cái mới không chỉ được thể hiện trong thơ Xuân Diệu. Bên cạnh Xuân
Diệu, các nhà Thơ mới khác cũng có những cách tân quan trọng. Có thể thấy rõ
điều này qua các nhà thơ Hàn Mặc Tử, Huy Cận, Phạm Huy Thông, Thâm Tâm,
và ngay cả ở Nguyễn Bính – nhà thơ của “chân quê”. Cái mới chủ yếu của họ
không chỉ được ở hình thức nghệ thuật mà chủ yếu là sự cảm nhận sâu sắc,
8
8
thấm thía của cảm xúc, là sự băn khoăn, trăn trở của cái tôi cô đơn, lẻ loi. Hà
Bình Trị coi
Tràng giang
của Huy Cận hiện đại ở hình ảnh, thi liệu và cảm xúc:
“Thuyền về, nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng”


Vào những năm 30 của thế kỉ trước, đây là những câu thơ mới mẻ bởi vì
trong đó xuất hiện cái tầm thường, nhỏ nhoi, vô nghĩa như “ Hình ảnh một cành
củi khô đơn lẻ bềnh bồng trên dòng sông mênh mông sóng nước dễ gợi lên nỗi
buồn về kiếp người nhỏ bé, vô định

(4)
. Đấy là nỗi buồn của một cá nhân cảm
thấy tâm hồn không còn được bình an, không còn nhận thấy được sự hài hoà,
liên hệ giữa các sự vật, giữa con người và vũ trụ
Mặc dù lưu ý đến những cái mới như vừa trình bày, có một vấn đề hết
sức quan trọng cần phải được nhấn mạnh để học sinh nhận thức rõ, đó là- dù
có mới mẻ đến đâu- những thành tựu của Thơ mới cũng bám chặt vào cội rễ
của truyền thống thơ ca, văn hoá và tinh thần của dân tộc.
3. Về nỗi buồn và cô đơn của các bài Thơ mới trong chương trình
môn văn PTTH
Đọc Thơ mới lãng mạn, nhìn chung không thể không thấy đó là một tiếng
thở dài u uất, đau đớn và bế tắc vì hoàn cảnh xã hội và quan niệm nghệ thuật
của các nhà thơ.
Nếu coi sự cô đơn, nỗi buồn
"thường thấy trong văn chương lãng mạn
nhiều nước và nó được coi như một thứ tâm bệnh của thời đại"
(5)
thì trong
hoàn cảnh mất nước, cái tâm bệnh đó trong thơ mới càng phổ biến và càng
được thể hiện đậm nét. Đó là cái buồn mênh mang, xa vắng, cái buồn tàn tạ,
thê lương, đau đớn, quằn quại, cái buồn mơ hồ, không duyên cớ, cái buồn giữa
cuộc đời tẻ lạnh nhưng cũng có thể là nỗi buồn ngay ở những phút giây tưởng

chừng hạnh phúc nhất của đời người. Nỗi buồn và sự cô đơn được biểu hiện
trong Thơ mới - ngay ở những nhà thơ tiêu biểu nhất - không phải không có lúc
bi quan, chán nản nhưng nhìn chung không phải là tiêu cực. Nỗi buồn và sự cô
đơn đó xuất phát từ điều kiện lịch sử của một dân tộc mất độc lập, tự do, xuất
phát từ những hoàn cảnh riêng của các nhà thơ nhưng đồng thời cũng xuất
phát từ quan niệm nghệ thuật của họ. Nỗi buồn và cô đơn đó có tính chất riêng
tư nhưng cũng gắn liền với tâm trạng của nhiều tầng lớp trong xã hội Việt Nam
lúc bấy giờ.
Phân tích và giảng dạy cho học sinh những bài thơ lãng mạn cụ thể trong
giai đoạn 1932- 1945, không thể không phân tích những nỗi băn khoăn, đau
buồn ấy nhưng đồng thời phải chỉ ra được những vẻ đẹp với những sắc thái
khác nhau của nó trong cảm nhận thơ ca. Các nhà Thơ mới quan niệm cái buồn
gắn liền với cái đẹp và điều này được thể hiện rõ nét trong các bài thơ lãng mạn
ở chương trình môn văn lớp 11. Cái đẹp ở đây có thể là cái đẹp của thiên nhiên,
đất nước, con người nhưng điều quan trọng hơn hết là cái đẹp trong cảm xúc
của người nghệ sĩ trước cuộc đời. Bất cứ bài Thơ mới nào trong chương trình
cũng đều thể hiện sự hòa nhập giữa cái đẹp và nỗi buồn thương, cô đơn của
con người trước cuộc đời. Phân tích và giảng dạy những bài Thơ mới không thể
không chỉ rõ nét chung đó. Trong phần lớn các tác phẩm thuộc dòng văn học
cách mạng, học sinh đã được dạy về niềm vui, tinh thần lạc quan cách mạng,
tính chiến đấu mang nhiều tính chất sử thi nhưng chưa chú ý đúng mức đến
9
9
việc dạy cho học sinh biết buồn thương, xót xa về sự cô đơn, côi cút của thân
phận con người. TMLM góp phần bổ sung cho cảm hứng thẩm mĩ này của con
người. Lê Quang Hưng đã có lí khi cho rằng "
dạy cho con người biết buồn
thương có lẽ khó hơn nhiều so với việc dạy cho con người biết ca hát
"
(6)

[32
bis/79]
Những bài thơ được giảng dạy trong chương trình đều thể hiện khát vọng
hướng tới sự hài hòa, tươi mới, khát vọng của cái đẹp nhưng đều thấm đẫm
một nỗi buồn thương, cô đơn với những sắc thái cảm xúc khác nhau và được
phân tích khá đầy đủ trong các sách giáo viên văn học lớp 11. Riêng đối với bài
"
Thơ duyên",
khi nói đến nỗi buồn hay niềm vui, có những ý kiến khá mâu
thuẫn, thiết nghĩ cần làm rõ.
Sách giáo viên văn học lớp 11, tập 1 (Nxb Giáo dục 2001) có nhận xét:
"Thơ duyên là một trong số ít bài thơ đứng bên lề các sáng tác của Xuân
Diệu trước Cách mạng tháng Tám năm1945. Bởi vì thơ Xuân Diệu nói chung là
âu sầu, u uất, cô đơn, bài này không có một chút gì những thứ đó", "Thơ duyên
là một trong số những bài thơ ít ỏi không chứa đựng một nỗi buồn hiu hắt, nỗi
chán chường chua chát, một tâm trạng hoài nghi, bi quan như ta thường gặp ở
Xuân Diệu" (trang 105)
Phân tích bài thơ này, ông Nguyễn Văn Long cũng khẳng định:
"Thơ duyên là bài thơ duy nhất không buồn trong các bài thơ về mùa thu
của Xuân Diệu (và có lẽ cũng là duy nhất trong thơ mới). Tâm trạng bao trùm
trong bài thơ là những rung động xôn xao, những xúc cảm tinh tế đón nhận
những biến thái tinh vi, mơ hồ của sự sống trong thiên nhiên, tạo vật và lòng
người trong lúc giao mùa vào thu Thơ duyên thể hiện sự cảm nhận độc đáo và
tinh tế của Xuân Diệu về mùa thu"

Quả thực
Thơ duyên
là một trong số những bài thơ ít ỏi không chứa đựng
một
một nỗi buồn hiu hắt, nỗi chán chường chua chát, một tâm trạng hoài nghi,

bi quan thì dễ được sự đồng tình
nhưng cho rằng nỗi buồn cô đơn không hiện
diện trong bài thơ, rằng đây là
bài thơ duy nhất không buồn trong các bài thơ
về mùa thu của Xuân Diệu (và có lẽ cũng là duy nhất trong thơ mới)
thì có lẽ
cần phải bàn bạc thêm cho thấu đáo.
Đúng là
Thơ duyên
thể hiện những rung động xôn xao, những xúc cảm
tinh tế đón nhận những biến thái tinh vi, mơ hồ của sự sống trong thiên nhiên,
tạo vật và lòng người trong lúc giao mùa vào thu. Nhưng ở đây không chỉ có
niềm vui mà còn có cả nỗi buồn và cô đơn, là sự không hòa hợp giữa ước mơ,
tưởng tượng và thực tế. Nếu hai khổ thơ đầu là sự thể hiện niềm vui và hạnh
phúc trước cái đẹp, trước sự giao hòa tuyệt diệu của đất trời, cảnh vật và lòng
người thì khổ thơ thứ ba đã bắt đầu xuất hiện những băn khoăn, lo âu trong
thực tế (và dường như giữa
chiều mộng
trong thơ và thực tế có một khoảng
cách không gì san lấp được)
Em bước điềm nhiên không vướng chân
Anh đi lững đững chẳng theo gần,
Vô tâm nhưng giữa bài thơ dịu
Anh với em như một cặp vần.
Và đến khổ thứ 4 thì không thể không thấy nỗi buồn cô đơn tràn ngập
Mây biếc về đâu bay gấp gấp
10
10
Con cò trên ruộng cánh phân vân
Chim nghe trời rộng giang thêm cánh

Hoa lạnh chiều thưa sương xuống dần.
Không phải vô cớ mà Hoài Thanh khi so sánh nỗi cô đơn của Thơ mới với
thơ cũ đã chọn hai câu thơ “
Mây biếc về đâu bay gấp gấp, Con cò trên ruộng
cánh phân vân"
trong bài
Thơ Duyên
của Xuân Diệu để cuối cùng khẳng đinh:

“Từ con cò của Vương Bột lặng lẽ bay tới ráng chiều đến con cò của Xuân Diệu
không bay mà cánh phân vân, có sự cách biệt của hơn một ngàn năm và của
hai thế giới”
(7)
. Cái
cánh cò phân vân, hoa lạnh chiều thưa sương xuống dần
đó
phải chăng là nỗi buồn do khát khao, giao hòa, giao cảm với người yêu, với cuộc
đời nhưng không thể nào đạt được?. Từ những chi tiết trong văn bản thơ, cần
chỉ rõ cả những xôn xao, băn khoăn, lo âu và cả cô đơn chứ không phải chỉ có
niềm vui của cái đẹp, cái nên thơ và sự hài hòa của bài thơ này.
Những bài Thơ mới được giảng trong chương trình đều thể hiện cái đẹp
của nỗi buồn, cô đơn của con người với những cung bậc khác nhau. Quả là các
nhà Thơ mới đã khai thác và đi sâu vào một khía cạnh của tâm hồn con người
và đã đem đến cho văn học Việt Nam những bài thơ trữ tình độc đáo, mới mẻ
và đầy giá trị. Từ những nét chung về nỗi buồn và cô đơn của Thơ mới và
những giá trị mà nó đã đạt được, khi nói đến thơ, không phải không có người
đã đồng nhất thơ ca với nỗi buồn, cô đơn và cái đẹp. Và đây chính là điều mà
giáo viên cần giải thích rõ cho học sinh khi dạy về những bài Thơ mới trong
chương trình.
Nếu văn chương là sự phản ánh hiện thực, là những cảm xúc, tâm trạng,

những suy ngẫm của con người về cuộc đời thì cũng cần phải thấy rằng nỗi
buồn đau và cô đơn chỉ là một trạng thái trong rất nhiều trạng thái khác nhau
của tâm hồn người. Trong văn học quá khứ, cuộc đời của con người quả đã có
quá nhiều buồn thương, những bất công mà họ phải gánh chịu và điều đó thể
hiện rõ trong văn thơ thì cuộc sống ngày hôm nay đã có nhiều khác biệt. Không
thể nói đời sống đã hết mọi bất công, ngang trái và triệt tiêu được những bi kịch
của cuộc đời nhưng dù sao đời sống của con người vẫn hướng đến và khao khát
những niềm vui Khai thác mọi trạng thái tâm hồn của con người ở tất cả mọi
góc cạnh, đó cũng là một trong những chức năng đặc trưng của văn chương
nghệ thuật. Và đó cũng là một công việc thú vị nhưng cũng đầy nhọc nhằn của
các thầy, cô giáo dạy văn.

Tài liệu tham khảo.

1. Trần Mạnh Hảo:
Văn học- Phê bình- Nhận diện.
Nxb Văn học. H. 1999
2. Lê Quang Hưng, Giảng dạy thơ ca lãng mạn 1930-1945 ở trường phổ
thông trung học. Tạp chí Văn học. số 1 – 1992.
3. Lê Đình Ky :
Thơ mới, những bước thăng trầm
. Nxb TP.Hồ Chí
Minh.1989
4. Sách giáo khoa Văn lớp 11- Phần Văn học Việt Nam (Nguyễn Đình Chú
chủ biên), Nxb Giáo dục, H. 1991.
5. Sách giáo khoa Văn học lớp 11- Tập 1(Trần Hữu Tá chủ biên), Nxb
Giáo dục, H. 1991.
11
11
6. Sách giáo khoa, Văn học lớp 11, tập1. Ban KHXH (Đặng Thanh Lê chủ

biên). Nxb Giáo dục. H, 1997.
7. Sách giáo khoa Ngữ Văn 11 thí điểm T2, Bộ 2
Phan Trọng Luận tổng
chủ biên: . Nxb Giáo dục H. 2004
8. Sách giáo khoa Ngữ Văn 11 thí điểm. T2, Bộ 2, (sách giáo viên). Phan
Trọng Luận tổng chủ biên: Nxb Giáo dục H. 2004
9. Sách giáo khoa Ngữ Văn 11 thí điểm . T2, Bộ 1. Trần Đình Sử tổng chủ
biên: , Nxb Giáo dục H. 2004
10. Sách giáo khoa Ngữ Văn 11 thí điểm T2, Bộ 1 (Bài tập)Trần Đình Sử
tổng chủ biên Nxb Giáo dục H. 2004
11. Văn Tâm:
Văn học Việt Nam 1930 - 1945
. Tập 1. Nxb Giáo dục.
H.1991
12. Hoài Thanh - Hoài Chân:
Thi nhân Việt Nam
. Nxb Văn học và Hội
nghiên cứu –GD văn học Tp.HCM, 1988.

×