Tải bản đầy đủ (.doc) (51 trang)

412 Buôn lậu & gian lận thương mại ở Việt Nam, Thực trạng & Giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (268.48 KB, 51 trang )

1

LỜI MỞ ĐẦU
Buôn lậu và gian lận thương mại là một trong những mặt trái của nền
kinh tế thị trường, nó có tác động và ảnh hưởng lớn đến kinh tế – xã hội. Đây
là vấn đề nóng bỏng, bức xúc và diễn biến ngày càng phức tạp ở nước ta hiện
nay, gây khó khăn cho sản xuất trong nước, làm thất thu ngân sách nhà nước,
làm rối loạn hoạt động thương mại gây ra những ảnh hưởng tiêu cực trong xã
hội. vì vậy địi hỏi cần phải tích cực phịng chống tình trạng này bằng sự
đồn kết phối hợp chặt chẽ giữa các ngành, các cấp, giữa nhà nước và nhân
dân.
Dưới góc độ quản lý kinh tế, vấn đề này càng được xem xét nghiên cứu
kỹ nhằm tìm ra những giải pháp cụ thể để giải quyết. Chính vì vậy mà em đã
chọn đề tài : “Buôn lậu và gian lận thương mại ở Việt Nam, thực trạng và
giải pháp” làm đề án môn học chuyên ngành khoa học quản lý. Qua quá
trình nghiên cứu đề tài em đã phần nào hiểu được và có cái nhìn rõ ràng hơn
về tình hình bn lậu và gian lận thương mại ở nước ta, đồng thời giúp em trả
lời được một số câu hỏi như: Làm sao để hạn chế buôn lậu và gian lận
thương mại ở Việt Nam?,Có các giải pháp và cơng cụ nào?, Ai là người có
đủ năng lực giải quyết thực hiện?.
Mặt khác trong qua trình làm đề án môn học em hiểu sâu hơn về chuyên
ngành, cũng như lĩnh vực mình đang học, tạo điều kiện cho em được mở rộng
kiến thức, cả trên lý thuyết lẫn thực tiễn, giúp cho qua trình học tập của em
được tốt hơn.
Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Nguyễn Quang Huy đã
hướng dẫn nhiệt tình giúp em hoàn thành được đề án .


2

PHẦN NỘI DUNG


CHƯƠNG I.
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BUÔN LẬU VÀ GIAN LẬN
THƯƠNG MẠI
I. KINH TẾ THỊ TRƯỜNG - VẤN ĐỀ BUÔN LẬU VÀ GIAN LẬN
THƯƠNG MẠI :
1. Kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế – xã hội, trong đó sản
xuất, phân phối, trao đổi tiêu dùng đều gắn chặt với thị trường. Sản xuất ra
hàng hố dịch vụ gì, khối lượng bao nhiêu, sản xuất bằng cách nào, cho ai, tất
cả những câu hỏi đó đều xuất phát từ nhu cầu của thị trường và thơng qua thị
trường để tìm câu trả lời. Thị trường là trung tâm của toàn bộ quá trình sản
xuất và tái sản xuất ra các sản phẩm hàng hoá dịch vụ cho xã hội. Thị trường
cũng là nơi mà thơng qua đó người bán và người mua tiếp xúc với nhau để
trao đồi hàng hoá dịch vụ, hình thành nên quy luật cung cầu trên thị trường.
Sự tương tác giữa cung và cầu trên thị trường hình thành giá cả, thị trường
điều tiết cung cầu, kìm hãm hay kích thích các mối quan hệ giữa người mua
và người bán, giữa nhà sản xuất, cung ứng và khách hàng thông qua việc mua
bán bằng tiền tệ trên thị trường.
Trong kinh tế thị trường, hoạt động thương mại rất phát triển và nó có vị
trí cũng như vai trị không thể thiếu của nền kinh tế thị trường. Thương mại là
một bộ phận hợp thành của tái sản xuất. Thương mại nối liền giữa sản xuất
với tiêu dùng. Ở vị trí cấu thành của tái sản xuất, thương mại được coi như
hệ thống dẫn lưu tạo ra sự liên tục của quá trình sản xuất. Nếu khâu này bị
ách tắc, sẽ dẫn đến sự ngưng trệ trong sản xuất và tiêu dùng, gây ra khủng


3
hoảng trong nền kinh tế. Thương mại cũng là một lĩnh vực kinh doanh thu
hút trí lưc và tiền vốn của các nhà đầu tư để thu hút lợi nhuận, thậm chí siêu
lợi nhuận. Kinh doanh thương mại trở thành ngành sản xuất vật chất thư hai.

Thương mại có vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, thương
mại thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển, chấn hưng các quan hệ hàng hoá
tiền tệ. Qua hoạt động mua bán tạ ra động lực kích thích đối với người sản
xuất, thúc đẩy phân công lao động xã hội, tổ chức lại sản xuất, hình thành
nên các vùng chun mơn hố sản xuất. Thương mại kích thích sự phát triển
của lực lượng sản xuất, lợi nhuận là mục đích của hoạt động thương maị.
Người sản xuất tìm mọi cách để cải tiến kỹ thuật .áp dụng khoa học công
nghệ, nhằm hạ chi phí đầu vào tăng lợi nhuận. Đồng thời cạnh tranh trong
thương mại cũng đòi hỏi người sản xuất phải năng động không ngừng nâng
cao tay nghề, chuyên môn và tính tốn thực chất hoạt, động kinh doanh, tiết
kiệm các nguồn lựu, nâng cao năng suất lao động. Đó là những nhân tố tác
động làm cho lực lượng sản xuất phát triển. Thương mại kích thích nhu cầu
và ln tạo ra nhu cầu mới, người tiêu dùng mua hàng hố khơng xuất phát
từ tình cảm mà bằng lý trí. Lợi ích của sản phẩm hay mức độ thoả mãn nhu
cầu của sản phẩm sẽ tạo ra khả năng tái tạo nhu cầu. Thương mại một mặt,
làm cho nhu cầu trên thị trượng trung thực hơn, mặt khác nó làm bộc lộ tính
đa dạng, phong phú của nhu cầu. Thương mại buộc các nhà sản xuất phải đa
dạng về loại hình, phong phú về kiểu dáng, mẫu mã chất lượng sản phẩm
Điều này tác động ngược lại với người tiêu dùng, làm xuất hiện các nhu cầu
tiềm năng. Tóm lại thương mại làm tăng nhu cầu và là nguồn gốc cho sự phát
triển của sản xuất kinh doanh.
Ngoài ra thương mại cịn góp phần mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế, làm
cho quan hệ thương mại giữa nước ta với các nước khơng ngừng phát triển.
Điều đó giúp chúng ta tận dụng được ưu thế của thời đại, phát huy được lợi


4
thế so sánh, tứng bước đưa nước ta hội nhập với kinh tế thế giới, biến nước ta
trở thành bộ phận của phân công lao động quốc tế.
Ngày nay thực hiện công cuộc đổi mới của Đảng và Nhà nước là xoá bỏ

cở chế quản lý kinh tế tập trung, chuyển sang cơ chế thị trường, chế độ bao
cấp được thay bằng thương mại. Thương mại thể hiện sự tự do mua bán theo
giá cả mà thị trường quy định, người mua và người bán được tự do lựa chọn
bạn hàng. Gắn giữa sản xuất với thương mại, thương mại cũng là mọt chức
năng của sản xuất hàng hoá, giữa các doanh nghiệp, các vùng và quốc gia
thực hiện cơ chế mở trong mua bán hàng hoá.
Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế
thị trường, thương mại phát triển có những mặt tích cực song bên cạnh đó nó
lại làm nảy sinh những tiêu cực ngay trong lịng của nó. Trong kinh tế thị
trường đồng tiêng trở thành phương tiện có giá trị làm phát sinh tư tưởng
sùng bái đồng tiền, chạy theo cc sống sa xỉ mà khơng từ bàn tay mình làm
ra, bằng những mánh khoé gian lận trong buôn bán, khơng tơn trọng pháp
luật, làm giàu bất chính mà một trong những hành vi đó là bn lậu và gian
lận thương mại. Từ việc lợi dụng cơ chế tự do bn bán lưu thơng hàng hóa
một số người đã kinh doanh trái pháp luật gian lận trong mua bán để kiếm
lời. Bn lậu và gian lận thương mại chính là một sản phẩm tiêu cực của kinh
tế thị trường, nó bóp méo vai trị của thương mại đi ngược lại với bản chất
của thương mại. Chính vì thế cần phải có những chính sách, biện pháp khắc
phục, hạn chế và xố bỏ nạn bn lậu và gian lận thương mại trong nền kinh
tế, đảm bảo vị trí và vai trị của thương mại. Để làm được điều này chúng ta
cần phải có những nhận thức đầy đủ, đúng đắn về nạn buôn lậu và gian lận
thương mại.


5
2. Khái niệm buôn lậu.
Thuật ngữ buôn lậu được sử dụng với những ý nghĩa rất khác nhau. Từ
góc độ khoa học về ngơn ngữ, cụm từ “bn lậu” có nghĩa là bn bán những
hàng hố trốn thuế và hàng cấm. Đây là một khái niệm kế thừa những hiểu
biết xua nay của cụm từ này và khá phù hợp với quan niệm phổ thơng hiện

nay. Từ góc độ khoa học pháp lý thì thuật ngữ “bng lậu” được hiểu cặn kẽ
hơn, rõ ràng hơn. Khi nói về bn lậu, bản thân nó về mặt pháp lý chưa phản
ánh một thơng tin rành mạch nào, Muốn hiểu được thì phải đặt nó vào những
ngữ cảnh cụ thể, thí dụ:khi nói “khởi tố bị can bn lậu” coa nghĩa là nói về
đối tượng tham gia bn lậu và khi đó thuật ngữ “bn lậu” được hiêu như là
một hành vi. Cịn khi nói “đấu tranh chống bn lậu” thì thuật ngữ “buôn
lậu” lúc này lại được hiểu như là một danh từ chỉ một vấn nạn của nền kinh
tế.
Trong Quốc triều Hình luật của triều Lê (1428-1788) được xem là bộ
luật hình sự hồn chỉnh nhất của thể chế phong kiến Việt Nam thì tội danh
bn lậu vẫn chưa được quy định, mặc dù vậy nó cũng đã quy định “những
trang trại ven bờ biển mà đón tiếp thun bn ,ngầm dỡ hộ hàng hóa lên bờ
thì bị xử biếm ( cách chức ), phạt gấp 3 lần tang vật để xung công..., Những
người bán ruộng đất ở bờ cõi, binh khí, các thứ chất nổ có thể chế hoả tiễn,
hoả pháo cho người nước ngoài đều phải tội chém”, “bán mắm muối ra nước
ngồi thì bị xử đi Châu Sa” . Các mặt hàng bị cấm xuất ra nước ngoài lúc đó
được quy định là : Ruộng đất ,thuốc nổ, vũ khí, sắt, đồng, vàng, da Trâu, gỗ
Lim, vỏ Quế, Trân châu, Ngà voi....những hành vi cụ thể tách biệt nói trên
trong tiềm thức xã hội đều được gộp chung lại là hiện tượng bn lậu chứ
khơng có tội danh buôn lậu.
Trước năm 1985, thuật ngữ “Tội buôn lậu”đã được đề cập đến trong một
số văn bản pháp luật của nước ta như pháp lệnh về nhiệm vụ và quyền hạn


6
cảu lực lượng Cảnh sát Nhân dân (20/7/1962); Pháp lệnh trừng trị các tội đầu
cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép (10/6/1982). Song về cơ bản
tội danh buôn lậu chưa được hướng dẫn nhận diện đầy đủ với các yếu tố cấu
thành và dấu hiệu pháp lý đắc trưng. Phần lớn người ta vẫn chịu ảnh hưởng
của các quan niệm truyền thống cho rằng buôn lậu là bao gồm các hành vi

kinh doanh trái phép, trốn thuế, đầu cơ tích trữ bn bán hàng cấm.
Từ năm 1985 bộ luật Hình sự của nước CHXHXN Việt Nam ra đời đã
chính thức ghi nhận tội danh bn lậu: Người nào buôn bán trái phép hoặc
vận chuyển trái phép qua biên giới hàng hố ,tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim
khí quý, đá quý hoặc vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hố thì bị sử phạt...”.
Bắt đầu từ đây tội danh buôn lậu đã được xác định với 4 yếu tố cấu thành tội
phạm và những dấu hiệu pháp lý đặc trưng, nên đã có tác dụng hướng dẫn
nhận thức cũng như chỉ đạo thực thi pháp luật.
3. Khái niệm về gian lận thương mại.
Một thuật ngữ nữa luôn gắn liền với buôn lậu là “gian lận thương mại”.
Gian lận thương mại theo tử điển tiếng Việt là dối trá lừa lổctng hoạt động
thương mại. Người có hành vi gian lận thương mại gại là gian thương tức là
người có nhiều mưu mơ lừa lọc, kẻ bn bán gian lận và trái phép. Gian lận
được coi là hành vi của con người cụ thể có lời nói hoặc cử chỉ, hành động
không đúng với bản chất của sự vật hiện tượng nhằm mục đích đánh lừa
người khác. Trong dân gian gian lận thương mại gắn liền với thành ngữ
“buôn gian bán lận” và dùng để chỉ những thủ đoạn mánh khoé lừa lọc khách
hàng hoặc người khác để thu lợi bất chính. Hành vi bn gian bán lận trong
dân gian được hiểu bao gồm mốt số thủ đoạn đơn giản như : hàng xấu nói tốt
ít nói nhiều rẻ nói đắt cân đo điêu, bn bán hàng cấm, lén lút, giấu giếm, lậu
thuế... Hành vi gian lân thương mại trước hết phải là hành vi gian lận nói
chung, nhưng hành vi gian lận này phải được thể hiện trong lĩnh vực thương


7
mại thơng qua đối tượng thể hiện là hàng hố, dịch vụ. Chủ thể của hành vi
gian lận thương mại có thể là người mua, người bán hoắc có khi là cả hai.
Một trong những lĩnh vực mà qua đó chúng ta thấy hết được bản chất cũng
như tác hại của hành vi gian lận thương mại đó là lĩnh vực Hải quan. Gian lận
thương mại trong lĩnh vực Hải quan là những hành vi gian lận của chủ hàng

thực hiên trong hoạt động xuất nhập khẩu để trốn tránh sụ kiểm soát và quản
lý của cán bộ Hải quan. Vấn đề nà đã được Hội đồng Hợp tác Hải quan (nay
là Tổ chức Hải quan thế giới – WCO) chú ý từ những ngày mới thành lập.
Trong bản khuyến nghị về giúp đỡ hành chính lẫn nhau do Hội đồng đưa ra
ngày 5/12/1953 cũng đã đề cập vấn đề giúp đỡ hành chính lẫn nhau về chống
gian lận thương mại. Qua nhiều lần bổ xung, thảo luận, mãi đến 9/6/1977
định nghĩa về gian lận thương mại trong lĩnh vực Hải quan mới được Hội
đồng Hợp tác Hải quan đưa ra trong công ước quốc tế về giúp đỡ hành chính
lẫn nhau nhằm ngăn chặn và trấn áp các hành vi vi phạm Hải quan,và được
các nước thành viên thông qua ký kết tại Nairobi, cộng hồ Kenya. Định
nghĩa đó được phát biểu như sau:
“Gian lận thương mại trong lĩnh vực Hải quan là hành vi vi phạm pháp
luật hải quan trong đó một cá nhân lừa dối Hải quan để nhằm lẩn tránh một
phần hoặc toàn bộ việc nộp thuế xuất nhập khẩu, việc áp dụng các biện pháp
cấm hoặc hạn chế do luật Hải quan quy định, hoặc thu được một khoản lợi
nào đó qua hành động vi phạm này”.
Trong định nghĩa này, về cơ bản đã khái quát được hành vi gian lận
thương mại trong lĩnh vực Hải quan. Hành vi đó được thể hiện bằng sự lừa
dối thông qua hành động lẩn tránh việc nộp thuế và việc tuân thủ pháp luật
Hải quan nhằm mục đích thu được một khoản lợi nhuận nào đó. Tuy nhiên
định nghĩa này vẫn chưa nêu được một cách đầy đủ, chính xác hành vi gian
lận thương mại trong lĩnh vực Hải quan, khi bối cảnh hoạt động thương mại


8
thế giới ngày nay có những tháy đổi lớn. Vì vậy tại Hội nghị Quốc tế lần V
về chống gian lận thương mại trong lĩnh vực Hải quan do Tổ chức Hải quan
thế giới triệu tập tại Brussels (Bỉ)từ ngày 13/10/1995 đã xem xét lại đinh
nghĩa về gian lận thương mại trong lĩnh vực Hải quan và thông nhất đưa ra
một định nghĩa mới hồn chỉnh hơn. Định nghĩa đó được phát biểu như sau:

“Gian lận thương mại trong lĩnh vực hải quan là hành vi vi phạm các
điều khoản pháp quy hoặc luật Hải quan nhằm :
Trốn tránh hoặc cố ý trông tránh việc nộp thuế hải quan , phí và các
khoản thu khác đối với việc di chuyển hàng hóa-dịch vụ thương mại.
Nhận và có ý định nhận việc hoàn trả trợ cấp hoặc phụ cấp cho hàng hố
khơng thuộc đối tượng đó.
Đạt được hoặc cố ý đạt được lợi thế thương mại bất hợp pháp gây hại
cho các nguyên tắc và điều lệ cạnh tranh thương mại chân chính.
Tại Hội nghị của tổ chức Hải quan quốc tế về chống gian lận thương mại
lần V này cũng đã thơng nhất phân chia các hình thức gian lận thương mại
thành 16 loại như sau :
1. Buôn bán hàng cấm qua biên giới hoặc ra khỏi sự kiểm soát của Hải
quan.
2. Khai báo sai chủng loại hàng hoá.
3. Khai tăng, giảm giá trị hàng hoá.
4. Lợi dụng chế độ ưu đãi xuất xứ hàng hoá.
5. Lợi dụng đối với hàng hố gia cơng.
6. Lợi dụng chế độ tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập.
7. Lợi dụng các yêu cầu về giấy phép xuất nhập khẩu.
8. Lợi dụng chế độ quá cảnh đem dùng trong nước.
9. Khái báo sai về chất lượng, số lượng hàng hoá.
10. Lợi dụng chế độ mục đích sử dụng, bn bán trái phép hàng hoá
được sử dụng nhất định.


9
11. Vi phạm đạo luật về diễn giải thương mại hoặc quy định bảo vệ
người tiêu dùng.
12. Buôn bán hàng giả ,hàng ăn cắp mẫu mã.
13. Buôn bán hàng không có sổ sách.

14. Làm giả, làm khống việc hồn hay truy hoàn thuế hải quan.
15. Kinh doanh “ma” để hưởng tín dụng thuế trái phép.
16. Thanh lý phá sản có chủ đích để trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế.

Thái độ của các nước trên thế giới đối với 16 hành vi nói trên đều thống
nhất ở hai cung bậc đó là tuỳ thuộc vào mức độ tác hại của hành vi đó gây ra
cho xã hội mà bị sử lý hành chính hay sử lý hình sự. Đối với nhiều nước như
Mỹ, Nhật, Pháp bên cạnh việc áp dụng các công ước quốc tế xử lý 16 hành vi
này theo luật Hải quan cịn quy định trong luật hình sự các tội danh cụ thể
tương ứng với những hành vi đó. Đối với nước ta, tình hình diễn ra theo ba
trường hợp.
Trưịng hợp thứ nhất : Hành vi có tính chất không nghiêm trọng, giá trị
tài sản buôn bán sai phạm khơng lớn thì xử lý hành chính theo pháp lệnh Hải
quan và các Nghị định của Chính phủ về quản lý xuất nhập khẩu.
Trường hợp thứ hai: Một số hành vi trong số đó chưa được quy định
hoặc khơng bị xử lý. Như hành vi vi phạm đạo luật về diễn giải thương mại,
quy định bảo vệ người tiêu dùng, chế độ tín dụng thuế.
Trường hợp thứ ba: Tất cả hành vi có tính chất nghiêm trọng gây ra hậu
quả lớn đều bị xử lý dưới một tội danh chung của điều 97 là buôn lậu.
4. Mối quan hệ giữa buôn lậu và gian lận thương mại
Buôn lậu và gian lận thương mại là những hiện tượng kinh tế – xã hội
xuất hiện trong hoạt động lưu thông hàng hoá cùng với sự ra đời của hàng rào
thuế quan. Nếu như hoạt động lưu thơng hàng hố góp phần làm cân bằng
quan hệ cung cầu trên thị trường thì một trong những nguyên nhân tồn tại và


10
phát triển của tình trạng bn lậu và gian lận thương mại là sự chênh lệch giá
cả, nhu cầu sử dụng hàng hóa ở các vùng địa lý khác nhau, do hành vi kiếm
lời bât chính, cạnh tranh trái pháp luật, không lành mạnh.

Doanh số bán lẻ trên thị trường là chỉ tiêu phản ánh nhu cầu tiêu dùng
thực tế cảu tồn xã hội. Cịn chỉ số giá cả, và kèm theo đó là sự biến động của
nó là chỉ tiêu phàn ánh tương quan giữa hai đại lượng hàng hố và sức mua.
Nói cách khác đó là chỉ tiêu phản ánh mối quan hệ cung cầu về hàng hoá.
Hiểu được bản chất kinh tế của vấn đề này, các nhà sản xuất tìm cách tiết
kiệm chi phí, hạ giá thành trên cơ sở cải tiến kỹ thuật, mẫu mã nâng cao chất
lượng sản phẩm, đủ sức cạnh tranh, tăng doanh thu thương mại. Để làm được
điều này không phải là việc dễ dàng và lại nhất là trong điều kiện cạnh tranh
gay gắt hiện nay. Một trong những hiện tượng cạnh tranh, kinh doanh để
kiếm lợi nhuận lớn nhưng trái pháp luật phổ biến hiện nay là hành vi buôn
lậu và gian lận thương mại. Một số cá nhân buôn bán thuộc mọi thành phần
kinh tế, dù ở mức độ khác nhau đã tìm đủ mọi cách luồn lách để thắng trong
cuộc chạy đua “một vốn bốn lời”. Do chạy theo lối sống giàu sang và sùng
bái đồng tiền nhưng lại khơng dùng chính sức lực của mình để làm giàu mà
lại tìm mọi hành vi đểgian thương, bn bán bất hợp pháp để đạt được mục
đích kiếm lời nhanh và dễ dàng. Lợi ích cá nhân của họ đặt lên q cao mà
khơng nghĩ đến lợi ích tập thể, lợi ích quốc gia mà trong đó họ là một phần tử
thuộc nó. Từ đó mà bn lậu và gian lận thương mại ngày càng nảy sinh và
phát triển, hành vi buôn lậu và gian lận thương mại ngày càng tinh vi, diễn
biến phức tạp và đang là vấn nạn khơng chỉ của một quốc gia mà trên tồn
thế giới hiện nay.
Nhu cầu sử dụng hàng hoá ở các vùng địa lý là khác nhau và hàng hố
có chất lượng cao, giá thành thấp hơn sẽ có xu hướng chuyển đến những nới
nào mà ở đó giá thành cao. đây cũng là quy luật cạnh tranh trong lưu thông


11
hàng hoá. Tuy nhiên trong một số trường hợp để bảo vệ sản xuất nội địa thì
Nhà nước phải dùng đến hàng rào thuế quan. Trong điều kiện đó gian thương
tìm mọi cách, thủ đoạn để tàng trữ bn bán, vân chuyển hàng hóa qua biên

giới, cũng như lợi dụng mọi khe hở để gian lận số lượng, chủng loại, tráo lẫn
hàng hố...để trốn thuế kiếm lời bất chính. Một số hàng hố Nhà nước cấm
bn bán vì những lý do như an ninh quốc phịng, trật tự an tồn xã hội ... và
những hàng hố bn bán phải có giấy phép vẫn bị gian thương tìm mọi cách
đê bn bán vì ở những lĩnh vực này lợi nhuận thu lỡi cao. Đối với mỗi quốc
gia tuỳ thuộc vào chế độ chính trị, chính sách đối ngoại, chính sách kinh tế
,yêu cầu bảo hộ nền sản xuất nội địa, quy định của pháp luật và khả năng
quản lý khác nhau thì quy mơ, tính chất, mức độ bn lậu và gian lận thương
mại cũng khác nhau. Buôn lậu và gian lận thương mại xuất hiện là những tệ
nạn xã hội. Trong cơ chế thị trường những tệ nạn này không ngừng gia tăng
và diễn biến ngày càng phức tạp. Nhiều vấn đề mới nảy sinh làm cho tội danh
buôn lậu và gian lận thương mại ngày càng khó kiểm sốt và xử lý.
II. NGUYÊN NHÂN XUẤT HIỆN BUÔN LẬU VÀ GIAN LẬN THƯƠNG
MẠI
1. Nguyên nhân xuất hiện
Buôn lậu và gian lận thương mại là hiện tượng kinh tế – xã hội xuất hiện
trong hoạt động lưu thơng hàng hố cùng với sự ra đời của hàng rào thuế
quan. Nếu như hoạt động lưu thơng hàng hố góp phần làm cân bằng quan hệ
cung – cầu trên thị trường, thì một trong những nguyên nhân tồn tại và ngày
càng tăng của tình trạng bn lậu, gian lận thương mại là sự chênh lệch giá
cả, nhu cầu sử dụng hàng hoá ở các địa phương khác nhau, do hành vi kiếm
lời bất chính, cạnh tranh trái pháp luật, khơng lành mạnh.
Mặt khác vẫn còn một bộ phận dân cư mang nặng lối suy nghĩ chỉ nhìn
thấy cái lợi thiển cận, chỉ vì lợi ích của mình mà sẵn sàng làm những hàng


12
động gây tổn hại đến người khác. Một số doanh nghiệp hoạt động chưa theo
đúng nguyên tắc thị trường, lợi dụng sự thơng thống của pháp luật, tìm mọi
thủ đoạn rút tiền từ ngân sách của nhà nước. Thêm vào đó là cơ chế thị

trường, chấp nhận sự cạnh tranh là một điều kiện cho tệ nạn buôn bán hàng
giả, hàng kém chất lượng, hàng lậu và gian lận thương mại phát triển. Việc
quản lí sản xuất, kinh doanh có của các doanh nghiệp và các cấp, các ngành
có liên quan cịn lỏng lẻo, thiếu sự kiểm tra, kiểm sốt chặt chẽ, không thống
nhất đặc biệt là đối với sự bung ra của các công ty TNHH.
Một nguyên nhân cũng không kém phần quan trọng là hệ thống pháp
luật của nước ta về đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại chưa
thật sự đi vào cuộc sống. Nhiều quy định chưa chặt chẽ, sơ hở, thậm chí cịn
chồng chéo gây khó khăn, cản trở cho cơng tác kiểm tra xử lý.
Việc các cơ quan bảo vệ pháp luật chưa quan tâm đúng mức và xét xử
không kịp thời các vụ án thương mại. Việc nâng cao chất lượng hàng hoá
cùng loại với hàng hoá nhập khẩu phải tuân thủ những quy định về nhãn mác,
chế độ hoá đơn, chứng từ... chưa được xem xét chính xác, cụ thể, trung thực.
Bên cạnh đó cịn có một số cán bộ thoái hoá biến chất từ các ngành chức
năng đã tiếp tay, đồng lỗ cho những đối tượng bn lậu và gian lận thương
mại.


13

CHƯƠNG II.
THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA NẠN BUÔN
LẬU VÀ GIAN LẬN THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM.
I. THỰC TRẠNG VỀ BUÔN LẬU VÀ GIAN LẬN THƯƠNG MẠI Ở
VIỆT NAM
Hiện nay hoạt động buôn lậu và gian lận thương mại diễn ra ngày càng
tinh vi, số vụ gian lận ngày càng tăng, đặc biệt là trong khấu trừ và hoàn thuế
giá trị gia tăng (GTGT). Các đối tượng buôn lậu thường lợi dụng danh nghĩa,
tư cách pháp nhân của các doanh nghiệp Nhà nước hoặc các công ty TNHH
để làm thủ tục nhập khẩu hoặc xuất khẩu khống, khai báo sai tên hàng, số

lượng chủng loại, xuất xứ của hàng hố để hưởng thuế suất thấp hoặc thuế
suất bằng khơng để trốn thuế. Lợi dụng hoàn thuế GTGT để chiếm đoạt thuế
hoặc cất giấu những hàng nhập lậu, hàng cấm nhập trong lơ hàng được nhập,
giấu hàng có giá trị thuế suất cao trong lô hàng cồng kềnh.
Đặc biệt là trong thời gian qua hành vi gian lận thương mại trong hoàn
thuế GTGT sau gần 4 năm thực hiện luật thuế GTGT đã liên tục xay ra với
chiều hướng ngày càng ra tăng và đến mức báo động. Lợi dụng sự thơng
thống của luật doanh nghiệp, hàng loạt các cơng ty ma ra đời chủ yếu để
mua bán hoá đơn tài chính rồi đem bán lại, tiếp sức cho những đối tượng hoạt
động kinh doang trốn thuế hoặc lập hồ sơ xin hoàn thuế GTGT rút tiền Nhà
nước với giá trị hàng trăm tỷ đồng.
Kết quả kiểm tra hoàn thuế ở 1.302 doanh nghiệp trong nước năm 2001
của ngành thuế cho thấy cứ hoàn 14 tỷ đồng thuế GTGT, Nhà nước bị DN ăn
không 400 triệu đồng. Trong 3 năm, từ năm 1999 đến năm 2001số doanh
nghiệp sai phạm trong hoàn thuế GTGT chiếm tới 38% tổng số doanh nghiệp
được kiểm tra ( 933/ 2.533 đơn vị ). Theo thống kê chưa đầy đủ, đến hết


14
tháng 4/2002, lực lượng cảnh sát kinh tế đã phát hiện 203 vụ vi phạm hoàn
thuế GTGT với tổng số tiền chiếm đoạt trên 300 tỷ đồng.
Lợi dụng những kẽ hở trong chính sách thuế, hiện nay tình trạng bn
lậu và gian lận thương mại trong các lĩnh vực đang diễn ra phổ biến và rất
phức tạp đặc biệt là trong lĩnh vực xuất nhập khẩu.
Theo thống kê của công ty Sony Việt Nam: Hiện nay mặt hàng bị nhập
lậu và gian lận thương mại nóng nhất là sản phẩm kỹ thuật số (KTS). Do có
đặc tính nhỏ, gọn nên KTS tràn vào thị trường nội địa chủ yếu là xách tay
qua đường hàng khơng, do rất khó phát hiện. Tại thị trường Việt Nam, hàng
nhập lậu, hàng trốn thuế, khơng có hố đơn chứng từ... chiếm thị phần rất
lớn. Lý do khiến cho mặt hàng KTS nhập lậu mạnh vào thị trương nội địa là

thuế nhập khẩu cao: Từ 20% ( máy chụp hình, máy quay) đến 40% ( máy
nghe nhạc MP3) và 10 % thuế giá trị gia tăng.
Tại Thành phố Hồ Chí Minh, Hải quan Cảng Sài Gòn khu vực 1 đã lập
biên bản vi phạm đối với cơng ty TNHH cung cấp dịch vụ Tồn cầu, về hành
vi gian lận xuất xứ. Thủ đoạn gian lận của đơn vị này là sử dụng nhãn giấy có
in chữ “ made in China” dán đè lên board mạch có in chữ “made in Taiwan”
để hợp thức hố C/O, và gian lận tiền thuế hơn 20 triệu đồng. Tại Cảng Sài
Gòn khu vực 3, Hải quan cũng đã lập biên bản xử lý vi phạm hành chính đối
với cơng ty Kim Tín về hành vi nhập khẩu hàng khơng khai báo số lượng, trị
giá hàng vi phạm là 193.593,60 USD...
Cũng lợi dụng chính sách ân hạn thuế ( cho phép doanh nghiệp chậm
nộp thuế đối với những mặt hàng máy móc thiết bị, nguyên phụ liệu nhập
khẩu, các loại hàng nhập khẩu dạng gia công...) nhiều doanh nghiệp áp dụng
phương thức chiếm đoạt tiền thuế bằng cách trốn khỏi địa chỉ kinh doanh,
hoặc cố tình nợ chây ỳ khơng chịu nộp thuế.


15
Ngồi ra, cũng có những trường hợp lợi dụng chíng sách cho phép
doanh nghiệp tự xây dựng và tự quyết tốn định mức, nhiều doanh nghiệp đã
hạch tốn khơng bằng cách sử dụng hố đơn của doanh nghiệp “ma” hoặc
khơng khai đúng doanh thu để trốn thuế, gây khó khăn cho cơ quan chức
năng. Tính từ đầu năm đến nay, Chi cục quản lý thị trường Thành phố Hồ
Chí Minh phối hợp các ngành chức năng đã kiểm tra các đơn vị sau đăng ký
kinh doanh, phát hiện hơn 400 cơng ty TNHH, doanh nghiệp tư nhân khơng
có trụ sở hoạt động như đăng ký... trong 6 tháng đầu năm ngành Hải quan
phát hiện và bắt giữ 4.353 vụ vi phạm( bn lậu, vận chuyển trái phép hàng
hố qua biên giới, gian lận thương mại, vi phạm thủ tục hải quan...) trị giá
ước tính hơn 338 tỷ đồng. Xử lý hàng hoá vi phạm và thu nộp ngân sách hơn
22,5 tỷ. Trên thực tế, do chính sách thuế cịn nhiều kẽ hở nên việc áp dụng và

quản lý giữa các ngành thuế, Hải quan với doanh nghiệp còn nhiều bất cập.
Đó cũng là điều kiện để một số doanh nghiệp lợi dụng khe hở này chiếm
dụng tiền thuế, gây thất thoát ngân sách nhà nước.
1. Những phương thức và thủ đoạn trong buôn lậu
Thủ đoạn và phương thức hoạt động của bọn buôn lậu hiện nay ngày
càng tinh vi và nguy hiểm hơn, trên rất nhiều lĩnh vực của nền kinh tế như
quay vịng hố đơn chứng từ, quay vịng tem hàng xuất khẩu, tờ khai thuế
quan, chuyển đổi phương thức tử thuê cửu vạn sang cho cửu vạn vay vốn rồi
thu mua lại để ràng buộc với hàng. Mà những người phải làm cửu vạn này
thường xuất thân từ những tầng lớp người nghèo trong xã hội.
Bọn buôn lậu cịn lợi dụng vận chuyển hàng hố vào thời gian và địa
điểm ở những nơi mà các lực lượng thanh tra kiểm sốt gặp khó khăn hoặc
khơng thể quản lý được. Mặt khác từ hoạt động theo nhóm, bọn bn lậu lại
chuyển sang ban ngày nhỏ lẻ nên rất khó cho cơng tác chống bn lậu, bọn
bn lậu cịn lợi dụng những hơm trời có gió mạnh, đêm tối hoặc mưa to để


16
hoạt động. Bọn bn lậu cịn lợi dụng nhiều hình thức chẻ nhỏ hàng hoá từ
để vận chuyển sâu vào nội địa bằng mọi phương tiện, sử dụng các thông tin
liên lạc hiện đại để chỉ đạo, điều hành các hành động buôn bán và vận chuyển
hàng nhập lậu. Hàng lậu được chuyển về thành phố cũng bằng sổ sách. Nếu
như cán bộ kiểm tra hàng ở các bến xe, trạm ga thì các tay bn lậu lớn đã có
hẳn một đường dây . bọn chúng gửi hàng trước ở những điểm ven tuýên
đường này, sau khi được trạm kiểm tra lái xe như được “ chuẩn bị trước” đỗ
lại ở một điểm ,thế là hàng lậu được khuân lên xe chuyển về xi khơng mấy
khó khăn. hàng lậu được nguỵ trang bằng nhiều kiểu để vận chuyển.
Trên tuyến biển buôn lậu vẫn diễn ra sôi động, bọn buôn lậu sang mạn
hàng, dùng tàu đánh cá để chuyển hàng. chúng còn dùng cả tàu gỗ nhỏ trực
tiếp sang cảng nước ngoài nhận hàng hoặc sao mạn từ các tàu lớn ở ngồi

khơi để vận chuyển hàng lậu. Sau đó theo các luồng lạch, bãi ngang và lợi
dụng đưa hàng lên bờ và vận chuyển sâu vào nôị địa.
Trên tuyến hàng khơng, tình hình bn lậu cũng rất phức tạp. Phương
thức chủ yếu mà bọn buôn lậu sử dụng là cất giấu và mua chuộc cán bộ, lợi
dụng chế độ hành lý được miễn thuế, đi lại nhiều lần để hoạt động.
Bn lậu dưới hình thức “xuất khẩu uỷ thác” là hiện tượng khá phổ biến.
Theo hình thức này, bọn bn lậu thường tìm cách lợi dụng các doanh nghiệp
xuất nhập khẩu của nhà nước uỷ thác cho một số mặt hàng. sau khi làm song
thủ tục hải quan, trong quá trình vận chuyển hàng đến cảng, các đối tượng
tiến hành phá kẹp chì, làm giả chì hải quan, thay vào container, gia cố ốc vít
bắt tại các chốt liên kết, có trường hợp cịn tháo cả cụm khố có kẹp chì, thay
hàng lậu rồi lắp lại như cũ. Với thủ đoạn này mặt hàng dưới danh nghĩa hợp
đồng uỷ thác đã bị thay thế bằng các mặt hàng khác.


17
Ngồi ra cịn có rất nhiều thủ đoạn bn lậu tinh vi phức tạp, bằng nhiều
cách thức để bọn buôn lậu sử dụng trong hoạt động phi pháp nhằm thu lợi bất
chính cho bản thân.
2. Một số hình thức gian lận thương mại phổ biến ở Việt Nam hiện nay
2.1. Gian lận thương mại qua lợi dụng chính sách thuế của nhà nước
Trong các hoạt động gian lận thương mại có lẽ hành vi gian lận qua lợi
dụng chính sách thuế xuất nhập khẩu là loại hình gian lận đặc thù nhất ở Việt
Nam. Vì thuế xuất nhập khẩu ở Việt Nam bao gồm nhiều sắc thuế gộp lại là
thuế quan, thuế doanh thu, thuế phụ thu, thuế thu điều chỉnh bình ồn giá. Nên
thuế xuất nhập khẩu của chúng ta thường cao như ô tô du lịch, xe máy, rượi
bia hàng điện tử...do thuế suất cao nên sự chênh lêch giữa giá phải trả cho
việc khai báo đầy đủ, chính xác và xuất trình trung thực cho các cơ quan
kiểm tra kiểm soát nhà nước với lợi nhuận kiếm được do gian lận thương mại
là rất lớn. Thuế suất là một trong những lĩnh vực hấp dẫn gian thương, điể

hình là trong thời gian gần đây việc khai thác sơ hở của luật thuế xuất nhập
khẩu, các gian thương đã tìm mọi cách để biến tướng, gây nhầm lẫn trong
khai báo mã hàng để gian lận thương mại trốn thuế.
2.2. Gian lận thương mại qua giá hàng hoá xuất nhập khẩu
Theo tính tốn của chính phủ thất thu thuế qua giá là rất lớn, ước tính
thất thu thuế là khoảng 25% trong tổng số thu thuế xuất nhập khẩu. Chống
gian lận thương mại qua giá ở nước ta cũng như trên thế giới đang là vấn đề
được hải quan các nước đặc biệt quan tâm, vì đây là hoạt động gian lận
thương mại tinh vi nhất, khó phát hiện nhất.
2.3. Gian lận thương mại trong việc khai báo sai số lượng trọng lượng,
phẩm cấp của hàng hóa xuất nhập khẩu.
Đây cũng là hình thức gian lận thương mại xuất nhập khẩu khá phổ biến
ở Việt Nam. Cácchủ hàng thường lợi dụng chính sách thơng thống, mở cửa


18
của nhà nước thông qua việc cải cách thủ tục hành chính trong ngành hải
quan bằng các biện pháp đơn giản hố các thủ tục này. do đó đã tạo điều kiện
cho hoạt động xuất nhập khẩu, giải phóng hàng hố tại cửa khẩu. Các cửa
khẩu với lực lượng có hạn, trình độ cán bộ cịn hạn chế trong khi đó lượng
hàng hố ln chuyển qua cửa khẩu ngày càng lớn, các lực lượng hải quan
khơng thể kiểm sốt chi tiết từng lô hàng được. đây cũng là nguyên nhân để
bọn gian thương lợi dụng bằng các thủ đoạn như khai một phần, khai không
đúng.
2.4. Gian lận thương mại qua việc cố ý xác định sai xuất xứ hàng hoá.
Xác định xuất xứ hàng hoá là vấn đề liên quan đến kỹ thuật phức tạp, có
vị trí quan trọng, liên quan trực tiếp đến lợi ích quốc gia. Đây là vấn để rất
mới mẻ ở Việt Nam. Xuất xứ hàng hố liên quan đến hai vấn đề chính là:
thuế xuất nhập khẩu và chính sách ưu đãi thuế giữa các nước thành viên có
quan hệ giành cho nhau. Từ mối liên quan giữa việc xác định xuất xứ hoặc

xuất trình giấy chứng nhận xuất xứ giả, khai không đúng xuất xứ hàng hoá
xuất nhập khẩu để trốn thuế.
2.5. Gian lận thương mại trong lĩnh vực đầu tư.
Theo quy địng của luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và Nghị định số
18/CP ngày 14/4/1993 của Chính phủ quy định chi tiết việc thi hành luật đầu
tư nước ngoài tại Việt Nam, thì các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được
miễn thuế nhập khẩu đối với trang thiết bị, máy móc phụ tùng và các phương
tiện sản xuất kinh doanh và các nguyên liệu vật tư xây dựng cơ bản hình
thành xí nghiệp hoặc để tạo tài sản cố định. Điều này có nghĩa là với những
hàng hố thuộc loại này Hải quan không cần quan tâm đến giá trị hàng hố
(để tính thuế), và như thế hải quan dễ dàng cho qua các loại hàng hoá này
như vậy đã vơ hình để bọn gian thương lợi dụng kẽ hở này để tiến hành hành
vi gian lận. Qua tiến hành giám định việc khai giá nhập khẩu thiết bị của 12


19
xí nghiệp liên doanh đầu tư, thì đã có 6 xí nghiệp có hiện tượng nâng giá thiết
bị nhập khẩu với giá trị cao so với giá trị thực tế là 14 triệu USD.
2.6. Gian lận thương mại trong lĩnh vực sản xuất hàng gia công xuất khẩu.
Hàng là vật tư, nguyên liệu nhập khẩu để gia công cho nước ngồi rồi
xuất khẩu theo hợp đồng đã kí kết. Theo quy định của luật thuế xuất nhập
khẩu, hàng thuộc đối tượng này được miễn thuế. Trên cơ sở các hợp
đồng gia công và văn bản cho phép của Bộ thương mại cấp cho các đơn vị
sản xuất, Hải quan kiểm tra định mức tiêu dùng nguyên phụ liệu đã nhập cho
đến khi kết thúc hợp đồng, phần thừa không dùng hết mới phải nộp thuế.
Song trong thực tế có những hợp đồng gia công kéo dài từ 5 dến 10 năm,
nguyên phụ liệu nộp vào sản xuất và sản phẩm gia cơng hồn chỉnh được
xuất khẩu phải thực hiện trong một thời gian dài, bằng rất nhiều chuyến hàng,
qua nhiều cửa khẩu. Đây là kẽ hở để các chủ sản xuất lợi dụng. Thủ doạn của
bọn chúng là nhập nguyên phụ liệu nhiều nhưng sử dụng để sản xuất thì

khơng hết, đa số phần lớn là bán lại cho các cơ sở sản xuất khác trong nước
với giá cao hơn để thu lợi.
Ngồi ra cịn rất nhiều thủ đoạn và cách thức mà bon gian lận sử dụng
như lợi dụng chính sách và cơ chế hoạt động của thuế,qua hoạt động của văn
phòng đại diện các tổ chức kinh tế nước ngoài tại Việt Nam, gian lận thương
mại qua hàng kinh doanh chuyển khẩu, hàng tạm nhập tái xuất, hàng đổi
hàng...
Như vậy có thể thấy, gian lận thương mại ở nước ta hiện nay hết sức đa
dạng và phức tạp khó kiểm sốt với xu hướng ngày càng nhiều các phương
thức gian lận tinh vi.


20
II. NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA NẠN BUÔN LẬU VÀ GIAN LẬN
THƯƠNG MẠI ĐẾN KINH TẾ XÃ HỘI NƯỚC TA
1. Tác động đến các chủ thể kinh tế
Tình trạng bn lậu và gian lận thương mại xâm hại đến chế độ chính
sách quản lý xuất nhập khẩu hàng hố. Như ta đã biết: thuế quan là các mức
thuế đấnh trên hàng hố xuất nhập khẩu nhắm mục đích làm tăng giá của
hàng nhập khẩu để làm giảm sức cạnh tranh với các nhà sản xuất trong nước
hoặc kích thích sản xuất tại nội địa. Vì vậy các hành vi bn lậu,trốn thuế
xuất nhập khẩu thông qua hoạt động gian lận thương mại, cạnh tranh tiêu cực
phi kinh tế đã xâm haị đến chế độ chính sách quản lý xuất nhập khẩu hàng
hố.
Bn lậu và gian lận thương mại gây nhiều thiệt hại cho người sản xuất
trong nước, làm điêu đứng các doanh nghiệp sản xuất cũng như các doanh
nghiệp thương mại. đối với các người sản xuất trong nước. Việc hàng ngoại
tràn ngập thị trường với chất luợng cao hơn giá rẻ hơn, thực sự là mối đe doạ
trực tiếp đến tương lai của hàng nghìn cơng nhân trong các xí nghiệp sản xuất
trong nước, đặc biệt là đối với những ngành cơng nghiệp mới cịn non trẻ.

Ngun nhân là nhữmg xí nghiệp sản xuất trong nước vẫn cịn phải nhập một
số nguyên phụ liệu, nhiên liệu... và phải nộp thuế nhập khẩu số hàng hố này.
trong q trính sản xuất ra sản phẩm để đem bán trên thị trường, họ còn phải
nộp thuế lợi tức, thuế doanh thu. Trong khi hàng ngoại do trốn được thuế nên
giá rẻ hơn, vì vậy làm cho hàng nội không tiêu thụ đựơc, dẫn đến đọng vốn,
nợ chồng chất rồi đi đến phá sản. đối với doanh nghiệp thương mại do giá cả
hàng hoá mua vào cao hơn nên không thể cạnh tranh được với hàng lậu trốn
thuế. Những doanh nghiệp kinh doanh đúng luật, nộp thuế đầy đủ bị những
doanh nghiệp kinh doanh trái phép, gian lận trồn thuế cạnh tranh chèn ép
không thể phát triển được. Nói về vấn đề này một số doanh nghiệp, cán bộ


21
quản lý doanh nghiệp đã lên tiếng. Ông Đỗ Quang Chiêu Phó tổng giám đốc
Tổng cơng ty hố chất Việt Nam cho rằng “sản phẩm của chúng tôi phải cạnh
tranh gay gắt với hàng nhập lậu từ bên ngoài, điều này chẳng những thất thu
cho ngân sách, thiệt hại đến người tiêu dùng mà cịn gây khơng ít khó khăn
cho sản xuất trong nước”. Công ty xe đạp Thống nhất dự tính “mỗi năm có
tới 600.000 – 700.000 xe đạp nhập lậu vào nước ta, trong khi trong nước chỉ
sản xuất và tiêu thụ được từ 250.000 – 300.000 chiếc. Do hàng nhập lậu, trốn
thuế nên giá bán rất rẻ đã nảy sinh một sức ép lớn, một sự cạnh tranh bất bình
đẳng trong thị trường, làm cho sản phẩm nội địa không thể tiêu thụ được, gây
ảnh hưởng đến việc làm và thu nhập của người lao động”.
Buôn lậu và gian lận thương mại là hình thức cạnh tranh không lành
mạnh ảnh hưởng rất lớn đến mội trường kinh doanh trong nước. Môi trường
kinh doanh kà nhân tố tác động mạnh mẽ tích cực đến hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp như kích thích đầu tư, phát triển sản xuất kinh
doanh. chính vì vậy khi mơi trường đó khơng cịn trong sạch, bất bình đẳng
thì nó sẽ tác động tiêu cực đến nền kinh tế. Như vậy bn lậu và gian lận
thương mại đã kìm hãm sự phát triển của kinh tế trong nước.

Không những ảnh hưởng đến môi trường đầu tư trong nước mà buôn
lậu và gian lận thương mại còn ảnh hưởng đến đầu tư nước ngoài vào Việt
Nam, gây ra tâm lý e ngại cho các nhà đầu tư nước ngoài. Trong báo Văn hoá
số 24 ra tháng 12/1999 đã ghi lại lời phát biểu của đại diện công ty Việt Nam
– Suzuki: “số lượng xe máy nhập lậu và gian lận thương mại ước lượng bình
quân 7- 8 chiếc/năm. Nhu cầu hiện nay là 350.000 chiếc /năm. trong khi các
công ty liên doanh hoặc có vốn đầu tư 100% nước ngồi chỉ sản xuất và tiêu
thụ được khoảng 23.000 chiếc do bị xe nhập lậu giá rẻ cạnh tranh. Nếu so
sánh thì xe nhập lậu chiếm 30% thị phần trong khi năng lực sản xuất của các
công ty này là hơn 1 triệu xe. Nếu khơng có biện pháp ngăn chặn kịp thời thì


22
liệu nền công nghiệp chế tạo xê máy sẽ đi về đâu”. Thực trạng này còn làm
cho thị trường hàng hóa mất ổn định, làm mất cân bằng cục bộ giữa cung và
câu, gây tâm lý hoang mang cho các nhà sản xuất trong nước, làm giảm lòng
tin của người tiêu dùng. Với người tiêu dùng, hàng ngoại tràn ngập thị trường
với giá rẻ sẽ tạo nên thị hiếu ưa dùng hàng ngoại. Song người tiêu dùng
không thấy được nguồn cung của hàng ngoại này là rất bấp bênh do phải trốn
thuế gian lận trong qua trình nhập cảnh, và khơng phải lúc nào cũng trốn thuế
được. Do đó trong từng thời kỳ sẽ nảy sinh các cơn sốt về giá, về mức cung
gây đảo lộn trên thị trường, làm mất ổn định nhà nước khơng kiểm sốt được.
Bn lậu và gian lận thương mại cũng làm thất thoát ngiêm trọng nguồn
thu ngân sách thông qua thuế xuất nhập khẩu làm ảnh hưởng đển q trình
tích luỹ vốn của nhà nước để tiến hành cân đối thu chi ngân sách và cơng
nghiệp hố hiện đại hố ở nước ta hiện nay.
Đối với các nhà thống kê kinh tế thì bn lậu và gian lận thương mại lại
tạo ra một con số giả tạo của lượng tiêu thụ trong nền kinh tế. Mà những con
số này lại có tác động trực tiếp đến những quyết định về chủ trương chính
sách của Nhà Nước về kinh tế của đất nước, như vậy việc những thông tin và

dự báo của các nhà thống kê dựa trên các số liệu như vậy sẽ không chính xác,
thiếu thực tê, khơng mang lại tác dụng cho nền kinh tế mà có khi cịn gây ảnh
hưởng sấu đến nền kinh tế.
2. Tác động đến văn hoá xã hội
Buôn lậu và gian lận thương mại ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống văn
hố xã hội. Mục đích của buôn lậu và gian lận thương mại là làm thế nào để
thu được lợi nhuận cao nhất với mọi thủ đoạn bất chính, vì vậy đã làm giảm
giá trị và làm sói mịn hệ thống đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam.
Mặt khác từ những đồng tiền thu lợi từ những việc làm bất chính đó đã xuất
hiện những kẻ tha hoá đạo đức trầm trọng khi chúng tham gia vào những tụ


23
điểm tệ nạn, gây mất an ninh trật tự xã hội, đây cũng là một trong những
nguyên nhân chính làm xuất hiện nhiều tệ nạn xã hội, tác động nghiêm trọng
đến nhân cách văn hoá của nhiều người trong mọi tầng lớp nhân dân. Điều
này có thể thấy rõ qua thực tế hiện nay là ngày càng có những tay “anh chị”,
“bảo kê” kiểu xã hội đen trong thế giới bn lậu, hàng loạt xã vùng biên giới
có nhiều nhân dân do hiểu biết cịn hạn chế vì hồn cảnh đã tham gia vận
chuyển tiếp tay cho bọn buôn lậu. Đây là những vấn đề bức xúc mà Nhà
Nước ta đang phải giải quyết nhằm duy trì một nền văn hoá lành mạnh đậm
đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng một xã hội công bằng văn minh.
3. Tác động đến chính trị
Bn lậu và gian lận thương mại len lỏi vào từng nhà dân vùng biển,
đồng thời lôi kéo, tấn công và làm sa ngã một bộ phận cán bộ Nhà Nước
trong nhiều hoạt động từ kinh doanh xuất nhập khẩu đến vận tải, từ hải quan,
biên phòng đến các ngành tư pháp. Nạn buôn lậu và gian lận thương mại đã
trở thành quốc nạn cùng với tham nhũng được đánh giá như là trong những
nguy cơ lớn đe doạ trực tiếp đến sự ổn định và vững mạnh của chế độ, an
ninh quốc gia. Tội phạm gia tăng trên các lĩnh vực gây ra hậu quả to lớn đến

hình ảnh của Đảng và Nhà Nước trước con mắt của thế giới và làm giảm uy
tín và lịng tin của nhân dân vào vai trò quản lý của Nhà Nước.
Như vậy có thể thấy bn lậu và gian lận thương mại đã tác động tiêu
cực và gây ra hậu quả rất nghiêm trọng đối với cả lĩnh vực kinh tế, chính trị
và xã hội, khơng những cho hiện tại mà cịn kéo dài cho mai sau. chính vì thế
mà việc tìm ra giải pháp khắc phục xố bỏ tệ nạn buôn lậu và gian lận thương
mại đã và đang là một trong những nhiệm vụ cấp thiết đối với Nhà Nước và
toàn thể nhân dân ta cũng như đây là vấn đề quốc tế.


24

III. NHỮNG MẶT ĐÃ LÀM ĐƯỢC VÀ CHƯA LÀM ĐƯỢC TRONG
VIỆC CHỐNG BUÔN LẬU VÀ GIAN LẬN THƯƠNG MẠI
1. Những mặt đã làm được trong công tác chống buôn lậu và gian lận
thương mại .
Trước tình hình bn lậu và gian lận thương mại diễn ra ngày càng
phức tạp và khó kiểm sốt như vậy, Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính
sách để khắc phục hậu quả và chống lại vấn nạn này. Nhà Nước đã ban hành
chính sách dán tem hàng hoá nhằm tăng hiệu quả quản lý thị trường, chống
hàng lậu, sản phẩm gian lận. Theo đánh giá của các lực lượng chống buôn lậu
kể từ khi thực hiện chính sách này tình hình nhập lậu các mặt hàng thuộc
diện phải dán tem đã giảm đáng kể. Cùng với đó là tình hình sản xuất các mặt
hàng đó trong nước đã có nhiều cải thiện tích cực. Các hành vi buôn lậu và
gian lận thương mại đã giảm một phần. Đối với chính sách của Nhà Nước
cũng đã có những sửa đổi và ban hành những luật mới nhằm thay thế những
điều luật cũ lạc hậu không con theo kịp tình hình thực tế, mục đích là giảm
tình tràng bn lậu và gian lận thương mại. Đối với thuế xuất nhập khẩu Nhà
Nước cũng đã có những điều chỉnh và đặc biệt là Nhà nước đã ban hành áp
dụng thuế giá trị gia tăng (VAT) nhằm xác định xuất sứ của các loại hàng

hoá, giảm đáng kể được hàng nhập lậu trên thị trường.
Ngoài ra Nhà nước cũng có nhiều chính sách khác như chính sách cho
vay vốn với lãi suất ưu đãi nhân dân vùng biên để kích thích đầu tư sản xuất,
tạo ra cơng ăn việc làm cho người lao động ở vùng này nhằm ngăn chặn tình
trạng nhân dân cịn tiếp tay cho bọn bn lậu. chính sách khuyến khích, động
viên qua lương thưởng đối với lực lượng chống buôn lậu và gian lận thương
mại.


25
Tại kỳ họp Quốc hội lần thứ 11 diễn ra vào tháng 5/1997 của Nhà nước
ta đã thông qua luật thương mại. Nó là cơ sở pháp lý để phát triển nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường, góp phần đẩy mạnh sản
xuất, cải thiện đời sống nhân dân, bảo vệ lợi ích chính đáng của người sản
xuất, người tiêu dùng và lợi ích hợp pháp của thương nhân. Luật thương mại
còn quy định rõ ràng nhiệm vụ của Nhà nước trong việc quản lý thị trường,
buôn lậu và gian lận thương mại. Điều 245-khoản 12 trong luật thương mại
có nêu nội dung quản lý Nhà nước về thương mại là: “Hướng dẫn, thanh tra,
kiểm tra việc thực hiện chính sách, quy hoạch, kế hoạch phát triển thương
mại và việc chấp hành luật thương mại. Xử lý các vi phạm về luật thương
mại, tổ chức việc đấu tranh chống buôn lậu, buôn lậu hàng cấm, hàng giả,
đầu cơ lũng đoạn thị trường, kinh doanh trái phép và các hành vi vi phạm
khác trong luật thương mại”. Bộ luật này ra đời đã đóng góp đáng kể vào q
trình chống bn lậu và gian lận thương mại.
Ngoài ra việc ban hành Nghị quyết số 85/CP- ngày 11/7/1997 của
Chính phủ đã đề ra một số giải pháp cấp bách về chống bn lậu, ngày
16/7/1997 Thủ tướng chính phủ đã có cơng điện số 5 về việc đơn đốc các
cấp, các ngành tổ chức thực hiện. Đồng thời Chính phủ cịn ban hành chỉ thị
số 853/1997/CT-TTg ngày 11/10/1997 về đấu tranh chống buôn lậu và gian
lận thương mại trong tình hình mới đã góp phần tích cực vào cuộc chiến

chống buôn lậu và gian lận thương mại đã thu được những kết quả đáng
khích lệ. Có rất nhiều vụ buôn lậu và gian lận thương mại đã bị bắt dữ và xử
lý. Công tác chống buôn lậu và gian lận thương mại đạt nhiều kết quả tốt đã
góp phần bảo hộ sản xuất trong nước và tác động tích cực đến sự phát triển
kinh tế đất nước. Báo cáo của các doanh nghiệp sản xuất những mặt hàng bị
hàng lậu chèn ép cho thấy tình hình tiêu thụ đã có nhiều chuyển biến tích
cực, đạt doanh thu cao.


×