Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

TỔNG QUAN VỀ DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA VÀ CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN MÔI TRƯỜNG KINH DOANH Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.74 KB, 23 trang )

TỔNG QUAN VỀ DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA VÀ CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN
MÔI TRƯỜNG KINH DOANH Ở VIỆT NAM.
I. VAI TRÒ CỦA DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA TRONG NỀN KINH TẾ
1. Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ
a. Khái niệm
Cho tới nay chúng ta chưa có một định nghĩa cụ thể về doanh nghiệp vừa và
nhỏ. Tùy vào mỗi quốc gia mà có một cách định nghĩa khác nhau về doanh nghiệp
vừa và nhỏ. Để hiểu hơn về doanh nghiệp nhỏ và vừa trước hết chúng ta cần hiểu
khái niệm doanh nghiệp.
Doanh nghiệp là một tổ chức kinh doanh có tư cách pháp nhân hay các hộ
kinh doanh cá thể có tư cách pháp nhân tham gia các hoạt động sản xuất, cung ứng
trao đổi hàng hoá và dịch vụ trên thị trường theo nguyên tắc tối đa hoá lợi ích của
người tiêu dùng và thông qua đó tối đa hoá lợi nhuận cho chủ doanh nghiệp.
Hiện nay ở nước có rất nhiều loại hình doanh nghiệp khác nhau tuỳ thuộc
vào tính chất hoạt động, ngành nghề kinh doanh và nguồn vốn chủ sở hữu cũng
như tính chất quản lý của doanh nghiệp. Vì vậy để xác định được đâu là doanh
nghiệp nhỏ và vừa thì chúng ta cần đưa ra tiêu chí xác định doanh nghiệp doanh
nghiệp nhỏ và vừa.
Doanh nghiệp nhỏ và vừa là những doanh nghiệp có vốn nhỏ và số lao động
tương đối ít. Việc đưa ra một tiêu chí đánh giá doanh nghiệp nhỏ và vừa chỉ mang
tính chất tương đối. Vì vậy việc phân chia doanh nghiệp hiện nay thường dựa vào
các nhóm ngành nghề:
+ Theo ngành nghề kỹ thuật
+ Theo hình thức chủ sở hữu
+ Theo cấp quản lý
+ Theo quy mô trình độ sản xuất
- Bên cạnh đó việc phân chia doanh nghiệp còn theo nhóm định tính đó là
dựa trên những đặc điểm cơ bản của các doanh nghiệp nhỏ và vừa như: trình độ
chuyên môn hoá thấp, số đầu mối quản lý ít, mức độ phức tạp quản lý thấp … Các
tiêu chí có ưu thế phản ánh đúng bản chất của các doanh nghiệp nhỏ và vừa nhưng
thường khó xác định trên thực tế.


Nên nhóm này thường dùng để tham khảo và ít được sử dụng.
- Nhóm chỉ tiêu về mặt định lượng: Sử dụng các tiêu chí về lao động giá trị
sản xuất, giá trị tài sản …
Ngoài ra còn có một vài yếu tố tác động đến việc phân loại doanh nghiệp
nhỏ và vừa như: tình hình kinh tế việc làm nói chung trong cả nước, tính chất nền
kinh tế hiện hành của nước đó, tính chất ngành nghề, vùng lãnh thổ, mục đích phân
loại.
- Tiêu chí xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa ở một số nước trên thế giới.
Hiện nay đa số các nước trên thế giới thường dựa vào các yếu tố lao động, công
nghệ, giá trị tài sản để phân chia doanh nghiệp nhỏ và vừa
Bảng 1
Tên quốc gia Số lao động
Vốn hay Σ tài sản
Doanh thu
Oxtraylia < 500 người
Canada < 500 người < 20 triệu $ Canada
Indonexia < 100 người < 6 tỷ Rupi < 2 tỷ Rupi
Singgapore < 100 người < 499 triệu $ Singgapore
Thái Lan < 100 người < 20 triệu Bath
(nguồn được dựa theo dự án chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp
nhỏ và vừa ở Việt Nam của viện Friech Eerber CHLBĐức phối hợp với viện
nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương thực hiện năm 1998.)
Do tiêu chí xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa ở một số nước là rất khác
nhau và nó lại tuỳ thuộc vào ý đồ chính sách, sự thay đổi chính sách của các
chính phủ là khác nhau nên các tiêu chí xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng
khác nhau và được thay đổi theo thời gian.
* Tiêu chí xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam
Có rất nhiều cách để xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa. Điều này phụ
thuộc vào cách nhìn nhận của chính phủ và các tổ chức phi chính phủ, tổ chức
kinh tế sau đây là một vài ví dụ.

- Ngân hàng công thương Việt Nam coi doanh nghiệp nhỏ và vừa là loại
hình doanh nghiệp có số lao động dưới 500 mà vốn cố định dưới 10 tỷ đồng, vốn
lưu động là 8 tỷ đồng và doanh thu hàng tháng dưới 20 triệu đồng.
- Liên hộ lao động và tài chính coi doanh nghiệp nhỏ và vừa là doanh
nghiệp có số lao động < 100 người, doanh thu hàng năm < 10 tỷ đồng và vốn
pháp định dưới 1 tỷ đồng.
- Dự án VIE/US/95/004 hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam do
UNIDO thì:
+ Doanh nghiệp nhỏ là doanh nghiệp có số lao động dưới 30 người vốn
đăng ký dưới 1 tỷ đồng.
+ Doanh nghiệp vừa là doanh nghiệp gồm có số lao động từ 31 - 200
người vốn đăng ký dưới 5 tỷ đồng.
- Quỹ hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa thuộc chương trình VN - EU doanh
nghiệp nhỏ và vừa được quỹ này hỗ trợ gồm các doanh nghiệp có số công nhân
từ 10 - 500 người và vốn điều lệ 50 nghìn - 300 nghìn USD. Quỹ phát triển nông
thôn coi doanh nghiệp nhỏ và vừa là doanh nghiệp có giá trị tài sản không quá 2
triệu $ lao động không quá 500 người. Lý do các tiêu chí khác nhau như vậy là
do Nhà nước chưa ban hành một tiêu chí chung để áp dụng cho tất cả các ngành.
Việc quy định tiêu chí xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa là để tạo cơ sở
triển khai các giải pháp hỗ trợ. Qua nghiên cứu thực tế nhiều nước, trong đó có
một số nước có điều kiện kinh tế và trình độ phát triển tương tự Việt Nam cho
thấy, các nước này chủ yếu sử dụng 3 tiêu chí: vốn, số lao động và doanh thu,
trong đó vốn và số lao động được nhiều nước áp dụng nhất. Chỉ số bình quân ở
các nước này là nếu doanh nghiệp có ít hơn 200 lao động và có số vốn kinh
doanh nhỏ hơn 1 triệu đô la Mỹ thì được coi là thuộc loại nhỏ và vừa. Đương
nhiên, do phụ thuộc vào ý đồ chính sách, khả năng hỗ trợ (về vật chất) của chính
phủ ở từng thời kỳ, nên các tiêu chí này ở một số nước cũng không cố định.
Thậm chí trong cùng một nước, nhiều khi các tiêu chí để xác định doanh nghiệp
đủ điều kiện nhận hỗ trợ của một tổ chức nào đó không phải bao giờ cũng trùng
hợp với tiêu chí theo quy định chung của Nhà nước.

Qua nghiên cứu kinh nghiệm thực tế các nước, căn cứ hoản cảnh cụ thể
của Việt Nam và có tính đến xu hướng phát triển thời gian tới, tại Điều 3,
Chương 1, Nghị định 90/2001/NĐ-CP của Chính phủ đã đưa ra định nghĩa về
doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam, trong đó có đưa ra tiêu chí để xác định
doanh nghiệp nhỏ và vừa như sau:
“Doanh nghiệp nhỏ và vừa là các cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã
đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ
đồng, hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người.
Căn cứ vào tình hình kinh tế - xã hội cụ thể của ngành, của địa phương
trong quá trình thực hiện các biện pháp, chương trình trợ giúp có thể linh hoạt áp
dụng đồng thời cả hai chỉ tiêu vốn và lao động hoặc một trong hai chỉ tiêu nói
trên”.
b. Ưu nhược điểm của doanh nghiệp nhỏ và vừa
Mỗi một loại hình doanh nghiệp đều có ưu nhược điểm hay nói cách khác
mỗi loại hình doanh nghiệp đều có những lợi thế và hạn chế nhất định.
- Những lợi thế của doanh nghiệp nhỏ và vừa
+ Dễ dàng khởi sự năng động và nhạy bén với thị trường:
Doanh nghiệp nhỏ và vừa chỉ cần một số vốn hạn chế, mọi mặt hàng nhỏ
hẹp có thể khởi sự doanh nghiệp, vòng quay sản phẩm nhanh có thể sử dụng vốn
tự có, tổ chức quản lý gọn nhẹ dễ quyết định khi thị trường biến động loại doanh
nghiệp gặp khó khăn thì dễ dàng chuyển sang ngành nghề kinh doanh khác và
hướng vào một thị trường khác do cơ cấu tổ chức quản lý gọn nhẹ lên ban lãnh
đạo dễ dàng thống nhất trong kinh doanh và thực hiện truyền đạt thông tin kinh
doanh chính xác.
+ Dễ dàng phát huy bản chất hợp tác: Các doanh nghiệp nhỏ và vừa
thường chỉ tiến hành một vài công đoạn trong quá trình sản xuất đề ra một sản
phẩm hoàn chỉnh đưa ra tiêu thụ trên thị trường. Chính vì vậy đòi hỏi các doanh
nghiệp nhỏ và vừa phải cùng nhau hợp tác để tồn tại.
+ Không có hoặc ít có sự xung đột mâu thuẫn giữa người sử dụng lao
động và lao động do quy mô doanh nghiệp nhỏ nên sự ngăn cách giữa người sử

dụng lao động và công nhân thường không lớn và nếu có mâu thuẫn thì dễ dàng
giải quyết với nhau.
+ Có thể duy trì sự tự do cạnh tranh: Các doanh nghiệp nhỏ và vừa có tính
độc quyền trong kinh doanh do đó các doanh nghiệp nhỏ và vừa thường dễ xâm
nhập thị trường và cạnh tranh là một trong các yếu tố làm doanh nghiệp nhỏ và
vừa hoàn thiện mình hơn và tự thể hiện khả năng của mình trên thương trường.
+ Doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể phát triển ở khắp mọi vùng, mọi nơi
của đất nước và lấp được những chỗ trống và thiếu vắng của các doanh nghiệp
lớn tạo nên sự cân bằng về phát triển kinh tế giữa các vùng, giữa các ngành.
+ Doanh nghiệp nhỏ và vừa là nơi đào luyện các nhà doanh nghiệp trẻ và
là cơ sở ban đầu để phát triển doanh nghiệp lớn. Qua thực tế hoạt động sản xuất
kinh doanh, một mạng lưới các doanh nghiệp nhỏ và vừa khắp cả nước đã đào
tạo và sàng lọc các nhà doanh nghiệp, có thể nói đây là môi trường đào tạo hữu
hiệu nhất. Đại bộ phận ở các nước đang phát triển các doanh nghiệp lớn đều
xuất thân từ các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Nói tóm lại, việc phát triển các doanh
nghiệp nhỏ và vừa sẽ tạo cho nền kinh tế có sự cạnh tranh công bằng bình đẳng
và góp phần phát triển đất nước.
- Những hạn chế của doanh nghiệp nhỏ và vừa
+ Bên cạnh các điểm mạnh được chỉ ra ở trên thì các doanh nghiệp nhỏ và
vừa còn có các điểm yếu nhất định như:
(1) thiếu các nguồn lực để tiến hành các cạnh tranh lớn, hoặc các dự án
đầu tư lớn, đầu tư công cộng.
(2) Các doanh nghiệp nhỏ và vừa khồn có các lợi thế kinh tế theo qui mô
và trong một số nước nhất định thì loại hình doanh nghiệp này thường lép vế
trong các mối quan hệ với ngân hàng, với chính phủ và giới báo chí … Nhiều
doanh nghiệp nhỏ và vừa bị phụ thuộc rất nhiều vào các doanh nghiệp lớn trong
quá trình phát triển.
(3) Đứng trên một giác độ nhất định thì các doanh nghiệp nhỏ và vừa vì
là rất dễ khởi nghiệp nên cũng phải chịu nhiều loại rủi ro trong kinh doanh. Và
trên thực tế ở các nước trên thế giới, càng nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa ra đời

thì cũng có càng nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa bị phá sản. Có những doanh
nghiệp bị phá sản sau một thời gian hoạt động rất ngắn.
(4) Là loại hình doanh nghiệp có tính nhạy cảm cao trong việc tạo ra các
ảnh hưởng ngoại lai như đã nói ở trên, bên cạnh các tác động ngoại lai tích cực
thì doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng gây ra không ít các ảnh hưởng ngoại lai tích
cực trong nền kinh tế như do ít vốn, hầu hết các doanh nghiệp này không quan
tâm đầy đủ đến việc bảo vệ môi trường hoặc khi nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa
bị phá sản hoặc hoạt động không hiệu quả thì gây ra sự thiếu tin tuởng của dân
chúng đối với loại hình doanh nghiệp này, gây khó khăn cho người tiêu dùng khi
lựa chọn các sản phẩm tiêu dùng cũng như khi lựa chọn các nhà cung cấp dịch
vụ.
Tuy nhiên, các điểm mạnh và điểm yếu của doanh nghiệp nhỏ và vừa
không giống nhau trong các thời kỳ khác nhau. Nhiều học giả đã phân tích tính
chất của doanh nghiệp nhỏ và vừa thông qua các giai đoạn phát triển khác nhau
của loại hình doanh nghiệp này. Trong nghiên cứu này, tôi có thể tóm tắt đặc
điểm của các doanh nghiệp qua 3 giai đoạn phát triển là: giai đoạn khởi sự mới
thành lập, giai đoạn mở rộng kinh doanh và giai đoạn chuyển đổi kinh doanh.
Đặc điểm của doanh nghiệp nhỏ và vừa thể hiện rất tõ qua từng giai đoạn vì
trong những giai đoạn nhất định các doanh nghiệp nhỏ và vừa chịu sức ép và
những cản trở khác nhau.
Trong giai đoạn đầu mới thành lập: Hầu hết các doanh nghiệp nhỏ và vừa
trong quá trình mới thành lập đều thiếu vốn hoạt động và có một kế hoạch chưa
hoàn chỉnh. Trong nhiều trường hợp các kế hoạch kinh doanh chỉ mới là những
phác thảo ban đầu của ý tưởng kinh doanh. Tại một số nước, chính phủ đã đưa ra
qui định là chỉ cấp giấy phép kinh doanh cho các doanh nghiệp khi họ có kế
hoạch kinh doanh. Trên thực tế các chủ doanh nghiệp chỉ làm bản kế hoạch kinh
doanh mang tính chất đối phó mà thôi. Các bản kế hoạch kinh doanh của doanh
nghiệp nhỏ và vừa trong giai đoạn này thể hiện các mơ ước nhiều hơn là tính
thực tế.
Các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong giai đoạn đầu kinh doanh thường có

các hiểu biết chưa thật đầy đủ về thị trường mục tiêu nên có rất nhiều doanh
nghiệp sau một thời gian hoạt động lại chuyển sang kinh doanh một ngành khác
với các ý tưởng kinh doanh ban đầu. Hơn nữa, có rất nhiều các tổ chức và các
dịch vụ hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở từng nước dưới các hình thức
khác nhau nhưng doanh nghiệp nhỏ và vừa trong giai đoạn đầu khởi nghiệp lại
rất khó tiếp cận với các dịch vụ hỗ trợ này. Họ thường chú trọng nhiều hơn trong
việc chờ đời các khoản lợi nhuận ban đầu mà quên đi rằng các mối quan hệ và
các dịch vụ hỗ trợ sẽ dễ dàng giúp các doanh nghiệp hạn chế rủi ro trong kinh
doanh.
Các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong giai đoạn đầu cũng chưa thật sự quan
tâm đến việc đào tạo nhân viên đặc biệt là nhân viên quản lý vì hầu hết nhân
viên được quản lý theo cách truyền thống và kinh nghiệm sẵn có của chủ doanh
nghiệp. Hầu hết các quyết định trong những doanh nghiệp này đều do chủ doanh
nghiệp đưa ra và phụ thuộc vào rất nhiều vào tài trí của chủ doanh nghiệp.
Khác với các doanh nghiệp khác, doanh nghiệp nhỏ và vừa trong giai
đoạn đầu kinh doanh rất dễ bị ảnh hưởng và chi phối của các cơ quan hành pháp.
Điều này đặc biệt đúng trong các nền kinh tế đang chuyển đổi khi mà hệ thống
pháp luật chưa thực sự hoàn thiện và đang trong giai đoạn xây dựng. Nhiều
doanh nghiệp nhỏ và vừa trong các nước đang chuyển đổi, chưa thật sự hiểu biết
về nghiệp chủ và cũng chưa có thói quen sử dụng tư vấn đồng hành trong kinh
doanh trong khi họ lại có sự hiểu biết thiếu đầy đủ về các thủ tục và điều kiện
kinh doanh. Trong các nước có nền kinh tế đã phát triển với một hệ thống luật
pháp đầy đủ về các thủ tục và điều kiện kinh doanh. Trong các nước có nền kinh
tế đã phát triển với một hệ thống luật pháp đầy đủ và hoàn thiện thì hầu hết các
doanh nghiệp nhỏ và vừa trong giai đoạn này rất cần đến các nhà tư vấn và luật
sư có kinh nghiệm.
Giai đoạn mở rộng kinh doanh: với đặc điểm là vốn hoạt động nhỏ, các
doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng thường thiếu vốn để thực hiện các phương án mở
rộng kinh doanh. Khác với các doanh nghiệp lớn, các doanh nghiệp nhỏ và vừa
cũng thường có kế hoạch mở rộng kinh doanh không thực hiện sự đầy đủ do các

doanh nghiệp này thiếu nguồn nhân lực được đào tạo một cách đầy đủ và phù
hợp. Một mặt do nhiêu lao động sau khi đã được đào tạo tại các doanh nghiệp
nhỏ và vừa thường tìm đến các doanh nghiệp lớn để làm việc vì ở đó có nhiều cơ
hội thăng tiến hoặc tăng thu nhập hơn, một mặt thì do các doanh nghiệp nhỏ và
vừa thiếu vốn đầu tư cho đào tạo nhân lực một cách chu đáo. Do vậy, nhiều
nước đã coi doanh nghiệp nhỏ và vừa là cái nôi để rèn luyện và đào tạo cán bộ
quản lý cho doanh nghiệp lớn trong những giai đoạn nhất định.
Bên cạnh đặc điểm trên, các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong giai đoạn mở
rộng kinh doanh này thường rất khó xác định đầy đủ các nguồn lực đầu vào cho
công việc kinh doanh đặc biệt là trong việc lựa chọn kỹ thuật và thiếu kinh
nghiệm kinh doanh trong một qui mô lớn hơn. Trong các nước có nền kinh tế
chuyển đổi hoặc đang phát triển thì các doanh nghiệp nhỏ và vừa còn bị hạn chế
bởi các kiến thức về cạnh tranh trên thị trường quốc tế khi họ mở rộng sản xuất
kinh doanh và tham gia cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Giai đoạn chuyển đổi kinh doanh: là giai đoạn tương đối gian khó của các
doanh nghiệp nhỏ và vừa đã nhận thấy sự cần thiết phải chuyển đổi kinh doanh
để có thể thu được các khoản lợi nhuận cao hơn. Hầu hết các doanh nghiệp nhỏ
và vừa chủ yếu là chú trọng đến việc chuyển đổi số lượng các sản phẩm và dịch

×