Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

thực trạng thu hồi đất hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.27 KB, 6 trang )

A. LỜI MỞ ĐẦU
Thời gian gần đây, tình hình khiếu nại, tố cáo, tranh chấp của công dân trong
lĩnh vực đất đai diễn ra gay gắt, phức tạp ở hầu hết các địa phương trong cả nước.
Trong đó có rất nhiều trường hợp khiếu nại có liên quan đến việc thu hồi đất. Theo
báo cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường, hàng năm Bộ nhận được gần 10.000
lượt đơn tranh chấp, khiếu nại, tố cáo thuộc lĩnh vực tài nguyên và môi trường của
công dân 63/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, trong đó đơn thuộc lĩnh vực
đất đai chiếm 98,6% tổng số đơn. Do đó việc tìm hiểu thực trạng, nghiên cứu, đề
xuất hướng giải quyết cho vấn đề này ngày càng trở nên bức thiết.
Dưới đây là một vụ việc cụ thể liên quan đến vấn đề thu hồi đất dẫn đến
khiếu nại và bức xúc trong lòng người dân. Thông qua vụ việc này, em hy vọng sẽ
có những kiến thức nhất định về thực trạng thu hồi đất hiện nay để từ đó đưa ra
được phương hướng giải quyết đúng đắn theo quy định của pháp luật hiện hành.
B. GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG
I. Tình huống số 6: Gia đình ông X sử dụng 1000 m2 đất nông nghiệp. Diện tích
khu đất này đã được cấp GCNQSDĐ. Tháng 1/2003, UBND xã A thu hồi 1000 m2
đất của gia đình ông X đổi cho một gia đình khác. Gia đình ông X không đồng ý
với quyết định thu hồi đất của UBND xã A nhưng vẫn buộc phải thực hiện. Ông X
đã làm đơn khiếu nại lên UBND xã A và được trả lời là GCNQSDĐ cấp cho gia
đình ông X đến nay không còn giá trị. Sau đó, UBND xã A đã lấy mảnh đất nông
nghiệp trên của ông X bán cho người khác để làm nhà ở.
Hỏi: Anh (chị) hãy cho biết:
1. Việc làm của UBND xã A đúng hay sai? Vì sao?
2. Hãy tư vấn giúp ông X bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình?
3. Vụ việc này sẽ giải quyết như thế nào theo đúng pháp luật đất đai hiện hành?
-1-
II. Cách giải quyết tình huống:
1. Việc làm của UBND xã A đúng hay sai? Vì sao?
Trả lời: Việc làm của UBND xã A là sai, vì: UBND xã A không có thẩm
quyền trong việc thu hồi cũng như bán mảnh đất nông nghiệp 1000 m2 của gia
đình ông X cho người khác để làm nhà ở. Điều 15 Luật Đất đai năm 2003 quy định


về những hành vi bị nghiêm cấm là: “… Nhà nước nghiêm cấm hành vi lợi dụng
chức vụ, quyền hạn, vượt quá quyền hạn hoặc thiếu trách nhiệm của người có thẩm
quyền để làm trái các quy định về quản lý đất đai”.
*Theo quy định tại Khoản 2 Điều 44 Luật Đất đai năm 2003 về thẩm
quyền thu hồi đất là: “2. UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh quyết
định thu hồi đất đối với hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư, người Việt Nam
định cư ở nước ngoài thuộc đối tượng được mua nhà ở gắn liền với quyền sử dụng
đất ở tại Việt Nam”.
Như vậy, theo quy định tại Điều 44 Luật Đất đai năm 2003, cơ quan có thẩm
quyền thu hồi đất đối với hộ gia đình, cá nhân là UBND cấp huyện. Khi thu hồi
đất, cơ quan có thẩm quyền thu hồi đất phải trực tiếp ra quyết định và không được
ủy quyền. Do đó UBND xã A không có thẩm quyền thực hiện việc thu hồi đất đối
với gia đình ông X.
*Hơn nữa, Khoản 1 Điều 36 Luật Đất đai năm 2003 về chuyển mục đích
sử dụng đất cũng đã quy định rõ: “Trường hợp chuyển mục đích sử dụng đất phải
được phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền bao gồm:
a) Chuyển đất chuyên trồng lúa nước sang đất trồng cây lâu năm, đất trồng rừng,
đất nuôi trồng thuỷ sản;
b) Chuyển đất rừng đặc dụng, đất rừng phòng hộ sang sử dụng vào mục đích khác;
-2-
c) Chuyển đất nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp;..."
Áp dụng vào tình huống trên, ta thấy việc UBND xã A sau khi đã thu hồi đất
nông nghiệp của gia đình ông X đã thực hiện hành vi bán lại cho người khác để
làm nhà ở là hoàn toàn trái với quy định của pháp luật. Bởi đất nông nghiệp nếu
không có sự cho phép của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thì không được tự ý
chuyển đổi mục đích sử dụng và càng không thể chuyển từ đất nông nghiệp sang
đất thổ cư để xây nhà ở. Đây là hành vi vi phạm nghiêm trọng pháp luật về đất đai.
*Ngoài ra vảo tháng 1/2003 khi thu hồi đất của gia đình ông X, UBND xã A
đã không thông báo lý do thu hồi đất. Khi ông X làm đơn khiếu nại lên UBND xã
A thì được trả lời là GCNQSDĐ cấp cho gia đình ông X đến nay không còn giá trị.

Theo quy định của Luật đất đai năm 2003 thì trước khi thu hồi đất, chậm nhất là 90
ngày đối với đất nông nghiệp, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phải thông báo
cho người bị thu hồi đất biết lý do thu hồi, thời gian và kế hoạch di chuyển,
phương án tổng thể về bồi thường, giải phóng mặt bằng, tái định cư.
Như vậy, căn cứ vào những lập luận trên, ta đi đến kết luận việc làm của
UBND xã A là hoàn toàn sai, trái với quy định của pháp luật đất đai hiện hành.
2. Hãy tư vấn giúp ông A bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình?
*Theo tình huống, gia đình ông X sử dụng 1000 m2 đất nông nghiệp. Diện
tích khu đất này đã được cấp GCNQSDĐ. Theo Khoản 1 Điều 136 Luật Đất đai
năm 2003 về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai:
“Tranh chấp đất đai đã được hoà giải tại UBND xã, phường, thị trấn mà một
bên hoặc các bên đương sự không nhất trí thì được giải quyết như sau: 1. Tranh
chấp về quyền sử dụng đất mà đương sự có GCNQSDĐ hoặc có một trong các loại
giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật này và tranh chấp về tài
-3-
sản gắn liền với đất thì do Toà án nhân dân giải quyết;”. Do đó, trong trường hợp
này ông X có thể làm đơn khởi kiện lên Tòa án nhân dân để đòi lại quyền lợi cho
mình.
*Theo quy định tại Điều 67 Luật Đất đai năm 2003 về đất sử dụng có thời
hạn là: “...Khi hết thời hạn, người sử dụng đất được Nhà nước tiếp tục giao đất,
cho thuê đất nếu có nhu cầu tiếp tục sử dụng, chấp hành đúng pháp luật về đất đai
trong quá trình sử dụng và việc sử dụng đất đó phù hợp với quy hoạch sử dụng đất
đã được xét duyệt”. Điều đó có nghĩa là Nhà nước không chỉ bảo đảm quyền lợi
cho người sử dụng đất trong thời hạn sử dụng đất mà còn bảo hộ quyền lợi cho họ
sau khi thời hạn kết thúc để người sử dụng đất càng yên tâm sản xuất.
Để tiếp tục sử dụng đất, ông X phải tiến hành những thủ tục theo Điều 141
Nghị định số 181/2004/NĐ – CP quy định về việc gia hạn sử dụng đất. Cụ thể,
trước khi hết hạn sử dụng đất 06 tháng, người sử dụng đất có nhu cầu gia hạn sử
dụng đất nộp 01 bộ hồ sơ tại Phòng Tài nguyên và Môi trường đối với hộ gia đình,
cá nhân gồm: Đơn xin gia hạn sử dụng đất đối với hộ gia đình, cá nhân xin gia hạn

sử dụng đất không vượt quá mười hai (12) tháng; (mẫu đơn đính kèm bài làm)
Việc gia hạn được quy định như sau:
a) Cơ quan tài nguyên và môi trường có trách nhiệm thẩm tra hồ sơ, xác
định nhu cầu sử dụng đất phù hợp với đơn xin gia hạn hoặc dự án bổ sung về sản
xuất, kinh doanh đã được xét duyệt; trình UBND cùng cấp quyết định gia hạn; chỉ
đạo Văn phòng Đăng ký QSDĐ trực thuộc làm trích sao hồ sơ địa chính;
b) Văn phòng Đăng ký QSDĐ có trách nhiệm làm trích sao hồ sơ địa chính
gửi cơ quan tài nguyên và môi trường cùng cấp và gửi số liệu địa chính cho cơ
quan thuế để xác định nghĩa vụ tài chính;
-4-
c) Người sử dụng đất có trách nhiệm nộp GCNQSDĐ đã hết hạn, nộp chứng
từ đã thực hiện xong nghĩa vụ tài chính đối với trường hợp được gia hạn sử dụng
đất cho cơ quan tài nguyên và môi trường;
d) Cơ quan tài nguyên và môi trường có trách nhiệm chỉnh lý thời hạn sử
dụng đất trên GCNQSDĐ đối với trường hợp được gia hạn sử dụng đất;
Thời gian thực hiện các công việc quy định tại các điểm a, b, c và d khoản
này không quá hai mươi (20) ngày làm việc (không kể thời gian người sử dụng đất
thực hiện nghĩa vụ tài chính) kể từ ngày cơ quan tài nguyên và môi trường nhận đủ
hồ sơ hợp lệ cho tới ngày người sử dụng đất nhận được GCNQSDĐ.
Sau khi hoàn tất các thủ tục nêu trên, gia đình ông X có thể tiếp tục sử dụng
mảnh đất nông nghiệp 1000 m2 theo đúng nhu cầu của mình và đúng với quy định
của pháp luật.
3. Vụ việc này sẽ giải quyết như thế nào theo đúng pháp luật đất đai hiện
hành?
Theo Điều 141 Luật Đất đai năm 2003 về xử lý đối với người quản lý vi
phạm pháp luật về đất đai là: “Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái với
quy định của pháp luật trong giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích
sử dụng đất, chuyển quyền sử dụng đất, thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất,
xác định nghĩa vụ tài chính về đất đai, quản lý hồ sơ địa chính, ra quyết định hành
chính trong quản lý đất đai; thiếu trách nhiệm trong quản lý để xảy ra vi phạm pháp

luật về đất đai hoặc có hành vi khác gây thiệt hại đến tài nguyên đất đai, quyền và
nghĩa vụ của người sử dụng đất thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý
kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật”.
-5-

×