Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

SKKN Dạy kỹ năng sống cho học sinh Tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.58 KB, 14 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
"DẠY KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH TIỂU HỌC"
1
A. PHẦN MỞ ĐẦU
I/ Lý do chọn sáng kiến:
Từ năm học 2010-2011, Bộ GD-ĐT đưa nội dung giáo dục kỹ năng sống lồng ghép
vào các môn học ở bậc tiểu học. Đây là một chủ trương cần thiết và đúng đắn.
Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện về đạo đức, trí
thức, sức khỏe, thẩm mỹ, nghề nghiệp và hình thành nhân cách, đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh là một nội dung được đông đảo phụ huynh
và dư luận quan tâm, bởi đây là một chương trình giáo dục hết sức cần thiết đối với học
sinh và phù hợp với mục tiêu giáo dục hiện nay, nhằm đào tạo con người với đầy đủ các
mặt “đức, trí, thể, mỹ” để đáp ứng yêu cầu của xã hội.
Ở bậc tiểu học là bậc tạo nền tảng cho học sinh phát triển, vì vậy ngoài việc trang bị
cho học sinh vốn kiến thức cơ bản trong học tập, lao động còn phải giáo dục học sinh có
kỹ năng sống, kỹ năng làm người để học sinh có thêm kinh nghiệm thích ứng với môi
trường, xã hội mới.
Năm học 2012-2013 là năm học tiếp tục thực hiện phong trào thi đua “Xây dưng
trường học thân thiện, học sinh tịhs cực” việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh là một
trong những nội dung của phong trào. Chí vì vậy nên các nhà trường cần chú trọng hơn
đến nọi dung “Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh”.
Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh giúp học sinh tự giải quyết được một số vấn đề
thiết thực trong cuộc sống hằng ngày như: tự chăm sóc sức khỏe, bảo vệ môi trường và
phòng chống các tệ nạn xã hội,… để các em chủ động, tự tin không phụ thuộc hoàn toàn
vào người lớn mà vẫn có thể tự bảo vệ mình.
Với ý nghĩa và tầm quan trọng của việc giáo dục kỹ năng cho học sinh, tôi đã chọ
sáng kiến về “Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Tiểu học”.
II/ Đối tượng nghiên cứu:
- Học sinh Tiểu học.


III/ Phạm vi nghiên cứu:
- Vì đây là đề tài khá nhạy cảm, gặp nhiều khó khăn trong việc thực hiện, sử dụng
các phương pháp nghiên cứu và được thực hiện lần đầu tiên tại đơn vị. Nên việc nghiên
2
cứu đề tài “Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Tiểu học” còn gặp nhiều khó khăn rất
mong các đồng nghiệp đóng góp và giúp đỡ.
IV/ Phương pháp nghiên cứu:
- Đọc các tài liệu về tâm sinh lý lứa tuổi Tiểu học và tài liệu liên quan tới giáo dục
kỹ năng sống cho học sinh
- Phương pháp khảo sát - quan sát thực tế giáo viên và học sinh.
- Thực hiện phỏng vấn, hỏi đáp, điều tra.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp.
* Trên đây là một số phương pháp tiêu biểu mà tôi đã áp dụng trong đề tài sáng kiến kinh
nghiệm này. Vì mỗi phương pháp đều có cái hay trong quá trình áp dụng thực hiện. Nếu
chúng ta áp dụng đúng phương pháp trong từng thời điểm thích hợp thì hiệu quả đạt được
rất tốt trong việc thực hiện đề tài sáng kiến kinh nghiệm.
B. PHÂN NỘI DUNG
I/ Cơ sở lý luận.
Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh có thể quan niệm là việc tổ chức các hoạt động
giáo dục đa dạng, phong phú nhằm kích thích học sinh tham gia một cách tích cực chủ
động vào các quá trình hoạt động, qua đó hình thành hoặc thay đổi hành vi của trẻ theo
hướng tích cực nhằm góp phần phát triển nhân cách toàn diện; giúp học sinh có thể sông
an toàn, khỏe mạnh và tích cực , chủ động trong cuộc sống hằng ngày. Giáo dục kỹ năng
sống cho học sinh là giáo dục cho các em có cách sống tích cực trong xã hội hiện đại, là
xây dựng hoặc thay đổi ở các em các hành vi theo hướng tích cực phù hợp với mục tiêu
phát triển toàn diện nhân cách người học trên cơ sở giúp học sinh có tri thức, giá trị, thái
độ và kỹ năng phù hợp.
1. Kỹ năng sống là gì?
Có nhiều định nghĩa và quan niệm khác nhau về kỹ năng sống. Mỗi định nghĩa được
thể hiện dưới những cách thức tiếp cận khác nhau. Thông thường, kỹ năng sống được

hiểu là những kỹ năng thực hành mà con người cần để có được sự an toàn, cuộc sống
khỏe mạnh với chất lượng cao.
- Theo tổ chức văn hóa, khoa học và giáo dục Liên hợp quốc (UNESCO), kỹ năng
sống là năng lực cá nhânđể họ thực hiện đầy đủ các chức năng và tham gia vào cuộc sống
hàng ngày, những kỹ năng đó gắn vói 4 trụ cột của giáo dục:
Học để biết: gồm các kỹ năng tư duy phê phán, tư duy sáng tạo, ra quyết định vấn
đề, nhận thức được hậu quả của việc làm…;
3
Học để làm: gồm kỹ năng thực hiện công việcvà nhiệm vụ như kỹ năng đặt mục
tiêu, đảm nhận trách nhiệm ;
Học để làm người: gồm các kỹ năng cá nhân như ứng phó với căng thẳng, kiểm
soát cảm xúc, tự nhận thức, tự tin…;
Học để chung sống: gồm các kỹ năng như giao tiếp, thương lượng, khẳng định hợp
tác, làm việc theo nhóm, thể hiện sự cảm thông;
- Theo tổ chức Y tế Thế giới (WHO), kỹ năng sống là kỹ năng thiết thực mà con
người cần để có cuộc sống an toàn và khỏe mạnh, đó là những kỹ năng tâm lý xã hội và
giao tiếp mà mỗi cá nhân có thể có để tương tác với những người khác một cách hiệu quả
hoặc ứng phó với những vấn đề hay thách thức của cuộc sống hằng ngày.
Tương đồng với quan niệm của WHO, còn có quan niệm kỹ năng sống là những kỹ
năng tâm lý xã hội liên quan đến những tri thức, những giá trịvà những thái độ, cuối cùng
được thể hiện ra bằng những hành vi làm cho các cá nhân có thể thích nghi và giải quyết
có hiệu quả các yêu cầu và thách thức của cuộc sống.
- Theo UNICEFF, Kỹ năng sống là tập hợp rất nhiều kỹ năng tâm lý xã hội và giao
tiếp cá nhân giúp cho con người đưa ra những quyết định có cơ sở, giao tiếp một cách có
hiệu quả, phát triển các kỹ năng tự xử lý và quản lý bản thân nhằm giúp họ có một cuộc
sống lành mạnh và có hiệu quả. Kỹ năng sống được thể hiện ở những hành động cá nhân
và những hành động đó sẽ tác động đến những hành động của những người khác cũng
như dẫn đến những hành động nhằm thay đổi môi trường xung quanh, giúp nó trở nên
lành mạnh.
Có thể thấy rằng kỹ năng sống bao gồm một loạt các kỹ năng cụ thể, cần thiết cho

cuộc sống hàng ngày của con người. Về bản chất, đó là kỹ năng tự quản lý bản thân và kỹ
năng xã hội cần thiết để cá nhân tự lực trong cuộc sống, học tập và làm việc hiệu quả…
Nói các khác kỹ năng sống là khả năng làm chủ bản thân của mỗi con người, khả năng
ứng xử phù hợp với những người khác và với xã hội, khả năng ứng phó trước các tình
huống của cuộc sống. Kỹ năng sống hướng vào việc giúp con người thay đổi nhận thức,
thái độ và giá trị trong những hành động theo xu hướng tích cực và mang tính chất xây
dựng.
Kỹ năng sống được hình thành thông qua một quá trình sống, rèn luyện, học tập
trong gia đình, nhà trường và ngoài xã hội. Vì vậy, kỹ năng sống của mỗi người vừa có
tính cá nhân, vừa có tính xã hội và chịu ảnh hưởng của gia đình, cộng đồng, dân tộc. Kỹ
năng sống mang tính cá nhân bởi vì đó là khả năng của mỗi cá nhân. Mặt khác kỹ năng
sống có tính xã hội là vì trong mỗi giai đoạn của sự phát triển xã hội, mỗi tôn giáo, cá
4
nhân được yêu cầu để có sự phù hợpvới những kỹ năng sống ấy. Ví dụ: kỹ năng sống của
những người sống ở những vùng miền khác nhau có sự khác nhau…
2. Đặc điểm tâm sinh lý trẻ:
- Đặc điểm về thể chất của trẻ: Cơ thể trẻ em là nền tảng vật chất của trí tuệ và tâm
hồn. Nền tảng có vững thì trí tuệ và tình cảm mới có khả năng phát triển tốt. “Thân thể
khoẻ mạnh thì chứa đựng một tinh thần sáng suốt”, ngược lại “tinh thần sáng suốt thì cơ
thể có điều kiện phát triển”. Trong cuộc sống thực tế cho thấy những trẻ có thể lực yếu
thường hay ỷ lại, phụ thuộc nhiều vào những người thân trong gia đình những việc làm tự
phục vụ mà lẽ ra chính trẻ phải tự làm, tự lập dần: rửa chân tay, mặc quần áo,
- Một yếu tố nữa ảnh hưởng đến việc tự lập của HS là hệ thần kinh của trẻ. Hệ thần
kinh của trẻ tiểu học đang trong thời kì phát triển mạnh. Bộ óc của các em phát triển về
khối lượng, trọng lượng và cấu tạo. Đến 9, 10 tuổi hệ thần kinh của trẻ căn bản được
hoàn thiện và chất lượng của nó sẽ được giữ lại trong suốt cuộc đời. Khả năng kìm
hãm(khả năng ức chế) của hệ thần kinh còn yếu. Trong khi đó bộ óc và hệ thần kinh của
các em đang phát triển đi dần đến hoàn thiện nên các em dễ bị kích thích. Thầy cô giáo
và cha mẹ, người thân của các em cần chú ý đến đặc điểm này để giúp trẻ hình thành tính
tự chủ, lòng kiên trì, sự kìm hãm của bản thân trước những kích thích của hoàn cảnh

xung quanh, biết giữ gìn trật tự nơi công cộng và trong lớp học. Mặt khác không được
mắng, doạ dẫm, đe nạt các em vì làm như thế không những bị tổn thương đến tình cảm
mà còn gây tác hại đến sự phát triển thần kinh và bộ óc của các em.
- Khi trẻ bắt đầu gia nhập cuộc sống nhà trường - đi học tiểu học, các em được học
thêm những điều chưa hề có trong 6 năm đầu đời; khi gia nhập cuộc sống nhà trường các
em phải tiến hành hoạt động học – hoạt động nghiêm chỉnh có kỉ cương, nề nếp với
những yêu cầu nghiêm ngặt. Chuyển từ hoạt động chủ đạo là vui chơi sang hoạt động chủ
đạo là học tập; chắc chắn trẻ không tránh khỏi sự bỡ ngỡ vì thế phải chuẩn bị cho các em
tâm lí chuẩn bị sẵn sàng đi học.Việc giáo dục kỹ năng sống cho HS tiểu học cũng được
bắt đầu ngay từ những buổi đầu các em đến trường. Nếu không chuẩn bị chu đáo về mặt
tâm lí cho trẻ trước khi đi học sẽ dẫn đến những tình huống như: đòi theo bố mẹ về nhà,
không dám nói chuyện với bạn bè, không dám chào hỏi thầy cô, không dám xin phép cô
khi ra vào lớp, không ít những tình huống dở cười, dở mếu vì trẻ lớp 1 không dám xin
đi vệ sinh rồi bậy ra quần ngay tại trong lớp, hoặc có trẻ xin ra ngoài đi vệ sinh nhưng lại
tranh thủ đi chơi để GV phải đi tìm,
- Đặc điểm quá trình nhận thức của trẻ bao gồm quá trình tri giác, chú ý,trí nhớ,
tưởng tượng, tư duy. Đặc điểm nhân cách của trẻ tiểu học gồm có: tính cách, nhu cầu
nhận thức, tình cảm, sự phát triển của năng khiếu. Sự nhận thức của trẻ ảnh hưởng rất lớn
5
đến phát triển nhân cách, ảnh hưởng đến việc hình thành và rèn luyện kĩ năng sống của
trẻ. Sự nhận thức đúng đắn sẽ giúp trẻ có được kiến thức vận dụng trong cuộc sống sinh
hoạt, giao tiếp, ứng xử phù hợp với yêu cầu chuẩn mực xã hội. Một đặc điểm quan trọng
trong lứa tuổi tiểu học là tính hay bắt chước. HS tiểu học thích bắt chước hành vi, cử chỉ,
lời nói, của các nhân vật trong phim, của các thầy cô giáo, của những người thân trong
gia đình. tính bắt chước là con dao “hai lưỡi”, vì trẻ em bắt chước cái tốt cũng nhiều, cái
xấu cũng nhiều. Chính vì vậy những tính cách hành vi của những người xung quanh là
môi trường ảnh hưởng trực tiếp đến tính cách, hành vi, ứng xử của trẻ.
Các dạng hoạt động của trẻ emđược thực hiện trong các quan hệ:
Trẻ em – Gia đình; Trẻ em - Đồ vật; Trẻ em – Nhà trường; Trẻ em – Xã hội.
Trong các mối quan hệ, quan hệ thầy trò là mối quan hệ đặc biệt của mối quan hệ

người – người. Ở tiểu học, do uy tín của người thầy giáo các quan điểm, niềm tin, toàn bộ
những hành vi cử chỉ của người thầy thường là những mẫu mực cho hành vi của học sinh
nói chung. Nó ảnh hưởng sâu sắc đến thái độ và cách ứng xử của các em trong quan hệ
với người khác và với xã hội. Các em thường tin tưởng tuyệt đối ở nơi thầy, cô giáo nên
chúng thường bắt chước những cử chỉ tác phong của thầy, cô giáo mình. ở trường các em
còn được tiếp xúc với bạn bè, với tập thể nhóm bạn, tổ, lớp; những hoạt động tập thể
cũng ảnh hưởng không ít đến việc hình thành, phát triển nhân cách và giáo dục kỹ năng
sống cho trẻ.
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN:
Qua nhiều năm theo dõi, chỉ đạo công tác chuyên môn ở trường TH Đổng Xá, tôi thấy
thực tế của vấn đề này là:
1. Về giáo viên:
- Một bộ phận giáo viên chưa thực sự quan tâm đến việc giáo dục kỹ năng sống cho học
sinh mà chỉ chú trọng truyền thụ kiến thức ở sách giáo khoa nên chưa chịu khó tìm tòi
các hình thức và phương pháp tổ chức cho các hoạt động này nên làm mất sự hứng thú
của học sinh.
2. Về học sinh:
- Học sinh học tập thụ động, chủ yếu chỉ nghe và làm theo thầy cô giáo, ít sáng tạo, tính
tự giác chưa cao, lười hoạt động.
- Học sinh chỉ có học kiến thức, khả năng ứng phó với các tình huống trong cuộc sống
kém, tính tự tin ít, tự ti nhiều, thường nóng nảy, gây gổ lẫn nhau.
- Kỹ năng giao tiếp hạn chế, hay nói tục, chửi bậy.
6
3. Về Phụ huynh:
Nguyên nhân khiến đa phần học sinh khó tiếp cận được các hoạt động kỹ năng thực hành
xã hội là do phụ huynh không cho phép. Đa số phụ huynh cho rằng con em mình chỉ cần
học giỏi kiến thức.
Phụ huynh học sinh chỉ khuyến khích các con tìm kiến thức mà quên hướng cho con em
mình làm tốt hoạt động đoàn thể, hoạt động xã hội và cách ứng xử trong gia đình.
Phần lớn ở gia đình phụ huynh giao tiếp trong gia đình còn nhiều hạn chế, xưng hô chưa

chuẩn mực nên các em bắt chước và xưng hô thiếu thiện cảm.
4. Về nhà trường.
Trường TH Đổng Xá là một trường vùng sâu, vùng xa nằm ở phía Nam của huyện, cách
trung tâm huyện 43km, trường có nhiều điểm trường lẻ, điều kiện kinh tế xã hội khó
khăn. Năm học 2012-2013, nhà trường có 16 lớp với tổng số 179 học sinh. Trường chưa
được công nhận trường chuẩn Quốc gia. Từ năm 2000 đến nay trường luôn hoàn thành
nhiệm vụ, duy nhất năm học 2011-2012 trường đat danh hiệu trường tiên tiến. Trong hoạt
động chuyên môn dạy và học, Nhà trường thường xuyên nghiên cứu, cải tiến nâng cao
chất lượng giảng dạy theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh, không ngừng đổi
mới PPDH phù hợp với nội dung chương trình. Và đặc biệt chú trọng đến việc "Giáo
dục kỹ năng sống" cho học sinh. Nhà trường coi đây là một trong những yếu tố quan
trọng hàng đầu trong việc thực hiện mục tiêu giáo dục. Chính vì thế ngay sau khi Bộ
Giáo dục đào tạo đưa nội dung giáo dục kỹ năng sống lồng ghép vào các môn học và hoạt
động giáo dục ngoài giờ lên lớp, nhà trường tiến hành triển khai đồng bộ đến toàn thể cán
bộ giáo viên về việc tăng cường rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh. Đẩy mạnh thực
hiện phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”. Mỗi thầy,
cô giáo tâm huyết, trách nhiệm hơn trong việc giáo dục đạo đức, nhân cách cho học sinh.
Mỗi giáo viên trong nhà trường không chỉ nâng cao chất lượng chuyên môn nghiệp vụ,
mà còn thường xuyên quan tâm đến đời sống, tâm tư tình cảm của học sinh.
Việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trong nhà trường, ngoài việc lồng ghép vào các
môn học hàng ngày, hoạt động ngoài giờ lên lớp là một trong những con đường giáo dục
có hiệu quả trong việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh. Chính vì thế ngoài việc xây
dựng và hoàn thiện các quy tắc ứng xử văn hóa trong nhà trường, bằng nhiều hình thức
khác nhau nhà trường thường xuyên tổ chức những buổi sinh hoạt ngoại khóa với các
cuộc thi như "Giao lưu Tiếng Việt của chúng em", "Giao lưu học sinh giỏi các môn học",
“Hưởng ứng ngày lễ toàn cầu về giáo dục” trò chơi dân gian, trò chơi vận động,… tham
gia các hoạt động dọn vệ sinh bảo vệ môi trường, tổ chức các hoạt động quyên góp ủng
hộ bạn nghèo, bạn bị bệnh tật hiểm nghèo Thông qua những hoạt động này, nhà trường
7
muốn rèn luyện cho các em học sinh tính đoàn kết tập thể, khả năng làm việc theo nhóm.

Đồng thời xây dựng tinh thần chia sẻ, ý thức trách nhiệm cho các em.
Chính nhờ việc chú trọng giáo dục kỹ năng sống cho học sinh của nhà trường đã tạo tinh
thần đoàn kết, gắn bó, quan tâm giúp đỡ lẫn nhau trong học tập, học sinh nỗ lực tiếp thu
bài giảng và tìm tòi những kiến thức liên quan đến bài học để liên hệ áp dụng vào thực
tiễn, qua đó phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Các em cảm thấy rất
vui và biết thêm nhiều kiến thức. Nhờ đó các em biết tự chăm sóc bản thân như là tự sắp
xếp góc học tập thật ngăn nắp, tự giặt quần áo cho mình, vệ sinh cá nhân và môi trường
sống Ngoài ra, em còn giúp bố mẹ nhiều việc nhà. Đây được xem là bước tiến quan
trọng trong việc đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục xem học sinh là trung tâm, góp
phần tạo điều kiện cho việc hoàn thiện nhân cách học sinh ngay từ khi còn ngồi trên ghế
nhà trường.
Từ những thực trạng trên đây, thì việc " Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Tiểu học"
là một việc làm vô cùng cần thiết giúp cho các em say mê, hứng thú trong học tập, các
em thấy mình mạnh dạn hơn trong giao tiếp, tự tin hơn trong việc thể hiện những năng lực
của bản thân .
III. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU:
"Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Tiểu học".
Để giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Tiểu học chúng tôi đã thực hiện các biện pháp
sau:
Các giải pháp tổ chức thực hiện việc “Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Tiểu học”
1. Bám sát nội dung giáo dục kỹ năng sống cho học sinh:
Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh cũng như các quá trình hoạt động giáo dục khác
trong nhà trường đều có cấu trúc xác định. Nội dung giáo dục kỹ năng sống cho học sinh
tập trung vào các kỹ năng tâm lý - xã hội là những kỹ năng được vận dụng trong những
tình huống hàng ngày để tương tác với người khác và giải quyết có hiệu quả những vấn
đề, những tình huống của cuộc sống. Những nội dung này hết sức đơn giản, gần gũi với
trẻ em, là những kiến thức tối thiểu để các em có thể tự lập Và mục đích quan trọng
nhất là giúp các em tự tin hơn, tự lập hơn trong cuộc sống. Vì vậy khi tổ chức các hoạt
động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh cấn:
- Bám sát vào nội dung của giáo dục kỹ năng sống và vận dụng linh hoạt các nội dung

của giáo dục kỹ năng sống tuỳ theo từng hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp và điều
kiện cụ thể của từng môn học.
8
- Xác định rõ các nội dung giáo dục kỹ năng sống (xác định rõ các kỹ năng sống cần
hình thành và phát triển cho học sinh) để tích hợp vào nội dung của hoạt động giáo dục.
- Tạo ra động lực cho học sinh, làm cho học sinh tham gia một cách tích cực vào quá
trình hình thành kỹ năng sống nói chung và kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng ra quyết
định, kỹ năng tự nhận thức về bản thân, kỹ năng ứng phó với cảm xúc
2. Đảm bảo thực hiện tốt các nguyên tắc giáo dục kỹ năng sống:
Kỹ năng sống là những kỹ năng tâm lý – xã hội cơ bản giúp cho cá nhân tồn tại và
thích ứng trong cuộc sống, giúp cho cá nhân vững vàng trước cuộc sống có nhiều thách
thức nhưng cũng nhiều cơ hội trong thực tại… Kỹ năng sống đơn giản là tất cả điều cần
thiết chúng ta phải biết để có được khả năng thích ứng với những thay đổi diễn ra hằng
ngày trong cuộc sống.
Vì thế giáo viên cần nắm rõ nắm rõ 5 nguyên tắc về giáo dục kĩ năng sống cho học
sinh. :
+ Tương tác: các kĩ năng thương lượng, kĩ năng giải quyết vấn đề … được hình thành
tốt trong quá trình HS tương tác với bạn bè và những người xung quanh. Tạo điều kiện để
các em có dịp thể hiện ý kiến của mình và xem xét ý kiến của người khác Do vậy GV
cần tổ chức các hoạt động có tính chất tương tác trong các hoạt động giáo dục ngoài giờ
lên lớp để giáo dục kỹ năng sống cho các em.
+ Trải nghiệm: Cần phải có thiết kế và tổ chức hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp
cho HS được hoạt động thực, có cơ hội thể hiện ý tưởng, có cơ hội xử lí các tình huống
cũng như phản biện…Kỹ năng sống chỉ được hình thành khi người học trải nghiệm qua
thực tế và nó có kĩ năng khi các em được làm việc đó.
+ Nguyên tắc tiến trình và nguyên tắc thay đổi hành vi: Giáo viên không thể giáo dục
kỹ năng sống trong một lần mà kỹ năng sống là một quá trình từ nhận thức- hình thành
thái độ- thay đổi hành vi. Thay đổi hành vi của một con người đặc biệt hành vi tốt là quá
trình khó khăn. Do vậy giáo dục kỹ năng sống không thể là ngày một ngày hai mà phải là
cả một quá trình.

+ Thời gian và môi trường giáo dục: Giáo dục giáo dục kỹ năng sống được thực hiện
mọi lúc mọi nơi; giáo dục kỹ năng sống được giáo dục trong mọi môi trường như gia
đình, nhà trường, xã hội; cần phải tạo điều kiện tối đa cho HS tham gia vào các tình
huống thật trong cuốc sống.
Do đó trong quá trình tổ chức hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh phải đảm
bảo thực hiện tốt các nguyên tắc của giáo dục.
9
3. Phát huy vai trò, tác dụng và hiệu quả của hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho
học sinh:
Hoạt động giáo dục kỹ năng sống là hoạt động được tổ chức theo mục tiêu, nội dung,
chương trình dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Bản chất của hoạt động này là thông qua
các loại hình hoạt động, các mối quan hệ nhiều mặt, nhằm giúp người học chuyển hoá
một cách tự giác, tích cực tri thức thành niềm tin, kiến thức thành hành động, biến yêu
cầu của nhà trường thành chương trình hành động của tập thể lớp học sinh và của cá nhân
học sinh, tạo cơ hội cho học sinh trải nghiệm tri thức, thái độ, quan điểm và hành vi ứng
xử của mình trong môi trường an toàn, thân thiện có định hướng giáo dục. Thông qua
hoạt động giáo dục kỹ năng sống có thể giúp học sinh sống một cách an toàn , khoẻ mạnh
có khả năng thích ứng với biến đổi của cuộc sống hàng ngày. Rèn luyện cho học sinh các
kỹ năng cơ bản phù hợp với lứa tuổi như : kỹ năng giao tiếp ứng xử có văn hoá; kỹ năng
tổ chức quản lý và tham gia các hoạt động tập thể với tư cách là chủ thể của hoạt động;
kỹ năng tự kiểm tra, đánh giá kết quả học tập, rèn luyện; củng cố, phát triển các hành vi,
thói quen tốt trong học tập, lao động và công tác xã hội. Bồi dưỡng thái độ tự giác tích
cực tham gia các hoạt động tập thể và hoạt động xã hội; hình thành tình cảm chân thành,
niềm tin trong sáng với cuộc sống, với quê hương đất nước; có thái độ đúng đắn đối với
các hiện tượng tự nhiên và xã hội. Như vậy, hoạt động giáo dục kỹ năng sống thực sự cần
thiết. Do đó cần phát huy tối đa vai trò, tác dụng và hiệu quả của hoạt động giáo dục kỹ
năng sống cho học sinh.
IV/ Một số biện pháp cụ thể
Chúng ta có thể thấy rằng giáo dục kỹ năng sống là điều cần thiết cho mọi người, mọi
lứa tuổi. Đặc biệt là đối với lứa tuổi học sinh Tiểu học điều này càng cần thiết vì các em

đang ở lứa tuổi bắt chước người lớn. Giáo dục kỹ năng sống là việc cần được tiến hành
thường xuyên, liên tục, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi, hoàn cảnh, hoạt động
của từng loại đối tượng cụ thể. Việc giáo dục kỹ năng sống trong trường học có thể tiến
hành theo những phương án sau:
1. Xây dựng môn học giáo dục kỹ năng sống đưa vào chương trình giảng dạy của nhà
trường.
2. Lồng ghép các nội dung giáo dục kỹ năng sống vào các môn học có ưu thế và các
hoạt động giáo dục khác của nhà trường.
3. Tích hợp nội dung giáo dục kỹ năng sống vào các môn học, vào các hoạt động giáo
dục khác.
4. Thường xuyên tổ chức cho học sinh chơi các trò chơi tập thể lành mạnh, chơi các
trò chơi dân gian, tổ chức các hoạt động văn nghệ thể thao, qua các hoạt động rèn cho
10
học sinh kĩ năng ứng xử với bạn bè, xây dựng tinh thần đoàn kết tốt, kỹ năng lắng nghe,
kỹ năng hợp tác, kỹ năng quyết định, biết kiềm chế bản thân trong khi xử lí các tình
huống với bạn bè.
5. Tổ chức hoạt động ngoại khoá chuyên đề “Giáo dục kỹ năng sống cho HS”, tạo
cho HS một sân chơi để HS được thực hành kỹ năng sống, được giao lưu, được tư vấn về
kỹ năng sống để hiệu quả rèn kỹ năng sống cho học sinh được nâng lên gắn liền với thực
tế cuộc sống.
6. Tổ chức các hoạt động lao động vừa sức với học sinh: vệ sinh sân trường, lớp học,
trồng chăm sóc cây trên sân trường, bồn hoa, vườn trường, ; học sinh được rèn một số kỹ
năng như: cầm chổi quét, hót rác, tưới cây, tỉa lá, ; thông qua đó HS biết sử dụng có hiệu
quả đồ dùng lao động.
7. Giáo viên không chỉ nhằm hình thành những khái niệm khoa học, cách làm việc trí
óc mà còn hướng dẫn tới sự tạo dựng phát triển các nhân cách của học sinh. Đặc biệt trẻ
tiểu học thường hay bắt chước người lớn và rất tin tưởng ở các thầy giáo, cô giáo. Vì vậy,
mỗi giáo viên cũng phải luôn thường xuyên tự rèn kỹ năng sống, luôn thể hiện là tấm
gương trong sáng, mẫu mực cho học sinh noi theo.
8. Giáo viên cần thực hiện tốt đổi mới phương pháp dạy học để phát huy tính tích

cực chủ động sáng tạo của học sinh (VD: sử dụng phương pháp thảo luận nhóm, phương
pháp gợi mở, nêu vấn đề, phương pháp đóng vai, ; biết lựa chọn phối kết hợp linh hoạt
các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học.); qua các hoạt động học tập, học sinh
được rèn các kỹ năng phân tích, tổng hợp, tư duy sáng tạo, hợp tác theo nhóm, kỹ năng
đánh giá, kỹ năng hợp tác trong nhóm, kỹ năng xử lý tình huống,
9. Mở các lớp tập huấn nhằm giới thiệu, nâng cao nhận thức, hiểu biết và ý thức rèn
kỹ năng sống cho giáo viên, phụ huynh, cộng đồng và học sinh.
10. Tổ chức các nói chuyện chuyên đề cho giáo viên, phụ huynh, cộng đồng và học
sinh.
11. Tổ chức các buổi sinh hoạt tập thể, hoạt động dã ngoại.
12. Tổ chức tốt các hoạt động xã hội, hoạt động đoàn thể (Đội thiếu niên tiền phong
Hồ Chí Minh).
11
KẾT QUẢ, TRIỂN VỌNG NGHIÊN CỨU CỦA SÁNG KIẾN:
- Trong thời gian công tác tại trường TH Đổng Xá tôi đã điều tra nghiên cứu và thử
áp dụng thực tế đã được các động nghiệp trong trường đồng tình ủng hộ. Kết quả cho
thấy HS ngoan hơn, tự giác chủ động, mạnh dạn hơn, đã thể hiện được cách xử lý trong
ứng xử khá phù hợp.
- Khảo sát: HS lớp 1 Trường chính năm học 2012-2013:
TSHS
Tự mặc quần áo Tự giác ngồi học bài ở nhà
Tự mình mặc
quần áo
Cần người lớn
giúp mặc quần
áo
Tự giác không
cần nhắc nhở
Chưa tự giác,
bố mẹ phải

nhắc nhở nhiều
SL % SL % SL % SL %
15 11 73,3 4 26,7 13 86,7 2 13,3

- Khảo sát lớp 2 Trường chính năm học 2012-2013: Nội dung khảo sát: Thảo luận
nhóm . Khảo sát qua quan sát HS thực hành thảo luận nhóm trong một số tiết Đạo đức.
TSHS
Thực hành thảo luận nhóm
Biết cách lắng nghe, hợp tác Chưa biết cách lắng nghe, hay
tách ra khỏi nhóm
SL % SL %
17 14 82,4 3 17,6
12
- Khảo sát lớp 5 Nà Thác năm học 2012-2013: Nội dung khảo sát: ứng xử với bạn khi
chơi các trò chơi dân gian tập thể. Khảo sát qua quan sát thực tế, kết hợp với GVCN,
TPTĐ đánh giá HS:
TSHS
Ứng xử tình huống trong chơi trò chơi tập thể
Biết cách ứng xử hài hoà khá
phù hợp
Hay cãi nhau, xô đẩy bạn khi
chơi
SL % SL %
17 15 88,2 2 11,8
- Sau sáng kiến kinh nghiệm này tôi dự định sẽ tiếp tục nghiên cứu để thiết kế thêm
hình thức và tìm thêm biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho HS được phong phú hơn.
C. PHẦN KẾT LUẬN
Từ thực tiễn tổ chức hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh ở trường Tiểu học
Đổng Xá chúng ta đã có thể rút ra một số kết luận sau đây:
1. Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua các hoạt động, để học sinh tự cảm

nhận, đánh giá, nhận xét qua các hành vi và từ đó hình thành các kỹ năng; thực hiện sự
phối hợp trong và ngoài nhà trường làm tốt công tác xã hội hoá trong việc giáo dục kỹ
năng sống cho học sinh.
2. Giáo dục kỹ năng sống trong trường học góp phần rèn luyện, hình thành cho học
sinh sống có trách nhiệm hơn và biết lựa chọn cách ứng xử phù hợp, ứng phó với các sức
ép, thách thức trong cuộc sống; thúc đẩy hành vi mang tính xã hội, giảm bớt tỷ lệ phạm
pháp.
3. Giáo dục kỹ năng sống còn tạo mối quan hệ thân thiện, cởi mở giữa thầy, trò, sự
hứng thú tự tin, chủ động sáng tạo trong học tập, nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục.
Học sinh được giáo dục kỹ năng sống xác định được bổn phận và nghĩa vụ của mình đối
với bản thân, gia đình và xã hội.
4. Giáo dục kỹ năng sống còn cần đến vốn sống, tình thương và nhân cách của người
thầy. Học sinh học kiến thức ở thầy trước hết là ở tấm gương sống của người thầy. Vì
vậy, để học sinh không thất vọng vì thầy thì trước hết “mỗi thầy cô giáo là một tấm
gương đạo đức, tự học và sáng tạo” mà ngành Giáo dục đang vận động.
13
5. Giáo dục kỹ năng sống cần cho suốt cả cuộc đời và luôn luôn được bổ sung, nâng
cấp để phù hợp với sự thay đổi của cuộc sống biến động. Người trưởng thành cũng vẫn
cần học kỹ năng sống.
6. Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh không phải là công việc “một sớm, một chiều”
mà đòi hỏi phải có quá trình, kiên nhẫn và bằng cả tâm huyết và ở mọi lúc, mọi nơi, thực
hiện càng sớm càng tốt đối với trẻ em. Kỹ năng sống rất đa dạng và mang đặc trưng
vùng, miền đòi hỏi người giáo viên phải vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo cho phù
hợp với nhu cầu, trình độ của học sinh và đặc điểm, hoàn cảnh của nhà trường, địa
phương.
7. Giáo dục kỹ năng sống không phải chỉ là công việc của giáo viên, nhà trường mà
của cả xã hội, cộng đồng, có như vậy mới mong đào tạo ra được những thế hệ trẻ phát
triển toàn diện, chuẩn bị tốt cho việc thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và
hội nhập quốc tế.
Trên đây chỉ là sáng kiến kinh nghiệm được rút ra từ thực tiễn quá trình tổ chức thực

hiện "Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Tiểu học" ở trường chúng tôi. Tuy nhiên do
năng lực bản thân nên chắc chắn rằng sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong
nhận được sự đóng góp ý kiến và bổ sung thêm của các đồng nghiệp.
Xin trân thành cảm ơn!
14

×