SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
"MỘT SỐ BIỆN PHÁP GÓP PHẦN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
HỌC SINH GIỎI MÔN NGỮ VĂN KHỐI THPT THUỘC ĐỊA BÀN
MIỀN NÚI"
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1. “Văn học là nhân học”, “Học văn là học làm người”, “Nghề dạy học là nghề cao
quý nhất”, “Thầy cô là kỹ sư tâm hồn”… Những ý kiến trên đem lại cho người dạy văn,
học văn bao nhiêu tự hào thì cũng đặt lên vai chúng ta bấy nhiêu đòi hỏi về trách nhiệm.
Dạy văn, học văn vốn đã không đơn giản, giờ đây trước cơn bùng phát của công nghệ
thông tin, trước cơn bão táp của văn hoá nghe nhìn thì vấn đề càng trở nên khó khăn hơn.
Ngày nay, học sinh học văn (theo nghĩa là được gia đình định hướng học các khối có
môn Ngữ văn, hoặc bản thân chịu học, muốn học môn học này) đã hiếm, học sinh yêu
thích và học giỏi văn càng hiếm, hiếm hơn nữa là ở một số huyện miền núi nghèo như
Thường Xuân! Ấy vậy mà không phải khi nào có “của hiếm” trong tay, người thầy, người
cô dạy văn chúng ta cũng có thể phát huy tận độ tài năng và tâm huyết để hỗ trợ, giúp các
em thành những viên ngọc sáng!
1.2. Là giáo viên văn nhiều năm giảng dạy, được trực tiếp tham gia bồi dưỡng học sinh
giỏi (HSG) qua một số năm học, chúng tôi hiểu sự tự hào, niềm hạnh phúc cũng như
những khó khăn, vất vả, nhọc nhằn của công việc này. Tìm được học sinh có tố chất rồi,
người thầy phải nỗ lực tìm tòi, sáng tạo để nhân lên tình cảm của các em với bộ môn, bồi
dưỡng các em thành HSG thực thụ và được ghi nhận- Một áp lực không hề nhỏ.
1.3. Phương pháp dạy học văn trong những năm gần đây đã trở thành vấn đề được giới
chuyên môn và xã hội quan tâm, vấn đề dạy thế nào để học sinh có hứng thú và được
phát huy trong những giờ văn, làm thế nào để nâng cao chất lượng đài trà, làm thế nào để
2
học sinh đạt kết quả tốt nghiệp cao…Công tác bồi dưỡng HSG cũng đã được quan tâm,
nhưng vẫn còn quá it, vấn đề bồi dưỡng HSG ở miền núi, vùng đặc biệt khó khăn dường
như vẫn còn rất nhiều khoảng trống.
1.4. Bồi dưỡng HSG là nhiệm vụ vinh quang và là trách nhiệm nặng nề. Đảm nhiệm
nhiệm vụ ấy chúng tôi có nhiều băn khoăn: từ chọn đồi tuyển, lên chương trình, nội dung
và phương pháp thực hiện… Bằng sự nỗ lực tìm tòi, học hỏi, trao đổi với các thầy cô
trong trường ĐH và các đồng nghiệp ở các trường THPT, từ thực tiễn trải nghiệm với cả
những thành công và thất bại của bản thân và đồng nghiệp. Tôi mong muốn chia sẻ một
số kinh nghiệm về công tác này.
Những lí do trên đã thôi thúc tôi mạnh dạn viết sáng kiến kinh nghiệm với đề tài :
Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ Văn
khối THPT thuộc địa bàn miền núi.
Với mong muốn là được chia sẻ, trao đổi kinh nghiệm, học tập lẫn nhau, hy vọng
bản sáng kiến kinh nghiệm này sẽ giúp ích ít nhiều cho các giáo viên khác khi bắt tay vào
công việc nặng nề : Bồi dưỡng học sinh giỏi Văn THPT, đặc biệt ở khu vực miền núi,
vùng đặc biệt khó khăn. Rất mong đón nhận được nhiều ý kiến góp ý từ các đồng nghiệp.
2. ĐÓNG GÓP CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
SKKN lần đầu tiên đưa ra một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng bồi dưỡng
HSG Ngữ văn ở khu vực miền núi.
SKKN nêu quan điểm cần mạnh dạn cho phép học sinh được tham gia nghiên cứu,
được “đóng vai” Thầy cô giáo nhằm thúc đẩy ở các em tư duy tích cực, phương pháp học
tập khoa học.
3
SKKN có thể là một tài liệu hỗ trợ giáo viên mới ra trường hoặc chưa nhiều kinh
nghiệm bồi dưỡng HSG, đặc biệt hữu ích với những giáo viên công tác tại miền núi được
đảm trách nhiệm vụ bồi dưỡng HSG.
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ TÌNH HÌNH THỰC TIỄN CÔNG TÁC BỒI DƯỠNG HỌC
SINH GIỎI MÔN NGỮ VĂN Ở TRƯỜNG THPT
1.1 CỞ SỞ LÍ LUẬN
Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi là một nhiệm vụ rất quan trọng, đầy những khó
khăn, bởi vì học sinh giỏi là những học sinh có tố chất đặc biệt khả năng cảm thụ, khả
năng tư duy và nhất là khả năng viết. Người giáo viên phải có quá trình tích lũy kinh
nghiệm, sự chuẩn bị và đầu tư nhiều hơn để có thể đạt hiệu quả và thuyết phục học sinh
,làm cho các em thực sự hứng thú và tin tưởng.
1.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN- TÌNH HÌNH BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI MÔN NGỮ
VĂN Ở TRƯỜNG THPT CẦM BÁ THƯỚC
1.2.1 Thuận lợi:
- Các yếu tố chủ quan có ảnh hưởng tích cực tới đề tài:
+ Bản thân là giáo viên có nhiều năm kinh nghiệm giảng dạy và nghiên cứu, tôi có nhiều
thời gian tìm tòi, đọc các tác phẩm văn học, tham khảo nhiều tài liệu, các sách báo khác
4
qua nhiều chương trình phổ thông khác nhau, từ cải cách qua phân ban, từ chương trình
chuẩn đến chương trình nâng cao suy ngẫm và chắt lọc về chuyên môn, giúp ích cho
việc dạy bồi dưỡng học sinh giỏi.
+ Đam mê tích lũy được nhiều đề thi học sinh giỏi trong tỉnh, các đề học sinh giỏi ở các
tỉnh khác và đề thi học sinh giỏi olimpic khu vực và học sinh giỏi quốc gia,.v.v có ghi
chép và cập nhật thường xuyên.
+ Bản thân được tham gia các lớp tập huấn, các hội nghị về bồi dưỡng học sinh giỏi ở
nhiều cấp khác nhau; có năm được Sở Giáo dục và Đào tạo cử tham gia ra đề thi học
sinh giỏi vòng tỉnh. Nhiều năm tham gia bồi dưỡng đội tuyển học sinh giỏi từ đó rút ra
được những kinh nghiệm cần thiết về kiến thức, phương pháp làm bài áp dụng vào quá
trình bồi dưỡng.
Yếu tố khách quan ảnh hưởng tích cực đến vấn đề liên quan đến đề tài:
+ Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi (HSG) các môn văn hóa là một công tác mũi nhọn
trong việc nâng cao chất lượng giáo dục, tạo nguồn lực, bồi dưỡng nhân tài cho nhà
trường nói riêng, cho ngành giáo dục tỉnh nhà nói chung. Các trường THPT đã xác định
rõ vai trò của công tác giảng dạy và bồi dưỡng học sinh giỏi các khối lớp nên đã đề ra kế
hoạch và phân công cụ thể ngay từ đầu năm học.
+ Bản thân bộ môn Văn là một bộ môn quan trọng, có một vị trí đặc biệt trong trường
phổ thông, ảnh hưởng đến việc xếp loại học lực của học sinh. Môn Văn còn là một bộ
môn nghệ thuật, có sức hấp dẫn riêng nếu chúng ta biết khai thác để tạo hứng thú cho học
sinh.
+ Tuy trường ở địa bàn miền núi xa xôi, thuộc huyện nghèo, đặc biệt khó khăn nhưng
được Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh trang bị tài liệu sách báo tham khảo ở thư viện, mạng
5
internet khá đầy đủ để học sinh và giáo viên tham khảo, nghiên cứu một cách thoải mái,
dễ dàng.
+ Ban giám hiệu, lãnh đạo nhà trường có sự quan tâm, động viên sâu sắc đúng mức đến
công tác bồi dưỡng học sinh giỏi. Các thầy cô đồng nghiệp trong tổ, trong trường tích cực
ủng hộ.
+ Quý phụ huynh học sinh đồng tình và tạo điều kiện, khuyến khích con em theo học bồi
dưỡng. Một số học sinh có năng khiếu cũng tích cực tham gia đội tuyển và chuyên chăm
trong việc rèn luyện
1.2.2. Khó khăn:
- Về chủ quan: Bản thân là phụ nữ điều kiện gia đình còn nhiều vấn đề khó khăn, thời
gian eo hẹp, đòi hỏi phải vất vả sắp xếp cho việc bồi dưỡng.
- Về khách quan :
+ Trong điều kiện hiện nay, quan niệm của xã hội nói chung về việc học bộ môn Văn còn
một số sai lệch, tồn tại, ảnh hưởng đến tinh thần học tập và sự quan tâm của đại đa số học
sinh, không thuận lợi cho việc chọn lựa và thành lập đội tuyển.
+ Về phía học sinh, ngoài vấn đề năng khiếu do học chương trình chính khóa phải học
quá nhiều môn, cộng thêm chương trình bồi dưỡng HSG thành thử rất hạn chế về thời
gian tự học nên các em đầu tư ít thời gian cho việc học bồi dưỡng HSG, do đó kết quả
chưa như mong muốn. Nhiều học sinh giỏi một lúc nhiều bộ môn có ý thức coi nhẹ môn
Văn, có học sinh không được chọn vào đội tuyển các môn tự nhiên, môn ngoại ngữ mới
chịu vào đội tuyển Văn. Ngoài ra áp lực thi ĐH cũng khiến không ít em học sinh lo ngại
khi tham gia đội tuyển, động lực chưa rõ, quyết tâm đoạt giải của các em chưa cao.
6
+ Từ phía người thầy, đa số giáo viên dạy bồi dưỡng vừa phải bám sát việc thực hiện theo
phân phối chương trình, phải bảo đảm chất lượng đại trà, vừa phải hoàn thành chỉ tiêu
chất lượng mũi nhọn và công tác kiêm nhiệm do đó cường độ làm việc quá tải và việc
đầu tư cho công tác bồi dưỡng HSG cũng có phần bị hạn chế (người thầy không có điều
kiện đầu tư về chiều sâu trong giờ giảng, thời gian tập trung bồi dưỡng cũng không
nhiều- thường được tính là 10 buổi)
Giáo viên dạy bồi dưỡng đều phải tự soạn chương trình dạy, theo kinh nghiệm của bản
thân, theo chủ quan, tự nghiên cứu, tự sưu tầm tài liệu.
Một số khó khăn khác đôi khi gặp phải là có giáo viên giỏi nhưng chưa thực sự
gắn bó với công tác bồi dưỡng HSG vì nhiều lý do khác nhau. Điều đó ảnh hưởng
không nhỏ đến chất lượng BDHSG cũng như kết quả của công tác này.
+ Thời gian bồi dưỡng tập trung ngắn, kinh phí chi cho công tác bồi dưỡng HSG không
nhiều
1.2.3. Sơ lược tình hình:
Trước khi thực hiện sáng kiến kinh nghiệm thì kết quả bồi dưỡng học sinh giỏi qua
một số năm học như sau:
Từ 2000-2008 mỗi năm có đội tuyển là 10 em nhưng số lượng đạt giải không nhiều,
thường là giải khuyến khích cấp tỉnh.
Từ 2009- nay, ở những khoá học được áp dụng thực hiện đề tài mỗi năm đội tuyển
cũng có 10 em nhưng số lượng đạt giải và chất lượng giải có tăng lên đáng kể. Kết quả có
sự phát triển rõ rệt, học sinh chủ động và lạc quan khi tham gia vào đội tuyển, học tập sôi
nổi có hứng thú và tin tưởng vào kết quả khi làm bài. Chủ động tích cực trong việc học
tập, nghiên cứu trong sự giúp đỡ hướng dẫn của giáo viên bồi dưỡng. Hàng năm, 10 em
7
tham gia vào đội tuyển của trường đều đạt kết quả rất khả quan. Đáng khích lệ hơn là số
lượng học sinh giỏi cấp tỉnh tăng rất nhiều so với trước đây và đặc biệt ở một ngôi trường
vùng núi và chất lượng đầu vào lớp 10 còn rất thấp lại có học sinh đạt giải nhì, giải ba.
CHƯƠNG 2
YÊU CẦU VÀ MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG
TÁC BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI NGỮ VĂN THPT
2.1. YÊU CẦU
2.1.1 Yêu cầu đối với giáo viên dạy bồi dưỡng môn Ngữ văn
- Muốn có HSG phải có Thầy giỏi vì thế người thầy phải luôn luôn có ý thức tự rèn
luyện, tích lũy tri thức và kinh nghiệm, trau dồi chuyên môn, luôn xứng đáng là “người
dẫn đường tin cậy” cho học sinh noi theo. Phải thường xuyên tìm tòi các tư liệu, có kiến
thức nâng cao trên các phương tiện, đặc biệt là trên mạng internet. Lựa chọn trang Web
nào hữu ích nhất, tiện dụng nhất, tác giả nào hay có các chuyên đề hay, khả quan nhất để
sưu tầm tài liệu…
- Giáo viên dạy bồi dưỡng đều phải tự soạn chương trình dạy, theo kinh nghiệm của bản
thân, theo chủ quan, tự nghiên cứu, tự sưu tầm tài liệu. Cái có được lớn nhất mà bản thân
chúng tôi nhận thấy đó là tinh thần trách nhiệm, là sự nhiệt tình của các thầy cô giáo
trong suốt quá trình ôn tập. Thiết nghĩ, chúng ta cần coi bồi dưỡng đội HSG là nhiệm vụ
chung của tổ chuyên môn.
- Các thầy cô giáo giỏi, có kinh nghiệm cần xây dựng chương trình, nội dung, hệ thống
luyện tập cụ thể đầy đủ chi tiết, đúc kết kinh nghiệm thành tài liệu chung quý giá của nhà
8
trường qua các thế hệ, truyền đạt lại cho các lực lượng trẻ. Các thầy cô giáo trẻ cần tích
cực chủ động nghiên cứu, tìm tòi, khám phá, tận dụng công nghệ thông tin để tích luỹ
kiến thức nâng cao trình độ. Lấy nỗ lực của bản thân là chính, coi việc học hỏi vốn kiến
thức, kinh nghiệm của các thế hệ đi trước là quan trọng trong việc định hướng tìm tòi,
xác định trọng tâm kiến thức, kỹ năng, phương pháp
để đạt được hiệu quả cao trong thời gian ngắn nhất.
2.1.2. Yêu cầu đối với học sinh tham gia đội tuyển:
Theo quan điểm của đại đa số giáo viên giảng dạy Ngữ văn thì yêu cầu đối với một
HSG văn gồm nhiều yếu tố và tiêu chuẩn khá cao, cụ thể:
Học sinh tham gia đội tuyển học sinh giỏi văn trước hết phải là những học sinh có niềm
say mê, yêu thích văn chương. Sự say mê ấy phải được biểu hiện thường xuyên, liên tục
và bằng ý thức tự giác trong học tập, như soạn bài cẩn thận chu đáo, luôn chủ động tiếp
thu kiến thức trong giờ học, đặc biệt phải thể hiện rõ ý thức trách nhiệm trong các bài làm
văn theo quy định của chương trình và những bài luyện tập, thực hành rèn luyện kỹ năng
mà giáo viên hướng dẫn. Sự say mê sẽ giúp các em chịu khó tìm tài liệu để mở mang kiến
thức. Và quan trọng hơn là nó giúp học sinh phát huy được trí tưởng tượng, sự liên tưởng
để sống sâu sắc hơn với những cái mình đã đọc, đã học.
HSG văn là những học sinh có những tư chất bẩm sinh, như tiếp thu nhanh, có trí
nhớ bền vững, có khả năng phát hiện vấn đề và có khả năng sáng tạo (có ý tưởng mới
trong bài làm).
HSG văn phải có vốn tri thức phong phú và hệ thống, thuộc nhiều thơ văn trong và ngoài
chương trình qua sự tìm đọc, tích luỹ; phải có sự hiểu biết càng nhiều càng tốt về con
người và xã hội.
9
Một trong những biểu hiện không thể thiếu và thường dễ phát hiện ở HSG văn là rất
giàu cảm xúc và thường nhạy cảm trước mọi vấn đề, trước cuộc sống. Biểu hiện thường
thấy ở những học sinh này là dễ vui nhưng cũng rất dễ buồn trước những vấn đề đặt ra
trong tác phẩm và nhất là do sự tác động qua lời giảng của giáo viên. Thường thì đây là
những học sinh sống rất tình cảm, thích gần gũi với thầy cô, bạn bè và với mọi người,
hay bộc lộ quan điểm tình cảm và chiều sâu nội tâm của mình thông qua cách phát biểu
trực tiếp hoặc gián tiếp qua các bài viết. Sự nhạy cảm ở các em luôn gắn liền sự thông
minh và đó là sự thông minh của cả khối óc lẫn con tim.
HSG văn là những học sinh có vốn từ tiếng Việt khá dồi dào, biết sử dụng chính xác
chúng trong những trường hợp khác nhau. Thường những em HSG văn đều có khả năng
diễn đạt mượt mà, giàu cảm xúc, giàu hình ảnh, diễn đạt hàm súc và có bản sắc riêng.
Năng khiếu ở HSG văn thường đi kèm với các biểu hiện bên ngoài như ánh mắt sáng,
cách nói lưu loát, gãy gọn bởi ngôn ngữ diễn đạt là cái vỏ của tư duy. Một học sinh hay
nói lay, nói lặp, nói dài dòng mà lượng thông tin ít, khả năng lựa chọn ngôn ngữ trong
diễn đạt hạn chế quyết không thể là một học sinh có tư duy trong sáng và có năng
khiếu học văn. HSG văn thường là những học sinh nắm chắc các kỹ năng làm bài nghị
luận.
Tuy nhiên ở địa bàn miền núi, đặc biệt như trường THPT Cầm Bá Thước, với chất lượng
học sinh vào lớp 10 rất thấp, chúng tôi không thể đòi hỏi quá cao ở chất lượng học sinh
tham gia đội tuyển, yêu cầu đối với học sinh được chọn bồi dưỡng là có niềm say mê, yêu
thích văn chương, giàu cảm xúc, có khả năng sáng tạo.
10
2.2. MỘT SỐ BIỆN PHÁP THỰC HIỆN NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG
TÁC BỒI DƯỠNG HSG NGỮ VĂN
2.2.1. Xác định đối tượng bồi dưỡng ( thành lập đội tuyển)
- Chuẩn bị : Ngay từ đầu năm học, việc bồi dưỡng học sinh giỏi đã được đề ra như một
công tác trọng tâm của Tổ Văn, được ghi cụ thể trong bản kế hoạch năm học của Tổ. Vì
vậy, đây không chỉ là nhiệm vụ của riêng giáo viên được phân công bồi dưỡng, mà là
nhiệm vụ của cả Tổ đã được quán triệt đến mỗi giáo viên trong Tổ. Trong Học kì I, các
Giáo viên dạy Văn khối lớp 10 có nhiệm vụ điều tra (học sinh giỏi Văn ở cấp THCS
chuyển lên) và theo dõi trong những lớp mình dạy để tìm ra “những học sinh khá-giỏi
Văn” giới thiệu cho Giáo viên bồi dưỡng làm cơ sở thành lập đội tuyển.
- Tìm hiểu : Từ yêu cầu đối với học sinh tham gia đội tuyển (2.1.2) áp dụng vào thực tế,
sau khi thi xong Học kì I- lớp 10, Giáo viên bồi dưỡng tìm đọc những bài viết số 1,2,3 và
bài thi Học kì của những “ứng viên” mà Giáo viên bộ môn đã giới thiệu để thẩm định
năng lực, đồng thời căn cứ vào xếp loại học tập của Học kì I (loại Khá trở lên) để chọn ra
những học sinh có đủ điều kiện theo tiêu chuẩn và tiêu chuẩn riêng mang tính chất chủ
quan của Giáo viên bồi dưỡng (chữ đẹp, văn viết khá ).
- Gặp gỡ : Giáo viên bồi dưỡng chủ động sắp xếp thời gian gặp gỡ các em được chọn :
+ Tìm hiểu quan điểm cũng như cách học, cách tiếp nhận bộ môn Văn trong quá trình
học tập. Từ đó chỉ thu nhận những em học sinh có niềm đam mê, thích thú với bộ môn
Văn. Kiên quyết không đưa vào đội tuyển những em học sinh có cái nhìn lệch lạc về môn
Văn hoặc chán học Văn, cho dù đôi khi cái chán của học sinh bắt nguồn từ Giáo viên dạy
ở lớp.
11
+ Tìm hiểu hướng đi tương lai của các em, nhất là việc chọn khối thi vào trường Đại học
sau này. Không chọn những học sinh chỉ thi vào khối A, B mà chỉ chọn những học sinh
có nguyện vọng thi vào khối C, D
+ Trao đổi với các em được chọn về việc thành lập đội tuyển học sinh giỏi Văn để các em
biết, những thuận lợi và khó khăn trong quá trình tham gia đội tuyển để các em có cái
nhìn trước. Chỉ những em tự nguyện tham gia mới được đưa vào danh sách đội tuyển
chính thức của trường.
- Chốt danh sách đội tuyển của trường : Các tiêu chuẩn trên chú trọng đến chất lượng
của đội tuyển, không chú trọng số lượng, tuy nhiên để khích lệ cũng là tạo điều kiện cho
các em đội dự tuyển có thể chọn nhiều hơn. Danh sách đội tuyển được lọc dần qua các kỳ
thi HSG cấp trường. Danh sách đội tuyển chính thức sẽ được chốt trước kì thi 1 tháng.
Như vậy, có thể nói kinh nghiệm trong việc tuyển chọn và thành lập đội tuyển học sinh
giỏi Văn của Trường là :
. Công việc không của riêng ai, mà là công việc chung của cả Tổ. Tất nhiên trong đó Giáo
viên bồi dưỡng đóng vai trò chủ yếu.
. Chỉ chọn những học sinh có đủ các tiêu chuẩn sau : viết chữ đẹp, văn viết khá, học lực
chung được xếp loại khá trở lên, có niềm đam mê với Văn học, có hướng đi thi Đại học ở
2 khối C-D, tự nguyện tham gia đội tuyển.
2.2.2. Thời gian bồi dưỡng :
Sau khi có được đội tuyển, Giáo viên bồi dưỡng bắt tay ngay vào việc bồi dưỡng học
sinh giỏi. Thời gian bồi dưỡng được chia làm các giai đoạn :
- Giai đoạn khởi động - Giai đoạn khởi động sẽ chia hai chặng nhỏ:
12
+ Học kì II lớp 10, thời gian linh hoạt tùy theo thời khóa biểu học trên lớp của học sinh.
Số lượng buổi học và giờ học được Giáo viên và học sinh thỏa thuận sau mỗi buổi học.
Cố gắng ổn định được 1 buổi/ tuần (3 tiết x 15 tuần, 45 tiết)
+ Hè lớp 10, đây là thời gian tương đối rộng rãi đối với học sinh. Ngay từ cuối năm học,
Giáo viên tranh thủ sắp xếp giờ học cố định (tối thiểu mỗi tuần 1 buổi, 3 tiết x 8 buổi, 24
tiết) và giờ học linh hoạt cho học sinh- phù hợp với thời gian biểu hè của các em- nhưng
vẫn phải ưu tiên cho việc học bồi dưỡng, cố gắng được 1 buổi/ tuần ( tổng khoảng 20-30
tiết). Tổng thời gian ôn tập hè khoảng 50 tiết
- Giai đoạn tăng tốc- Giai đoạn tăng tốc cũng sẽ chia hai chặng nhỏ:
+ Năm học lớp 11:
~ Học kì I, đây là thời gian chạy nước rút, học sinh cần ưu tiên tối đa về thời gian cho
việc bồi dưỡng. (17 tuần x 2 buổi x 3 tiết = 102 tiết), qua giai đoạn này một số học sinh
có kết quả ôn luyện vượt trội đã có thể tham dự kì thi HSG cấp tỉnh.
~Khoảng thời gian còn lại của năm học, áp lực thi Đại học chưa lớn, các em vẫn có thể
ưu tiên cho việc bồi dưỡng (khoảng 15 tuần x2 buổi x3 tiết = 90 tiết)
+ Hè lớp 11: Tương tự như hè lớp 10, tuy nhiên lúc này lượng kiến thức đã rất nhiều, đòi
hỏi cô trò đều phải phát huy nhiệt tình, tâm huyết ( khoảng 70 tiết)
- Giai đoạn về đích- Giai đoạn này cũng sẽ chia thành các chặng:
+ Học kì I lớp 12, khoảng 17 tuần x 3 buổi x 3 tiết = 153 tiết, tiếp tục bổ sung kiến thức
và tăng cường thực hành.
+ Đầu học kì II, khoảng 4-5 tuần x 2 buổi x 3 tiết = 30 tiết(Thường thì giai đoạn này giáo
viên bồi dưỡng mới được tính thù lao), rà soát lại chương trình ôn, chuẩn bị về đích.
13
Tổng cộng thời gian bồi dưỡng của cả quá trình khoảng 500 tiết. Tuy không phải là
nhiều so với khối lượng kiến thức phải bồi dưỡng nhưng đủ để gây một áp lực khá nặng
nề, nhất là về mặt thời gian và công việc đối với cả cô và trò .
Kinh nghiệm rút ra về thời gian bồi dưỡng là :
. Không chờ đến đầu học kì II lớp 12 (giai đoạn có tính tiết thù lao) mới bồi dưỡng mà
phải bắt đầu ngay từ đầu học kì II năm lớp 10, sớm nhất có thể, liên thông suốt cả 3
năm học
. Thời gian linh hoạt, cho học sinh tự sắp xếp, không gò bó học sinh, nhưng phải bảo
đảm ưu tiên cho thời gian bồi dưỡng học sinh giỏi.
2.2.3. Địa điểm bồi dưỡng:
Địa điểm bồi dưỡng không nhất thiết phải là trong lớp học. Nơi phù hợp nhất là
khung cảnh ngoài trời, nơi thoáng mát như dưới bóng cây sân trường, trong công viên.
Giáo viên nên linh hoạt thay đổi điểm bồi dưỡng để tạo sự hứng thú và thoải mái cho học
sinh.
2.2.4. Nội dung, chương trình và cách thức bồi dưỡng :
Biên soạn chương trình, nội dung bồi dưỡng rõ ràng, cụ thể, chi tiết cho từng khối,
lớp, về từng mảng kiến thức theo số tiết quy định nhất định và nhất thiết phải bồi dưỡng
theo quy trình từ thấp đến cao, từ dễ đến khó để các em HS bắt nhịp dần.
Xác định rõ trọng tâm kiến thức giảng dạy cho từng khối lớp để tránh trùng lặp.
Chương trình bồi dưỡng cần có sự liên thông trong suốt 3 năm liền (từ lớp 10 đến lớp
12 )
14
Mỗi giáo viên bồi dưỡng và người tìm hiểu văn học đều có góc nhìn và cảm nhận
riêng. Vì lẽ đó, bên cạnh những cách thức bồi dưỡng đã trở thành truyền thống, SKKN
cũng đề xuất một số cách thức mới, hiệu quả cho công tác bồi dưỡng HSG Văn.
Về nội dung, chương trình và cách thức bồi dưỡng, chúng tôi xin trình bày ở chương
III
CHƯƠNG 3
NỘI DUNG, CHƯƠNG TRÌNH VÀ CÁCH THỨC BỒI DƯỠNG
NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
CÔNG TÁC BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI NGỮ VĂN THPT
3.1 MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ
Chúng tôi cho rằng việc dạy HSG phải luôn thực hiện được mục tiêu giáo dục- đó là
mục tiêu về kiến thức, kỹ năng, về tư tưởng tình cảm. Quá trình bồi dưỡng học sinh
chúng ta đang chú trọng việc nâng cao kiến thức và kỹ năng, nghĩa là hướng tới giúp học
sinh phát huy năng lực văn học (tiếp nhận và tạo lập) cụ thể học sinh cần có được:
- Khả năng nhìn nhận, đánh giá đúng đắn, sâu sắc các vấn đề xã hội
- Khả năng nhận biết và lí giải được cái hay, cái đẹp của tác phẩm văn học một cách tinh
tế, chính xác và có sức thuyết phục trong sự gắn bó giữa nội dung và hình thức nghệ
thuật.
- Chỉ ra được cái độc đáo, không lặp lại của tác phẩm được cảm nhận.
- Có những nhận xét, đánh giá mang màu sắc cá nhân, độc đáo, mới mẻ của người viết.
15
- Có kĩ năng viết bài văn hay
Như vậy có thể thấy rằng quá trình bồi dưỡng HSG sẽ là quá trình tổng hoà các
yếu tố nội dung, chương trình và cách thức bồi dưỡng gồm cung cấp kiến thức, hướng
dẫn tự học và rèn luyện kỹ năng
3.2. XÂY DỰNG NỘI DUNG, CHƯƠNG TRÌNH BỒI DƯỠNG
Để thực hiện mục tiêu bồi dưỡng HSG nói chung và bồi dưỡng HSG Ngữ văn
nói riêng, chúng ta gặp một số khó khăn lớn- đó là Bộ Giáo dục và Đào tạo chưa thể xây
dựng một chương trình giáo dục đặc biệt dành cho HSG, tài năng ở tất cả các môn học
trong đó có môn Ngữ văn. Vụ THPT có chăng mới chỉ ban hành Tài liệu trong Hội nghị
tập huấn giảng dạy dành cho cán bộ chỉ đạo hoặc một số ít giáo viên có học sinh chuẩn bị
tham gia kì thi HSG Quốc gia. Thành thử để bồi dưỡng HSG, mỗi trường, mỗi Tổ bộ
môn, mỗi GV lại xây dựng một chương trình riêng nên khó cho công tác bồi dưỡng cũng
như khó thống nhất trong một số tiêu chí lựa chọn, đánh giá HSG.
Vậy Bộ Giáo dục và Đào tạo cần xây dựng một chương trình giáo dục đặc biệt dành
cho HSG, tài năng. Chương trình này cần xây dựng theo quan điểm phát triển, được bổ
sung, điều chỉnh theo sự phát triển của khoa học và phù hợp với nhu cầu phát triển của
đất nước. Xây dựng chương trình ngoài các chuyên gia đầu ngành còn cần sự đóng góp
của các giáo viên đã và đang bồi dưỡng HSG cấp tỉnh, cấp Quốc gia.
Tuy nhiên, điều đó vẫn còn nằm trong mong mỏi của giáo viên, học sinh và trong khi
chờ đợi một chương trình như thế, mỗi giáo viên trực tiếp tham gia bồi dưỡng HSG cần
tự nghiên cứu, học hỏi và dựa vào cơ sở thực tế để xây dựng một chương trình cụ thể,
phù hợp.
16
3.2.1. Về kiến thức
a. Kiến thức xã hội
Kiến thức xã hội rộng vô cùng, chính vì thế mà sẽ không một giáo viên nào nên
tham vọng sẽ cung cấp cho học sinh đủ kiến thức xã hội- dù chỉ là cơ bản.
Vậy chương trình nên giúp các em biết cấu trúc chung dàn ý của các dạng bài nghị
luận về một tưởng đạo lí, một hiện tượng đời sống và nghị luận về một vấn đề xã hội
trong tác phẩm văn học ( chưa học, đã học), biết cách triển khai ý, cách lập luận và tìm
các phương thức biểu đạt cho bài văn nghị luận xã hội.
Giáo viên có thể cung cấp các dẫn chứng trong thực tế, trong lịch sử để phục vụ tốt cho
bài viết của học sinh trong quá trình làm bài.
b. Kiến thức văn học
Bao gồm:
- Kiến thức tác phẩm
- Kiến thức văn học sử
- Kiến thức lí luận văn học
- Kiến thức văn hoá tổng hợp
* Kiến thức tác phẩm: Rất nhiều, trong đó bắt buộc HS cần nắm kiến thức sách giáo
khoa, ngoài ra cần phải mở rộng kiến thức ngoài SGK.
- Yêu cầu:
+ Chọn lọc : Tác phẩm đạt trình độ cổ điển
+ Hệ thống:
17
Theo văn học sử
Theo đề tài
+ Chính xác : Câu chữ và chi tiết
Cách đọc mở rộng:
(Ảnh chụp màn hình slide10, slide11 bài giảng PowePoint Bồi dưỡng và đánh giá học
sinh giỏi môn Ngữ Văn theo chương trình mới của Gs.Ts Đỗ Ngọc Thống)
18
* Kiến thức văn học sử
- Nắm được vai trò và ý nghĩa của văn học sử
+ Hiểu sâu hơn tác phẩm ( tiếp nhận)
+ Viết dạng đề văn học sử tốt hơn ( tạo lập)
- Nắm được các dạng bài văn học sử
+ Tác phẩm lớn
+ Tác gia
+ Xu hướng / Giai đoạn ( thời kỳ)
+ Nền văn học
- Nắm được yêu cầu
+ Đặc điểm lịch sử và những tác động của chúng
+ Những tác giả và tác phẩm tiêu biểu
+ Đặc sắc nội dung và nghệ thuật lớn
+ Vai trò và tác dụng
* Kiến thức lí luận văn học
- Nắm được vai trò và ý nghĩa của LLVH
+ Hiểu sâu hơn tác phẩm ( tiếp nhận)
+ Viết dạng đề LLVH tốt hơn ( tạo lập)
- Nắm được các nội dung LLVH cơ bản
+ Một số khái niệm/ thuật ngữ văn học cơ bản
19
+ Một số vấn đề LLVH cơ bản
- Nắm được yêu cầu
+ Nội dung cơ bản của khái niệm/ vấn đề LLVH
+ Vai trò và ý nghĩa của khái niệm/ vấn đề LLVH ấy đối với người học/ người đọc
+ Vận dụng được trong tiếp nhận và tạo lập văn bản
* Một số vấn đề LLVH quan trọng
- Tác phẩm văn học: đặc trưng và cấu trúc
+ Đặc trưng : ngôn từ và lao động ngôn từ, tính đa nghĩa (polyphonie) và tính ổn định
(constant)
+ Cấu trúc: Nội dung và hình thức ( loại, thể…)
- Tiếp nhận và phân tích TPVH
+ Tiếp nhận và đọc-hiểu
+ Cảm nhận và phân tích
+ Những xu hướng cần tránh
- Các mối quan hệ trong văn học
+ Nội dung và hình thức, nhà văn- hiện thực cuộc sống và tác phẩm, dân tộc- cổ điển và
hiện đại, tâm và tài…
- Vai trò và tác dụng của văn học
- Phong cách văn học: tác phẩm, tác giả…
* Kiến thức văn hoá tổng hợp
- Nắm được vai trò của kiến thức văn hoá
20
+ Hiểu sâu hơn tác phẩm văn học ( tiếp nhận)
+ Viết bài văn tốt hơn ( tạo lập)
- Nắm được các nội dung cơ bản
+ Một số khái niệm cơ bản của các ngành nghệ thuật
+ Một số kiến thức cơ bản về lịch sử, địa lí, phong tục
+ Những hiểu biết về chính trị và đời sống xã hội
- Nắm được yêu cầu
+ Nội dung cơ bản của khái niệm/ kiến thức văn hoá
+ Vai trò và ý nghĩa của khái niệm/ kiến thức ấy đối với người học/ người đọc
+ Vận dụng được trong tiếp nhận và tạo lập văn bản
3.2.2. Về kĩ năng làm văn
- Tìm hiểu, phân tích đề
- Tìm ý, lập dàn ý
- Viết văn: +Diễn đạt
+Trình bày
a. Rèn luyện kĩ năng tìm hiểu, phân tích đề
Xét đến cùng, việc dạy HS làm bài, rèn luyện kỹ năng nghị luận văn học là một
trong những khâu quan trọng, ảnh hưởng quyết định đến kết quả thi HSG. Đây là khâu
yếu nhất của HS (kĩ năng phân tích đề, lập dàn ý, dựng đoạn, liên kết đoạn, đưa dẫn
chứng, phân tích dẫn chứng ).
21
Trước hết, trong thời gian bồi dưỡng, giáo viên cần cho học sinh làm quen với nhiều
dạng đề thi HSG, đặc biệt là những dạng đề có cách diễn đạt có thể gây ngộ nhận hoặc có
thể hiểu yêu cầu đề không thấu đáo. Chẳng hạn ở đề bài "Nét mới lạ về hình tượng
người lính qua bài Tây Tiến của Quang Dũng"
Học sinh khi phân tích đề đã nhận diện bản chất của đề rất khác nhau. Một số em cho
rằng yêu cầu của đề là chỉ ra nét độc đáo (lạ) của hình tượng người lính trong bài "Tây
tiến" trong toàn bộ thơ ca Việt Nam viết về người lính. Chỉ có một số ít là hiểu đúng và
hiểu trúng yêu cầu đề là phải chỉ ra những nét độc đáo nhưng phải "mới" (chứ không phải
là " khác lạ") trong cách cảm nhận và lối thể hiện hình tượng người lính của của QD.
Muốn đạt được yêu cầu đó, bài làm phải bám sát bài thơ Tây Tiến và những bài thơ viết
về người lính trong thơ ca VN trước đó và cùng thời (chứ không lấy dẫn chứng về
những bài thơ cùng viết về người lính ở cả những giai đoạn sau) .
Sau khi đã nhận diện đúng yêu cầu đề, việc xác định thao tác nghị luận chỉ cần củng cố
và hệ thống lại. Điều cần lưu ý với học sinh là dù đề thi HSG có yêu cầu hay không, học
sinh vẫn phải vận dụng nhiều thao tác nghị luận khác nhau trong một bài làm (Phân tích,
giải thích, chứng minh, bình luận, so sánh ). Điều quan trọng là xác định thao tác nào là
chính, thao tác nào là bổ trợ. Nắm chắc yêu cầu này, học sinh sẽ có cơ sở để xây dựng hệ
thống luận điểm hợp lý và khoa học cho bài viết. Thông thường, luận điểm chính của bài
viết thường nằm ở những thao tác chính. Đây cũng là trọng tâm của bài viết. Những thao
tác hỗ trợ thường gắn với những ý phụ, ý bổ sung, giúp cho nội dung bài viết hoàn chỉnh,
trọn vẹn.
Trong bước này các em cũng xác định những kiến thức cần huy động và huy động kiến
thức để làm bài.
b. Rèn kĩ năng tìm ý, lập dàn ý
22
- Bước đầu tiên trong rèn kỹ năng lập dàn ý, học sinh phải lập dàn ý sơ lược theo
yêu cầu:
+ Đề xuất được hệ thống luận điểm sẽ triển khai trong bài viết;
+ Xác định mối quan hệ giữa các luận điểm, tầm quan trọng của mỗi luận điểm trong
việc thể hiện các yêu cầu của bài
+ Sắp xếp các luận điểm theo trình tự chặt chẽ, khoa học.
- Để giúp học sinh thực hiện được yêu cầu trên, Gv cần hướng dẫn các em đặt hệ
thống câu hỏi và tự trả lời:
+ Câu hỏi tìm luận điểm: Yêu cầu trọng tâm của đề là gì? Vấn đề cần giải quyết có thể
triển khai ở những khía cạnh, phương diện nào?
+ Câu hỏi xác định quan hệ và vai trò của luận điểm: Những khía cạnh, phương diện ấy
quan hệ với nhau như thế nào? Phương diện nào thể hiện tập trung và rõ nét các yêu cầu
trọng tâm của đề?
+ Câu hỏi sắp xếp luận điểm: Các khía cạnh, nội dung cần nghị luận được trình bày như
thế nào là tối ưu nhất?
Những nội dung này học sinh được suy nghĩ trong vòng 25-30 phút, sau đó học
sinh sẽ trình bày ngắn gọn bằng hình thức nói (yêu cầu phải nói rõ căn cứ để nhận thức
đề, đề xuất luận điểm và sắp xếp ý). Cuối cùng giáo viên mới chữa hoàn chỉnh.
Chẳng hạn, với đề văn: Trong kiệt tác TKiều, Nguyễn Du viết:
"Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng".
23
Anh (chị) hiểu như thế nào về câu thơ trên? Bằng sự hiểu biết về Truyện Kiều và bài thơ
Độc Tiểu Thanh kí của ND, hãy làm sáng tỏ ý thơ trên.
Ở đề trên, học sinh cần đề xuất được các luận điểm chính sau:
- Giải thích ý nghĩa câu thơ của ND ("những điều trông thấy""? "Đau đớn lòng"? )
- "Nỗi đau đớn lòng" trước "những điều trông thấy" của ND được thể hiện như thế nào
trong Truyện Kiều và ĐTTK?
- Đánh giá về giá trị của Truyện Kiều, về nỗi niềm Nguyễn Du được thể hiện qua tác
phẩm của mình về sức sống của tác phẩm Nguyễn Du
Ở bước này, phần làm việc của học sinh ở nhà là tiếp tục viết thành văn phần mở,
kết bài và các câu, đoạn chuyển ý.
Kĩ năng này nếu được làm một cách ráo riết và nghiêm túc sẽ hình thành được ở
học sinh khả năng chủ động và độc lập tư duy trong học tập, khắc phục dần tình trạng học
sinh làm bài theo kiểu ngẫu hứng, nghĩ đến đâu viết đến đó, thậm chí làm bài xong
không biết mình viết gì. Tác dụng của khâu này là giúp các em khi đọc đề thi có thể
nhanh chóng hình thành hệ thống luận điểm, định hướng kiến thức cho bài trong một
khoảng thời gian ngắn (15-30 phút) đầu giờ; bài viết của các em sẽ đủ ý và mạch lạc. Đây
cũng là một trong những biểu hiện của tính khoa học ở một bài văn HSG .
Qua thực tế thấy rất rõ, các em trong đội tuyển HSG có khả năng nhận diện đề và
lập dàn ý khá nhanh và tự tin, có ý thức rõ rệt cần phải thiết lập hệ thống luận điểm trước
khi bắt tay vào viết bài.
c. Kĩ năng viết văn
- Diễn đạt:
+ Giọng văn biểu cảm
24
+ Dùng từ độc đáo, câu linh hoạt
+ Viết có hình ảnh: so sánh, ví von…
+ Chân thực, tránh sáo mòn, công thức
- Trình bày: Chữ viết, lề, tẩy xoá, trích dẫn…
Kĩ năng viết văn là kỹ năng quan trọng bởi nhận thức đề đúng, đề xuất luận điểm
hợp lý, có kiến thức phong phú chưa đủ. Muốn có một bài viết hay, học sinh phải biết
trình bày những hiểu biết, những rung động, suy nghĩ của mình một cách mạch lạc, sáng
sủa và có sức thuyết phục. Hơn nữa, việc đánh giá lại căn cứ vào chính bài viết của học
sinh.
Rèn kỹ năng viết văn cho học sinh, có thể tiến hành theo các hình thức:
- Viết thành văn một đoạn ý:
+Đoạn văn giải thích
+Đoạn văn chứng minh một luận điểm trong bài (thường là luận điểm chính); - Đoạn văn
bình luận nâng cao.
- Viết thành bài văn hoàn chỉnh ở nhà trên cơ sở dàn ý đã được giáo viên chữa (khoảng 2
bài /1 tuần).
- Viết thành bài văn hoàn chỉnh trên lớp trong thời gian quy định (180 phút). Yêu cầu
trước hết đối với học sinh là phải diễn dạt lưu loát rõ ý; chữ viết sạch sẽ, dễ đọc, không
mắc lỗi chính tả, dùng từ, viết câu. Từ đó nâng dần yêu cầu học sinh phải viết được
những đoạn văn hay, có cách dùng từ chính xác, sáng tạo, mới lạ, có giọng văn riêng, thể
hiện được dấu ấn, phong cách của người viết.
25