Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

Những điểm tiến bộ cơ bản của pháp luật tư sản so với pháp luật phong kiến

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (97.57 KB, 7 trang )

MỤC LỤC
Mục lục…………………………………………………………………………………………………1
A-Đặt vấn đề……………………………………………………………………………………………2
B-Giải quyết vấn đề…………………………………………………………………………………….2
I. Cơ sở lý luận …………………………………………………………………………………………2
II. Những điểm tiến bộ của pháp luật tư sản so với pháp luật phong kiến……………………………..2
1.Pháp luật phong kiến là pháp luật độc quyền và đẳng cấp còn pháp luật tư sản
quy định mọi công dân bình đẳng trước pháp luật……………………………………………………...2
2.Pháp luật tư sản bảo vệ chế độ sở hữu tư nhân, coi nó là thiêng liêng và bất khả xâm
phạm…………………………………………………………………………………………………….4
3.Pháp luật tư sản phát triển toàn diện, cân đối và đồng bộ hơn pháp luật phong kiến ………………..4
4.Pháp luật không những là công cụ để nhà nước quản lí xã hội mà còn là công cụ
để giám sát, hạn chế quyền lực của bộ máy nhà nước………………………………………………….4
5.Kĩ thuật lập pháp của pháp luật tư sản phát triển cao hơn so với pháp luật phong kiến……………...5
6.Pháp luật tư sản nhân đạo hơn với tính xã hội có xu hướng
rộng rãi và rõ rệt hơn………………………………………………………………………...................5
7.Sự ra đời của hiến pháp………………………………………………………………………………6
C-Kết bài……………………………………………………………………………………………….6
Danh mục tài liệu tham khảo…………………………………………………………………………7
1
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Tương ứng với kiểu nhà nước là một kiểu pháp luật đặc thù, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị.
Cuộc cách mạng tư sản nổ ra, Nhà nước tư sản ra đời cùng với nó là sự ra đời của pháp luật tư sản. Sự ra
đời của phápluật tư sản là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh giữa giai cấp tư sản với giai cấp địa chủ vì một
phương thức sản xuất mới bằng máy móc và một nền dân chủ mới dựa trên một xã hội công dân mà biểu
tượng cao nhất là Nhà nước tư sản. Pháp luật tư sản hội tụ đầy đủ các yếu tố được thừa nhận là kiểu pháp
luật mới, tiến bộ hơn hẳn so với các kiểu pháp luật trước. Trong bài nghiên cứu này chúng ta chỉ bàn luận về
vấn đề:
“Những điểm tiến bộ cơ bản của pháp luật tư sản so với pháp luật phong kiến”
Sự tiến bộ của pháp luật tư sản so với pháp luật phong kiến thể hiện ở nhiều mặt ở cả bản chất và
hình thức. Tuy nhiên, vì xét những điểm tiến bộ cơ bản mà ở bài này chúng em chỉ nghiên cứu về bản chất


tiến bộ của pháp luật tư sản so với pháp luật phong kiến.
B.GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I.CƠ SỞ LÝ LUẬN:
Cùng với sự ra đời của hai hình thái nhà nước: Nhà nước phong kiến và Nhà nước tư sản là sự xuất
hiện của hai kiểu pháp luật: Pháp luật phong kiến và Pháp luật tư sản. Để làm rõ vấn đề: “Sự tiến bộ của
pháp luật tư sản so với pháp luật phong kiến” chúng ta hãy đi từ cơ sở lý luận của nó dựa vào việc tìm hiểu
định nghĩa về “pháp luật phong kiến và pháp luật tư sản là gì?” từ đó giải quyết vấn đề.
1. Định nghĩa pháp luật phong kiến:
Pháp luật phong kiến là hệ thống các qui phạm pháp luật (các qui tắc) do Nhà nước phong kiến ban hành
(hoặc thừa nhận), trực tiếp thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích của giai cấp địa chủ phong kiến, là phương tiện
chủ yếu và hữu hiệu nhất để điều chỉnh các mối quan hệ cơ bản giữa người với người cũng như những nhu
cầu, lợi ích khác nhau trong xã hội phong kiến.
2. Định nghĩa pháp luật tư sản:
Pháp luật tư sản là hệ thống các qui phạm pháp luật ( các qui tắc ) có tính chất bắt buộc chung, do Nhà
nước tư sản ban hành ( hoặc thừa nhận ) và bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế, trực tiếp thể hiện
ý chí và bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản, là công cụ có hiệu lực nhất để điều chỉnh các quan hệ xã hôi chủ
yếu phù hợp với ý chí và lợi ích cơ bản của giai cấp tư sản.
II.NHỮNG ĐIỂM TIẾN BỘ CƠ BẢN CỦA PHÁP LUẬT TƯ SẢN SO VỚI PHÁP LUẬT PHONG
KIẾN:
1. Pháp luật phong kiến là pháp luật đặc quyền về đẳng cấp còn pháp luật tư sản quy định mọi công
dân bình đẳng trước pháp luật:
2
- Pháp luật phong kiến góp phần thiết lập và bảo vệ trật tự đẳng cấp trong xã hội thông qua việc phân chia
con người trong xã hội thành nhiều đẳng cấp khác nhau, thậm chí trong mỗi tổ chức, cộng đồng, gia đình
cũng đều có sự phân biệt về thứ bậc. Mỗi đẳng cấp, thứ bậc có địa vị pháp lý và địa vị xã hội rất khác nhau.
Ở các nước phương Đông, các quan hệ đẳng cấp ( vua – tôi, trên - dưới, cha – con, anh – em, chồng - vợ )
được quy định cụ thể trong pháp luật và được bảo vệ chặt chẽ. Pháp luật công khai tuyên bố cho các đẳng
cấp cao có những đặc quyền riêng nhất định phụ thuộc vào chức tước danh vị, nguồn gốc xuất thân… của
mỗi người. Ví dụ: như bộ luật Hồng Đức quy định tám hạng người có thể giảm hoặc miễn tội khi phạm tội,
trong đó chủ yếu là những người thuộc hoàng tộc hoặc những người có chức vụ cao trong xã hội.

- Pháp luật tư sản cùng với sự ra đời của nó đã bao hàm nhiều điểm tiến bộ hơn so với pháp luật phong
kiến trong lĩnh vực này:
+ Với sự ra đời của pháp luật tư sản lần đầu tiên trong lịch sử Pháp luật của nhân loại, nguyên tắc mọi công
dân bình đẳng trước pháp luật được thiết lập. Nó được ghi nhận trong Hiến pháp tư bản. Để thực hiện quyền
bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật, luật bầu cử của hầu hết các Nhà nước tư sản đều qui định mọi
công dân đến tuổi mà pháp luật qui định đều có thể tham gia bầu cử hoặc ứng cử vào nghị viện - cơ quan
lập pháp và các hội đồng địa phương. Mọi công dân vi phạm pháp luật đều bị xử lý theo pháp luật không
phụ thuộc đó là công dân bình thường hay người giữ chức vụ cao trong nhà nước. Nếu trong nhà nước
phong kiến “hình phạt không tới trượng phu, lễ nghi không tới thứ dân” thì trong Nhà nước tư sản tổng
thống - người đứng đầu nhà nước cũng có thể bị truy cứu trách nhiệm pháp lý. Ví dụ: Điều 2, khoản 4,
Hiến pháp Hoa Kỳ qui định: “Tổng thống, phó tổng thống và các quan chức dân sự hợp chủng quốc Hoa Kỳ
sẽ bị bãi nhiệm bằng thủ tục phế truất vì bị luận tội và buộc tội phản bội Tổ Quốc, tham ô hay những tội
danh sai trái ở những mức độ khác nhau”. Trong lịch sử hình thành và phát triển Nhà nước tư sản Hoa Kỳ
ba lần đương kim tổng thống đã bị xét xử bằng thủ tục sát hạch theo đó hạ nghị viện luận tội còn thượng
nghị viện xét xử. Một trong ba vị tổng thống đó là Richard Nixon đã phải xin từ chức trước thời hạn.
+ Không chỉ thế pháp luật tư sản qui định và bảo vệ quyền công dân và các quyền con người. Khác với
pháp luật phong kiến nơi mà các quyền công dân và quyền con người không được pháp luật ghi nhận và bảo
vệ, pháp luật tư sản ghi nhận trong Hiến pháp - đạo luật cơ bản của nhà nước các quyền cơ bản của công
dân và con người. Các quyền công dân và con người trong hiến pháp tư sản chia làm bốn nhóm là: các
quyền tự do cá nhân, các quyền kinh tế, các quyền về văn hóa xã hội, các quyền về chính trị.
+ Bên cạnh việc qui định các quyền pháp luật tư sản cũng qui định về các nghĩa vụ của công dân. Nghĩa
vụ bảo vệ tổ quốc được qui định là nghĩa vụ thiêng liêng của mỗi công dân, nghĩa vụ phục vụ quân đội
trong một thời gian và theo cách thức mà pháp luật qui định. Nghĩa vụ trung thành với tổ quốc, tôn trọng và
tuân thủ hiến pháp; pháp luật; nghĩa vụ đóng thuế. Nghĩa vụ của công chức thực hiện tròn bổn phận của
mình với danh dự của một công chức.
3
2. Pháp luật tư sản bảo vệ chế độ tư hữu tư nhân, coi nó là thiêng liêng và bất khả xâm phạm.
Quyền sở hữu là một trong những chế định hoàn thiện nhất của pháp luật tư sản.
- Bản tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền năm 1789 của Pháp đã khẳng định quyền sở hữu tư nhân là
thiêng liêng và bất khả xâm phạm. Chỉ khi cần thiết vì lợi ích chung sở hữu tư nhân mới buộc phải chuyển

thành sở hữu nhà nước với sự đền bù thỏa đáng. Hiến pháp của tất cả các nhà nước tư sản đã khẳng định lại
vấn đề này. Điều này chứng tỏ pháp luật tư sản đã đặc biệt coi trọng việc bảo vệ quyền sở hữu tư nhân việc
bảo vệ quyền sở hữu tư nhân có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Một mặt quyền bảo vệ sở hữu tư nhân trước
hết là bảo vệ tài sản cho giai cấp tư sản, giai cấp có nhiều tài sản nhất trong xã hội. Mặt khác bảo vệ quyền
sở hữu tư nhân cũng là bảo vệ những điều kiện tiên quyết để xây dựng một xã hội thịnh vượng. Trong một
xã hội lành mạnh, quyền sở hữu tư nhân cần phải được Nhà nước bảo vệ vì chú trọng điều kiện đó mới xây
dựng được một xã hội dân giàu nước mạnh.
-Ngược lại đối với pháp luật phong kiến thì quyền sở hữu là thuộc vể nhà nước mà cụ thể là vua. Mọi đất
đai hay con người… đều do vua cai trị và quản lý.
3. Pháp luật tư sản phát triển toàn diện cân đối và đồng bộ hơn pháp luật phong kiến.
- Nếu pháp luật phong kiến chỉ phát triển về luật hình sự mà không phải về mặt luật dân sự, chỉ phát triển
các thiết chế về Nhà nước mà không phát triển về các thiết chế về công dân thì pháp luật tư sản đã phát triển
toàn diện cả về dân sự lẫn hình sự, cả pháp luật điều chỉnh về bộ máy nhà nước, cả pháp luật điều chỉnh các
quan hệ của công dân. Hơn thế nữa trong xã hội tư bản do nền kinh tế thị trường phát triển trên luật thương
mại, luật kinh doanh, luật lao động, luật tài chính, luật ngân hàng, luật bảo hiểm xã hội rất phát triển tạo ra
một hệ thống pháp luật phát triển toàn diện, cân đối và đồng bộ. Chức năng kinh tế và chức năng xã hội của
nhà nước được tăng cường. Vì vậy, mà vai trò của pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ kinh tế và xã hội
cũng được tăng cường. Pháp luật tư sản không chỉ phát triển các nghành luật vật chất (Substantive law) mà
còn phát triển các nghành luật hình thức (Ajective law) như luật tố tụng hình sự, luật tố tụng dân sự, tố tụng
hành chính.
4. Điều đặc biệt, pháp luật không những là công cụ để Nhà nước quản lý xã hội mà còn là công cụ để
giám sát, hạn chế quyền lực của bộ máy nhà nước.
Có thể nói đây là đặc điểm cơ bản để phân biệt pháp luật phong kiến với pháp luật tư sản. Với
nguyên tắc phân chia quyền lực và kiềm chế đối trọng trong tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước,
pháp luật tư sản trở thành công cụ kiểm tra, giám sát và kiềm chế sự lạm dụng quyền lực trong tổ chức và
hoạt động của bộ máy nhà nước. Nếu trong Nhà nước phong kiến không có quy định nào hạn chế quyền lực
của nhà vua thì trong Nhà nước tư sản tổng thống hay vua đứng đầu nhà nước đều phải hoạt động trong
khuôn khổ quy định của hiến pháp và pháp luật. Thực tiễn là ở Hoa Kỳ cho thấy các cuộc điều trần và điều
4
tra của quốc hội đã đưa ra ánh sang các hành động sai trái của chính quyền. Ví dụ: vụ điều trần tổng thống

Richard Nixon vì vụ Watergate trước thượng viện năm 1974, vụ điều tra Iran – Contra năm 1987.
Quốc hội có thể sử dụng hiệu quả nhất quá trình giám sát đối với các cơ quan và các chương trình của
chính phủ thông qua quá trình chuẩn bị chi ngân sách. Bằng việc cắt giảm các khoản tiền, Quốc hội có thể
giải tán các cơ quan, cắt giảm các trương trình hoặc buộc các cơ quan phải cung cấp các thông tin mà nó yêu
cầu. Ở các nước theo chính thể Cộng hòa nghị viện (Italia, Đức…), Cộng hòa lưỡng tính (Pháp, Nga …),
quân chủ lập hiến (Anh, Nhật, Thụy Điển, Hà lan, Bỉ, Tây Ban Nha…) thì nghị viện có quyền bỏ phiếu
không tín nhiệm buộc chính phủ phải giải tán. Đây là cơ chế hữu hiệu mà hiến pháp đã tạo ra để hạn chế
quyền lực chính phủ.
5. Kĩ thuật lập pháp của pháp luật tư sản phát triển cao hơn so với pháp luật phong kiến
_Trong một thời gian khá dài nhà nước phong kiến thiếu một hệ thống pháp luật thống nhất trong phạm vi
toàn quốc, hầu như mỗi lãnh địa, mỗi địa phương đều có pháp luật của riêng mình và những quy định có
tính chất địa phương đó nhiều khi có hiệu lực thực tế cao hơn những quy định của pháp luật trung ương vì
thế tình trạng “phép vua thua lệ làng”, tình trạng thiếu những quy định thống nhất giữa các địa phương phổ
biến trong Nhà nước phong kiến.
-Ta thấy các bộ luật thời kỳ phong kiến thường là các bộ luật tổng hợp tất cả các quy phạm pháp luật hình
sự, dân sự, thương mại, đất đai lẫn hôn nhân và gia đình còn trong pháp luật tư sản các bộ luật được xây
dựng để điều chỉnh từng lĩnh vực quan hệ xã hội như bộ luật hình sự, bộ luật dân sự, bộ luật thương mai, bộ
luật tố tụng hình sự, bộ luật tố tụng dân sự, bộ luật đất đai, bộ luật hành chính, bộ luật bầu cử. Vai trò hệ
thống hóa và phép điển hình hóa pháp luật theo từng lĩnh vực riêng làm cho việc thực hiện, áp dụng pháp
luật thuận tiện hơn cho các cơ quan Nhà nước và các công dân.
6.Pháp luật tư sản đã thể hiện tính nhân đạo hơn so với pháp luật phong kiến:
+Trong pháp luật phong kiến mục đích hình phạt chủ yếu là gây đau đớn về mặt thể xác và tinh thần
cho con người, làm nhục, hạ thấp con người. Do vậy, trong xã hội phong kiến các quan hệ xã hội bị hình sự
hóa, nên pháp luật hình sự phong kiến được quan tâm chú ý và phát triển hơn cả. Trong các quy định của
pháp luật phong kiến các biện pháp: chặt đầu, treo cổ, dìm xuống nước, tùng xẻo…được áp dụng rộng rãi.
Ví dụ: Ở Việt Nam, Hoàng Việt luật lệ quy định các hình thức thi hành án tử hình là: Lăng trì (cắt, xẻo thịt
phạm nhân cho đến chết, róc thịt phạm nhân, móc mắt phạm nhân); trảm khiêu (chém bêu đầu); lục thi
(chém băm xác nạn nhân).
Pháp luật tư sản các quyền cơ bản của con người, sự nhân đạo hơn của pháp luật tư sản hiện nay so
với các kiểu pháp luật phong kiến ở chỗ nó không còn quy định những hình phạt và cách thi hành hình phạt

dã man, tàn bạo và hiện nay đã có 64 nước bỏ hình phạt này, những nước còn giữ hình phạt tử hình thì cũng
chỉ là cách ngồi trên ghế điện hoặc xử bắn. Nếu trong pháp luật phong kiến ngành luật hình sự giữ vị trí then
5

×