Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Bắt người trong tố tụng hình sự và việc hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp này

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.02 KB, 16 trang )

MỤC LỤC
Lời mở đầu………………………………………………………………………………...1
Nội dung …………………………………………………………………………………..1
I-Bắt người trong tố tụng hình sự ……………………………………………………….1
1. Khái quát chung …………………………………………………………………...1
2. Các trường hợp bắt người trong tố tụng hình sự ………………………………..2
3. Những việc cần làm ngay sau khi bắt hoặc nhận người bị bắt …………………8
II- Hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng
biện pháp bắt người trong tố tụng hình sự ………………………………………….9
1. Thực tiễn áp dụng các quy định về biện pháp bắt người
trong tố tụng hình sự……………………………………………………………….9
2. Một số kiến nghị để hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao
hiệu quả áp dụng biện pháp bắt người trong tố tụng hình sự………………….12
Kết luận ………………………………………………………………………………….14
Danh mục tài liệu tham khảo …………………………………………………………...15
1
LỜI MỞ ĐẦU
Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc đấu tranh phòng, chống tội phạm, pháp luật tố
tụng hình sự quy định cho cơ quan tố tụng được áp dụng nhiều biện pháp cưỡng chế khác
nhau trong đó có biện pháp ngăn chặn. Biện pháp ngăn chặn là biện pháp cưỡng chế mang
tính nghiêm khắc nhất nhằm mục đích ngăn chặn tội phạm, ngăn ngừa người có hành vi
phạm tội bỏ trốn hoặc có hành vi gây khó khăn cho quá trình giải quyết vụ án. Những biện
pháp ngăn chặn khi được áp dụng sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các quyền cơ bản của công
dân được ghi nhận trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác. Bắt người là một trong
những biện pháp ngăn chặn được quy định tại Chương VI Bộ luật tố tụng hình sự năm
2003. Đây là một biện pháp có ý nghĩ quan trọng, tác động trực tiếp đến một trong các
quyền nhân thân quan trọng nhất của con người được quy định trong Hiến pháp là quyền
tự do thân thể. Vì vậy việc bắt người cần phải có sự cân nhắc hết sức cẩn trọng khi quyết
định cũng như cần tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của pháp luật về đối tượng, thẩm
quyền áp dụng và trình tự, thủ tục tiến hành. Để hiểu rõ các quy định của pháp luật hiện
hành về việc bắt người cũng như thực tiễn áp dụng và phương hướng để nâng cao hiệu quả


áp dụng biện pháp này, em xin chọn đề tài: “Bắt người trong tố tụng hình sự và việc hoàn
thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp này”.
NỘI DUNG
I – Bắt người trong tố tụng hình sự
1. Khái quát chung.
Bắt người là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự được áp dụng đối với bị can,
bị cáo, người đang bị truy nã và trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang thì áp
dụng cả đối với người chưa bị khởi tố về hình sự nhằm kịp thời ngăn chặn hành vi phạm
tội của họ, ngăn ngừa họ trốn tránh pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều tra,
truy tố, xét xử và thi hành án hình sự.
1
1
Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2006, tr.204
2
Quyết định bắt người tác động trực tiếp đến quyền tự do về thân thể của công dân,
một trong những quyền nhân thân quan trọng nhất của con người được quy định trong
Hiến pháp. Vì vậy, cần phải có sự cân nhắc hết sức thận trọng khi quyết định việc bắt.
Bắt người trong tố tụng hình sự có ý nghĩa rất quan trọng. Việc bắt người đúng pháp
luật sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, ngăn chặn
kịp thời những hành vi phạm tội cũng như hành vi trốn tránh pháp luật, gây khó khăn cho
việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án được thuận lợi. Ngược lại, việc bắt người
không đúng pháp luật sẽ gây tác hại nhiều mặt như xâm phạm quyền tự do thân thể của
công dân, làm giảm uy tín của nhà nước và các cơ quan bảo vệ pháp luật, gây hoang mang
trong dư luận, dễ bị các thế lực phản động, thù địch trong và ngoài nước lợi dụng để xuyên
tạc nói xấu chế độ, chống lại nhà nước.
2. Các trường hợp bắt người trong tố tụng hình sự.
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn của cuộc đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm,
cũng như yêu cầu của việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và việc bảo đảm các
quyền dân chủ của công dân, kế thừa có chọn lọc các quy định về bắt người trong
BLTTHS năm 1988, BLTTHS năm 2003 quy định ba trường hợp bắt người sau:

- Bắt bị can, bị cáo để tạm giam;
- Bắt người trong trường hợp khẩn cấp;
- Bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã.
a/Bắt bị can, bị cáo để tạm giam (Điều 80 BLTTHS năm 2003)
Bắt bị can, bị cáo để tạm giam là bắt người đã bị khởi tố về hình sự hoặc người đã
bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử để tạm giam nhằm ngăn chặn bị can, bị cáo tiếp tục
phạm tội cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án
hình sự
2
- Về đối tượng và điều kiện áp dụng:
Đúng với tên gọi của điều luật là “Bắt bị can, bị cáo để tạm giam” thì đối tượng bị
bắt để tạm giam chỉ có thể là bị can hoặc bị cáo. Những người chưa bị khởi tố về hình sự
2
Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2006, tr.206
3
hoặc người chưa bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử không phải là đối tượng bắt để tạm
giam. Tuy nhiên việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam chỉ được áp dụng nếu xét thấy cần
thiết, không phải mọi bị can, bị cáo đều có thể hoặc cần bắt để tạm giam. Vì vậy cơ quan
tiến hành tố tụng thường căn cứ vào tính chất của tội phạm bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét
xử, các đặc điểm về nhân thân cũng như thái độ chấp hành pháp luật của bị can, bị cáo
trong quá trình giải quyết vụ án để xác định có cần thiết phải bắt bị can, bị cáo để tạm
giam hay không.
- Thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam:
Theo quy định tại khoản 1 Điều 80 BLTTHS quy định những chủ thể sau đây có
quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam:
Trong giai đoạn điều tra, việc bắt bị can để tạm giam do Thủ trưởng, Phó thủ trưởng
Cơ quan điều tra các cấp quyết định. Trong trường hợp này, lệnh bắt phải được Viện kiểm
sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Đây là một thủ tục pháp lý bắt buộc. Thời hạn
để Viện kiểm sát ra quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn lệnh bắt bị can để tạm
giam là ba ngày kể từ khi Viện kiểm sát nhận được công văn đề nghị xét phê chuẩn cũng

các tài liệu có liên quan.
Trong giai đoạn truy tố, việc bắt bị can để tạm giam do Viện trưởng, Phó viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện kiểm sát quân sự các cấp quyết định.
Trong giai đoạn xét xử, việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam do Chánh án, Phó Chánh
án Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp; Thẩm phán giữ chức vụ Chánh tòa, Phó
Chánh tòa Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao; Hội đồng xét xử quyết định.
- Thủ tục bắt bị can, bị cáo để tạm giam
Theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 BLTTHS thì:
Việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam phải có lệnh của người có thẩm quyền; lệnh bắt
phải ghi rõ ngày, tháng, năm, họ tên, chức vụ của người ra lệnh; họ tên, địa chỉ của người
bị bắt và lý do bắt. Lệnh bắt phải có chữ ký của người ra lệnh và có đóng dấu cơ quan.
Lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam phải bảo đảm yêu cầu pháp lý nêu trên mới có giá trị
thi hành.
4
Trước khi bắt, người thi hành lệnh phải đọc lệnh bắt và giải thích lệnh bắt, quyền và
nghĩa vụ cho người bị bắt nghe và phải lập biên bản về việc bắt người.
Khi tiến hành bắt người tại nơi cư trú của họ phải có đại diện của chính quyền xã,
phường, thị trấn và người láng giềng của người bị bắt chứng kiến. Khi tiến hành bắt người
tại nơi người đó làm việc phải có đại diện cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc chứng
kiến. Khi tiến hành bắt người tại nơi khác phải có sự chứng kiến của đại diện chính quyền
xã, phường, thị trấn nơi tiến hành bắt người.
Việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam không được tiến hành vào ban đêm trừ trường
hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang
b/Bắt người trong trường hợp khẩn cấp (Điều 81 BLTTHS 2003)
Bắt người trong trường hợp khẩn cấp là bắt người khi người đó đang chuẩn bị thực
hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng nhằm ngăn chặn kịp
thời hành vi phạm tội của họ hay bắt người sau khi thực hiện tội phạm mà người đó bỏ
trốn, cản trở việc điều tra, khám phá tội phạm.
3
- Đối tượng và điều kiện áp dụng:

Bắt người trong trường hợp khẩn cấp được áp dụng với những người đang chuẩn bị
thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng và người đã thực
hiện tội phạm có hành vi bỏ trốn, cản trở việc điều tra, khám phá tội phạm.
Để đảm bảo cho việc bắt người trong trường hợp khẩn cấp đúng pháp luật, đồng
thời hạn chế tới mức tối đa sự vi phạm các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, khoản
1 Điều 81 BLTTHS quy định một cách cụ thể, rõ ràng các trường hợp khẩn cấp sau đây :
Trường hợp khẩn cấp thứ nhất: Khi có căn cứ để cho rằng người đó đang chuẩn bị
thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Đây là trường
hợp cơ quan có thẩm quyền đã có quá trình theo dõi hoặc kiểm tra, xác minh các nguồn tin
qua đó có căn cứ để khẳng định:
• Một người (hoặc nhiều người) đang chuẩn bị thực hiện tội phạm. Việc chuẩn bị
thực hiện tội phạm có thể thông qua các hành vi: tìm kiếm công cụ, phương tiện
3
Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2006, tr.210
5
hoặc tạo ra những điều kiện cần thiết khác để thực hiện tội phạm như bàn mưu,
tính kế, lập kế hoạch, lôi kéo người khác cũng thực hiện tội phạm. Những hành vi
này chưa trực tiếp xâm hại đến lợi ích của Nhà nước và công dân nhưng đã đặt
các lợi ích đấy vào tình trạng bị đe dọa, cần thiết phải bảo vệ kịp thời.
• Tội phạm đang được chuẩn bị thực hiện là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng. Như chúng ta đã biết căn cứ vào tính chất, mức độ
nguy hiểm cho xã hội mà tội phạm được phân loại thành 4 nhóm: tội phạm ít
nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc
biệt nghiêm trọng. Theo luật hình sự Việt Nam, không phải mọi hành vi chuẩn bị
thực hiện tội phạm nào cũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự mà Điều 17 Bộ luật
hình sự 1999 quy định chỉ người nào chuẩn bị thực hiện một tội phạm rất nghiêm
trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng mới phải chịu trách nhiệm hình sự. Do
đó muốn bắt khẩn cấp một người (hoặc nhiều người) đang chuẩn bị thực hiện tội
phạm thì phải xác định rội phạm họ đang chuẩn bị thực hiện phải là tội phạm rất
nghiêm trọng (tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung

hình phạt đối với tội ấy là đến 15 năm tù) hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng
(tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình
phạt đối với tội ấy là trên 15 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình).
Trường hợp khẩn cấp thứ hai: Khi người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội
phạm chính mắt trông thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy
cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn. Đây là trường hợp tội phạm đã xảy ra, nhưng
người thực hiện tội phạm không bị bắt ngay. Sau một thời gian, người bị hại hoặc người
có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông thấy đã xác nhận đúng là người thực hiện
tội phạm. Nếu Cơ quan điều tra xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn thì ra lệnh
bắt khẩn cấp. Việc bắt người trong trường hợp này cần phải đảm bảo hai điều kiện sau:
• Phải có người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông thấy và trực tiếp
xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm. Người có mặt tại nơi xảy ra tội
phạm có thể là người bị hại hoặc người khác đã chính mắt trông thấy người phạm
6

×