Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

SKKN Sử dụng đồ dùng trực quan trong giảng dạy môn Sinh học lớp 8

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.86 KB, 14 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
"SỬ DỤNG ĐỒ DÙNG TRỰC QUAN TRONG GIẢNG DẠY
SINH HỌC 8"
I/ Lí do chọn đề tài
Sinh học là một trong những bộ môn khoa học, có vị trí vô cùng quan trọng. Sinh học
nghiên cứu tìm hiểu thế giới sinh vật trên trái đất . Để kế tiếp nguồn khoa học cho thế hệ
trẻ được xác lập trên cơ sở phương pháp dạy học của giáo viên . Trong quá trình giảng
dạy giáo viên phải căn cứ vào mục tiêu đào tạo thế hệ trẻ của nhà trường xã hội chủ nghĩa
. Nội dung chương trình sinh học giúp các em tiếp thu nguồn tri thức sinh học từ đó vận
dụng vào thực tiễn đời sống.
Nhưng thực tế trong nhà trường hiện nay môn sinh học chưa được quan tâm đúng mức .
Số học sinh khá , giỏi còn thấp so với các môn học khác mà phần lớn ở mức độ trung
bình . Vậy vì sao? Do trình độ nhận thức của học sinh hay do các em chưa có sự say mê
học tập Điều đó chưa hoàn toàn đúng cũng như chưa phải là nguyên nhân chủ yếu mà
quan trọng ở đội ngũ giáo viên còn nhiều thiếu sót về kiến thức, kinh nghiệm và lòng
nhiệt tình say mê trong giảng dạy . Dạy như thế nào? Bằng phương pháp nào? cho hợp lí
với các bài giảng sao cho thật cô đọng giúp học sinh dễ hiểu, dễ nhớ vì môn sinh học là
môn khoa học thực nghiệm, hơn nữa ở lứa tuổi các em rất hiếu động ham hiểu biết, thích
quan sát các sự vật hiện tượng cụ thể. Thế nhưng một thiếu sót rất lớn ở trường phổ thông
hiện nay là bỏ qua hoặc ít sử dụng các đồ dùng trực quan .
Việc sử dụng các đồ dùng trực quan trong các bài giảng người thầy kết hợp cho học
sinh quan sát vật thật, tranh, ảnh, mô hình với nắm kiến thức bài học. Chính vì vậy:
“Sử dụng đồ dùng trực quan trong giảng dạy sinh học 8” Nhằm nâng cao sự nhận thức
của học sinh gắn lý luận với thực tiễn góp phần giải quyết thắc mắc tò mò cho các em
làm cho giờ sinh học trở lên sinh động hơn dẫn tới chất lượng học tập cao .
II/ Phạm vi và thời gian thực hiện đề tài
Việc sử dụng đồ dùng trực quan trong giảng dạy sinh học 8 được nghiên cứu từ
năm học 2007-2008 đến năm học 2008 - 2009 thực hiện ở 3 lớp 8 ( A,B,C) tại trường
THCS Tuân Đạo nơi Tôi đang công tác .
III/Quá trình thực hiện đề tài


Qua giảng dạy sinh học 8 ở 3 lớp 8 (A,B,C) năm học 2008 - 2009. Tôi tiếp tục tiến
hành thực hiện việc: “Sử dụng đồ dùng trực quan trong giảng dạy sinh học 8” mà năm
học trước đã thực hiện để tìm hiểu hiệu quả của nó trong giảng dạy .
A .KhẢO SÁT THỰC TẾ :
1. Cơ sở vật chất :
Trường THCS Tuân Đạo -
Trường chưa có phòng học bộ môn, các dụng cụ thí nghiệm hoá chất đều đã quá thời
hạn sử dụng, các mô hình, tranh vẽ, mẫu vật ngâm tiêu bản, kính hiển vi, kính núp….
còn thiếu rất nhiều .
2. Giáo viên : Gồm có 44 giáo viên đứng lớp với trình độ cao đẳng và đại học . Nói
chung đội ngũ giáo viên đều có lòng nhiệt tình và tay nghề vững vàng song với giáo viên
chuyên Sinh thì không có , vì vậy phải dạy chéo ban . Với cơ sở vật chất còn nghèo nàn
thì giáo viên dạy bộ môn Sinh thường sử dụng phương pháp dạy chay và thuyết trình là
cơ bản .
3. Học sinh: Học sinh trong trường đều là con em nông dân với nghề nông là chủ yếu
vì vậy kinh tế còn eo hẹp, gia đình ít quan tâm đến sự học tập của các em. hơn nữa bộ
môn Sinh là một bộ môn khoa học thực nghiệm học sinh cho rằng “ Môn Sinh học không
quan trọng không phải bộ môn chính” Vì vậy ít đầu tư cho môn học này với suy nghĩ
như vậy đa số các em không hiểu rõ bản chất của lí thuyết dẫn đến việc nắm kiến thức
gặp nhiều khó khăn vướng mắc do vậy kiến thức của các em bị hổng nhiều dẫn đến bỏ bê
việc học môn sinh học.Qua khảo sát chất lượng học tập môn sinh ở 3 lớp 8 khi chưa thực
hiện đề tài :
Loại
Lớp
Giỏi Khá Trung
bình
Yếu Kém
8A 8% 21% 64% 5% 2%
8B 7% 23% 63% 4% 3%
8C 5% 25% 60% 6% 4%

B. BIỆN PHÁP THỰC HIỆN:
1. Đảm bảo nguyên tắc trực quan trong giảng dạy
Trong giảng dạy sinh học 8 đảm bảo nguyên tắc trực quan là một nguyên tắc chỉ đạo
quá trình dạy học nhằm nâng cao hiệu quả và chất lượng giáo dục . Đồ dùng trực quan
cung cấp cho học sinh tối đa các hình ảnh cụ thể , biểu tượng cụ thể trong sáng muôn
hình muôn vẻ của các sự vật hiện tượng mà các em đang học và nghiên cứu. Sử dụng sự
quan sát và thí nghiệm phải được xem là phương pháp đặc thù, chúng góp phần đáp ứng
về mặt nhận thức ở lứa tuổi học sinh ( 14-15) là lứa tuổi vốn sống ít, sự hiểu biết ít, các
biểu tượng tích luỹ còn hạn chế; Các em còn nặng về tư duy thực nghiệm , tư duy hình
tượng cụ thể. Việc xây dựng các khái niệm đòi hỏi phải lấy “Phương tiện trực quan”
làm điểm tựa cho quá trình nhận thức. Hơn nữa các phương tiện trực quan còn phát huy
được ở các em tính tích cực, tính tự lực, chủ động sáng tạo trong việc dành lấy tri thức
dưới sự tổ chức và chỉ đạo của thầy, do đó kiến thức sẽ sâu sắc và chắc. Chúng gây hứng
thú nhận thức cho học sinh mà hứng thú nhận thức là yếu tố tâm lí ban đầu có tác dụng
đối với quá trình nhận thức.
Ví dụ: Giảng dạy về chức phận của tuỷ sống ( chương hệ thần kinh và giác quan ) sau
khi trình bày cấu tạo tuỷ sống bằng phương pháp giảng giải có tính chất mô tả kết hợp
với sở dụng tranh vẽ “Cấu tạo tuỷ sống” trong đó lưu ý đến cấu tạo chất xám và chất
trắng . Giáo viên giới thiệu chức năng của tuỷ sống bằng thí nghiệm trên tuỷ sống ếch
theo các bước:
- Giáo viên treo trên giá một con ếch đã huỷ não
- Giáo viên kích thích nhẹ một chân sau của ếch, rồi chân kia thì thấy : Kích thích
chân nào thì chân ấy co.
- Giáo viên nêu câu hỏi định hướng “ Căn cứ vào cấu tạo của tuỷ sống và kiến thức về
phản xạ em hãy cho biết vì sao chân ếch co khi ta kích thích ?” Các em có nhiều cách trả
lời khác nhau , giáo viên nhận xét bổ xung : Trong tuỷ sống có chất xám và chất xám là
trung khu thần kinh , chính nhờ các căn cứ này đã nhận và trả lời kích thích từ cơ quan
thụ cảm .
- Tiếp đó giáo viên dùng kích thích mạnh hơn một chút ta nhận thấy ếch co cả hai
chân , kích thích mạnh hơn nữa ếch co cả bốn chân hoặc có phản ứng toàn thân . Từ đó

giáo viên đặt ra câu hỏi : “ Các phản ứng trên chứng tỏ điều gì ?” Học sinh dễ dàng trả lời
: “ Trong tuỷ sống có các căn cứ thần kinh điều khiển sự vân động của các chi” đến giáo
viên có thể kết luận khái quát : “ Tuỷ sống là căn cứ của các phản xạ không điều kiện” .
- Giáo viên cho học sinh tìm hiểu chức năng của chất trắng trong tuỷ sống câu hỏi: “
Tuỷ sống có nhiều căn cứ thần kinh điều khiển vân động của các chi nhưng vì sao kích
thích chi dưới, chi trên ếch cũng co? em có suy nghĩ gì về sự kiện đó?” Giáo viên tiếp tục
nêu: “Nếu các căn cứ biệt lập nhau thì hiện tượng trên có xảy ra không? ta hãy quan sát
tiếp tục ” lúc này giáo viên dùng kéo cắt ngang tuỷ sống, tách căn cứ điều khiển chi trên
và chi dưới rồi kích thích mạnh chi sau hoặc chi trước mà chỉ là phản ứng định khu.
Rõ ràng là ở đây học sinh phải tập trung quan sát tíh cực tư duy (so sánh, đối chiếu)
để tự dành lấy tri thức dưới sự hướng dẫn của thầy qua sự đàm thoại gợi mở. Tri thức
dành được chính là từ sự quan sát, thí nghiệm do thầy biểu diễn với sự nỗ lực suy nghĩ
của bản thân học sinh chứ không phải do thầy cung cấp .
2.Vận dụng các đồ dùng trực quan trong giảng dạy một cách rộng rãi
Đối với việc dạy học sinh học, đồ dùng trực quan càng có ý nghĩa quan trọng trong
giảng dạy sinh học.Vì nó được vận dụng một cách rộng rãi, không vì nó có ý nghĩa to lớn
trong việc nhận thức mà các em có điều kiện thuận lợi để thực hiện.
Ví dụ: Học sinh có thể làm thí nghiệm, cũng như quan sát các sự vật hiện tượng trong
thực tế đời sống như: Thành lập các phản xạ có điều kiện ở gà, chó, cá bằng ánh sáng
hoặc tiếng kẻng
Xung quanh các em thế giới sinh vật rất đa dạng , phong phú cùng với các hoạt động
sống, luôn diễn ra gần gũi với các em. Từ đó người thầy có thể hướng vào đó mà lựa
chọn dùng làm các phương tiện trực quan, nghiên cứu và giảng dạy học tập.
Trong các phương tiện trực quan thì mẫu tươi tỏ ra có nhiều ưu điểm hơn cả. Nó cho
phép học sinh biết rõ hình dạng kích thước thực của các đối tượng quan sát, đôi khi còn
cho biết tính chất đặc điểm cấu tạo của đối tượng nghiên cứu .
Ví dụ: Qua quan sát mẫu tim tươi (tim lợn) bằng sự sờ nắn các thành cơ tim học sinh
có thể thấy được sự dày mỏng khác nhau của thành tâm thất so với thành tâm nhĩ. Thành
tâm thất trái dày hơn thành tâm thất phải.
Nhưng không phải lúc nào cũng kiếm được mẫu tươi, có thể dùng các mẫu ngâm thay

thế.
Trong thực tế giảng dạy không phải lúc nào vật thật đều đáp ứng yêu cầu sư phạm của
một đồ dùng dạy học. Có những vật quá nhỏ, khó quan sát thì phải kết hợp sử dụng các
mô hình hoặc tranh vẽ, đặc biệt là loại tranh cho phép đi sâu vào các mức độ khác nhau,
cấu trúc của các cơ quan hay đi sâu vào các chi tiết của từng bộ phận quan trọng, tạo điều
kiện thuận lợi cho việc tìm hiểu chức năng .
Hình vẽ trên bảng của giáo viên cũng là một phương tiện trực quan có giá trị sư phạm
cao (nếu giáo viên vẽ đẹp và nhanh) được kết hợp trong lúc mô tả, thuyết trình giúp các
em theo dõi bài giảng một cách rõ ràng .
3. Sử dụng các đồ dùng trực quan trong giảng dạy phải đảm bảo tính sư phạm và
khoa học
Trong các bài giảng sinh học 9 cần sử dụng các phương tiện trực quan:Vật thật (mẫu
tươi, mẫu ngâm, mẫu khô, tiêu bản hiển vi) .Vật tượng hình như : Mô hình , tranh vẽ
(đen, trắng hoặc màu) các hình chụp, hình vẽ trên bảng hoặc sơ đồ cấu tạo, phải đảm bảo
tính sư phạm và khoa học như :
- Khi giáo viên đưa ra các mẫu vật biểu diễn cần: đúng lúc , đúng cách , dùng đến đâu
đưa ra đến đó tránh bày la liệt .
- Đối tượng quan sát phải đủ lớn vừa tầm nhìn , nếu nhỏ quá phải đưa tới từng bàn
cho học sinh quan sát .
- Các thí nghiệm giáo viên cần liên hệ chặt chẽ với bài giảng có đối chứng mới có sức
thuyết phục .
- Giáo viên phải nghiên cứu, làm thử trước khi đem ra biểu diễn trước học sinh .
C. THỰC NGHIỆM VÀ KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM
I. Bài giảng thực nghiệm:
Tiết 53 : Cơ quan phân tích thính giác
1. Mục tiêu bài học:
a. Kiến thức:
- Xác định rõ các thành phần và chức năng của cơ quan phân tích thính giác
- Mô tả được các bộ phận của tai, cấu tạo của cơ quan phân tích thính giác
- Trình bày được quá trình thu nhận các cảm giác âm thanh

b. Kỹ năng :
- Phát triển kỹ năng quan sát và phân tích kênh hình
- Kỹ năng hoạt động nhóm
c. Thái độ : Giáo dục ý thức tự giữ vệ sinh tai
2. Đồ dùng dạy học :
- Tranh phóng to hình 51.1và 51.2
- Mô hình cấu tạo tai
3 . Tiến trình bài giảng
A. ổn định tổ chức:
- Kiểm tra sĩ số lớp
- phân nhóm học tập
B . Kiểm tra bài cũ:
Học sinh trả lời: các biện pháp phòng tránh các bệnh tật về mắt
C. Bài mới
Vào bài: Chúng ta đã học về âm thanh và phân biệt được các âm trầm , bổng , to ,
nhỏ khác nhau phát ra từ nguồn âm là nhờ cơ quan phân tích thính giác , cơ quan
phân tích thính giác có cấu tạo và chức năng như thế nào ?
Hoạt động của thầy và trò Nội dung
- Học sinh quan sát hình 51.1,
giáo viên giới thiệu chỉ trên
tranh vẽ giới hạn các phần của
tai.
- Tai ngoài gồm mấy phần ?
đặc điểm và chức năng của
các phần?
- Xác định vị trí của màng
nhĩ ? (trên mô hình)
- Tai giữa gồm mấy phần ?
Chức năng của từng phần ?
- Khi máy bay cất cánh hành

khách thường nhai kẹo cao su
có tác dụng gì ?
Tai trong gồm những bộ phận
nào ? Chức năng của từng
I . Cấu tạo của tai
Gồm : Tai ngoài, tai giữa, tai trong
1. Cấu tạo và chức năng của tai ngoài
- Vành tai: Hứng sóng âm
- Ống tai: hướng sóng âm
- Màng nhĩ: Rung động và khuyếch đại âm
thanh
2. Cấu tạo và chức năng của tai giữa: Là
một khoang xương gồm:
- Chuỗi xương tai : Xương đe, xương bàn
đạp, xương búa -> truyền sóng âm từ tai
ngoài tới tai trong (qua màng cửa bầu dục
- Vòi nhĩ: Thông với hầu -> Cân bằng áp
suất hai bên màng nhĩ
3. Cấu tạo và chức năng của tai trong
- Bộ phận tiền đình và các ống bán khuyên
thu nhận thông tin về vị trí và sự chuyển
động của các thể trong không gian.
- Ốc tai : thu nhận kích thích sóng âm gồm
+ Ốc tai xương (ngoài)
phần ?
- Giải thích hiện tượng đi
loạng choạng (vĩnh viễn) ?
- HS quan sát H51.1 -> Trả
lời:
+ Các thiết bị thụ cảm thính

giác nằm ở đâu
HS quan sát hình vẽ và mô tả
đường truyền của sóng âm
HS đọc thông tin trong sách
giáo khoa => Nêu các biện
pháp giữ gìn vệ sinh tai ?
Giáo viên chốt lại kiến thức
sau khi các nhóm trình bày và
liên hệ thực tế trong đời sống
+ Ốc tai màng (trong)
Hệ thống màng trên màng cơ sở có cơ
quan cooc ti chứa các thiết bị thụ cảm
thính giác
II . Chức năng thu nhận sóng âm
Sóng âm đập vào màng nhĩ -> chuỗi
xương tai -> Cửa sổ bầu dục - > Màng cơ
sở - > Cơ quan cooc ti -> xuất hiện xung
thần kinh -> Vùng thính giác ở thuỳ thái
dương (Phân biệt , nhận biết các âm
thanh)
III. Vệ sinh tai
- Giữ vệ sinh tai thường xuyên lau tai bằng
bông
- Bảo vệ tai :
+ Không dùng vật cứng nhọn để ngoáy tai
+ Giữ vệ sinh mũi , họng để phòng bệnh
cho tai
+ Tránh nơi có tiếng ồn mạnh

D. Củng cố: Giáo viên sử dụng bảng phụ có ghi câu hỏi trắc nghiệm

Câu 1: Các thiết bị thụ cảm thính giác nằm ở đâu ?
a. ốc tai c. ống bán khuyên
b. Xương tai d . Cơ quan cooc ti
Câu 2 : Bộ phận nào của tai ngoài có nhiệm vụ hướng sóng âm :
a. Vành tai b. ống tai
c. Màng nhĩ c. Cả a,b,c
Câu 3 : Bộ phận nào của tai trong có nhiệm vụ thu nhận các kích thích của sóng âm :
a. Tiền đình b. ống bán khuyên
c. ốc tai c. Màng nhĩ
E . Dặn dò :
- HS học bài theo nội dung SGK
- Làm câu hỏi 4 vào vở (SGK tr165)
- Tìm hiểu hoạt động của một số vật nuôi trong nhà
II . Kết quả
ây ch l m t trong s các b i tôi ã áp d ng v i l p 8 A ( l p th c nghi m ) k t qu c thĐ ỉ à ộ ố à đ ụ ớ ớ ớ ự ệ ế ả ụ ể
nh sau : ư
Lớp
Chất lượng
Giỏi Khá Trung bình Yếu
8A( Thực nghiệm ) 18.6% 56.8% 24.6% 0%
8C ( Đối chứng ) 12.2% 33.2% 54.6% 0%

Qua kết quả trên cho thấy việc giảng dạy theo phương pháp mới ở lớp 8A là khá thành
công và thu được kết quả cao . Chứng tỏ với việc đổi mới phương pháp dạy học có nhiều
ưu thế trong việc nâng cao chất lượng giảng dạy của giáo viên và học tập của học sinh .
D. ĐÁNH GIÁ CHUNG:
Sinh học là ngành khoa học sát với thực tế đời sống,vì vậy trong thực tế giảng dạy bộ
môn, truyền đạt kiến thức cho học sinh là yếu tố rất quan trọng. Trong giảng dạy sử dụng
đồ dùng trực quan nó quyết định thắng lợi 1/2 của bài giảng, đồ dùng trực quan phát huy
tính tích cực của học sinh làm cho các em chú ý nghe giảng , quan sát và hăng hái xây

dựng bài .
Như vậy đồ dùng trực quan là cơ sở, là xương sống cho một bài giảng . Qua quan sát
các đồ dùng trực quan học sinh phát triển óc sáng tạo từ đó hình thành các biểu tượng và
khái niệm đúng đắn . Đồ dùng trực quan còn chứng minh cho quan điểm biện chứng,
nhưng khi sử dụng các đồ dùng trực quan cần phối kết hợp với nhiều phương pháp khác
mới đem lại hiệu quả cao.
Qua thực tế giảng dạy tôi rút ra bài học bổ ích cho mình xin nêu để các đồng nghiệp
tham khảo rút kinh nghiệm với mục đích là giúp học sinh nắm kiến thức tốt nhất :
- Khi giáo viên đưa ra các mẫu vật biểu diễn cần : đúng lúc, đúng cách , dùng đến
đâu đưa ra đến đó tránh bày la liệt.
- Đối tượng quan sát phải đủ lớn vừa tầm nhìn, nếu nhỏ quá phải đưa tới từng bàn
cho học sinh quan sát .
- Thí nghiệm phải liên hệ chặt chẽ với bài giảng có đối chứng mới có sức thuyết
phục. Giáo viên luôn chuẩn bị hệ thống câu hỏi để định hướng dẫn dắt , kích thích sự
tìm tòi của học sinh. Khi tiến hành thí nghiệm phải đảm bảo tính sư phạm và khoa
học.
- Các thí nghiệm giáo viên cần nghiên cứu kỹ, trước khi tiến hành biểu diễn trước
học sinh.
IV. ĐỀ NGHỊ
Đề tài này chỉ mới đạt được kết quả bước đầu, chỉ giải quyết được một phần trong
việc: “Sử dụng đồ dùng trực quan trong bài giảng sinh học 8 ” được thực hiện ở 3 lớp 8
trường THCS Tuân Đạo - Ứng Hoà - Hà Nội còn nhiều hạn chế .
Tôi có một số đề nghị với trường THCS Tuân Đạo và các giáo viên dạy bộ môn sinh
học cấp THCS như sau:
1/ Hãy quan tâm hơn nữa việc sử dụng đồ dùng trực quan trong các bài giảng sinh
học .
2/ Phải cung cấp đầy đủ SGK cho học sinh , đồ dùng, phương tiện dạy học cho giáo
viên.
3/ Giáo viên phải căn cứ vào các bài giảng để lựa chọn các phương pháp giảng dạy
tốt nhất.

4/ Nhà trường cần có phòng học bộ môn, phòng thí nghiệm, đồ dùng dạy học tốt,
vườn sinh học.

×