Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

SKKN Kinh nghiệm vận dụng phương pháp giảng dạy theo nhóm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.36 KB, 11 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
“KINH NGHIỆM VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC THEO
NHÓM”
I. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Phương pháp dạy học theo nhóm là một trong những phương pháp dạy học phát huy tính
tích cực của học sinh.Việc sử dụng phương pháp theo nhóm trong giảng dạy đối với giáo
viên không phải là mới vì ngay từ khi việc đổi mới chương trình triển khai thì song song
đó giáo viên cũng được tập huấn những phương pháp dạy học theo hường phát huy tính
tích cực của học sinh trong đó có phương pháp dạy học theo nhóm và giáo viên cũng đã
vận dụng trong công tác giảng dạy.Tuy nhiên vận dụng phương pháp dạy học theo nhóm
như thế nào để mang lại hiệu quả cao nhất? Đó chính là điều tôi muốn chia sẻ, trao đổi và
học tập kinh nghiệm từ các đồng nghiệp.
II. NHỮNG THUẬN LỢI, KHÓ KHĂN KHI VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY
HỌC THEO NHÓM TRONG GIẢNG DẠY:
1. THUẬN LỢI:
-Bản thân giáo viên được tham dự nhiều lớp tập huấn phương pháp dạy học theo hướng
tích cực dành cho giáo viên cốt cán.Do vậy giáo viên nắm vững cách thức sử dụng, nội
dung và giá trỉ của từng phương pháp.
-Đối tượng học sinh là học sinh lóp 4 do vậy các em đã tương đối chủ động hơn trong
học tập và khi hướng dẫn cách thực hiện các em nắm bắt nhanh.
-Giảng dạy theo hướng khoán chương trình giúp giáo viên chủ động lựa chọn nội dung,
đề ra mục tiêu.Từ mục tiêu giáo viên lựa chọn phương pháp phù hợp.
-Giảng dạy theo hướng chuyên sâu giúp giáo viên rút kinh nghiệm và điều chỉnh kịp thời
những vấn đề phát sing khi sử dụng những phương pháp dạy học theo nhóm.
2. KHÓ KHĂN:
Giáo viên phải biết chọn lựa những phương pháp sao cho phù hợp với dạng bài tập, nội
dung của bài.
III. NỘI DUNG BIỆN PHÁP THỰC HIỆN:
1.Trong quá trình vận dụng tôi nhận thấy mỗi phương pháp phù hợp với một dạng bài
tập, một kiểu bài.


Ví dụ:
a.Phương pháp lắp ghép tôi sử dụng nhiều trong phân môn Luyện từ và câu với kiểu bài
Mở rộng vốn từ
Khi dạy bài mở rộng vốn từ với dạng bài tập tìm từ, ở học kì I tôi tổ chức cho học sinh
làm việc theo nhóm đôi, tôi nhận thấy học sinh thực hiện tốt nhưng số lượng từ không
nhiều.
Bài Mở rộng vốn từ Cái đẹp, bài tập 1 yêu cầu học sinh tìm từ
+Thể hiện vẻ đẹp bên ngoài của con người
+Thể hiện nét đẹp tâm hồn, tính cách của con người.
Ở học kì II tôi sử dụng phương pháp nhóm lắp ghép để học sinh giải quyết yêu cầu của
bài tập như sau:
-Đầu tiên tôi giao việc cho học sinh thực hiện cá nhân, mỗi học sinh thực hiện một yêu
cầu.Ở bước này học sinh tự tìm từ, số lượng từ học sinh tìm được có thể ít hay nhiều.
-Kế đến học sinh sẽ họp nhóm chuyên môn.Lúc này những học sinh thực hiện cùng một
yêu cầu sẽ bổ sung từ cho nhau.Sau bước này số lượng từ học sinh tìm được sẽ nhiều
hơn.
-Tiếp theo các em sẽ lắp ghép, học sinh thực hiện yêu cầu a trình bày từ mình tìm được
cho học sinh thực hiện yêu cầu b và ngược lại.Sau bước này, học sinh hoàn thành bài tập
với số lượng từ tìm được rất phong phú.
Với cách thực hiện như trên, tôi nhận thấy số lượng từ học sinh tìm được nhiều hơn, vốn
từ của học sinh ngày càng phong phú hơn.Tiết học diễn ra nhẹ nhàng, học sinh tích sực
làm việc để có từ trao đổi với bạn và để nhận được lời khen từ bạn khi mình tìm được
nhiều từ nên các em tích cực chuẩn bị bài trước ở nhà.
b.Phương pháp làm dấu-trích đoạn và phương pháp đôi bạn học tập tôi sử dụng trong
môn Tập làm văn khi dạy loại bài Lí thuyết hoặc Luyện tập-Thực hành.
Khi dạy bài Luyện tập quan sát con vật, bài tập 1 yêu cầu học sinh đọc bài văn Đàn ngan
mới nở và cho biết tác giả đã quan sát những bộ phận nào của con vật; ghi lại những câu
văn miêu tả em cho là hay.
Ở học kì I với loại bài này, tôi tổ chức cho học sinh làm việc cá nhân sau đó học sinh
trình bày ý kiến rồi học sinh khác nhận xét, bổ sung.Tôi nhận thấy học sinh thực hiện tốt

các yêu cầu của bài tập nhưng lớp học không sinh động.Một số học sinh khi giáo viên
yêu cầu trình bày hoặc nhận xét các em không nói được vì các em không lắng nghe hoặc
không có kết quả của riêng mình.
Để giải quyết bài tập trên, ở học kì II tôi vận dụng phương pháp làm dấu trích đoạn kết
hợp với phương pháp dôi bạn học tập.Tôi nhận thấy học sinh không chỉ giải quyết tốt
yêu cầu của bài tập mà thông qua việc làm dấu trích đoạn học sinh dễ dàng nhận ra
những đặc diểm nổi bật của con ngan con.Tác giả tả con ngan con không theo một trình
tự thông thường từ trên xuống dưới mà tác giả chọn tả những đặc điểm đặc sắc nhất của
con ngan con là bộ lông sau đó đến đôi mắt, cái mỏ rồi mới đến cái đầu mà giáo viên
không cần giảng dạy chính học sinh tự phát hiện và trình bày điều đó.Bên cạnh đó,
phương pháp đôi bạn học tập giúp học sinh tự kiểm tra kết quả làm việc của mình, đồng
thời các em mạnh dạn bày tỏ ý kiến, cảm nhận của mình về cái hay cái đẹp của những
câu văn miêu tả.
Trước đây, khi sửa bài tôi phải đặt câu hỏi gợi ý cho học sinh nhận xét rồi học sinh cùng
nhau sửa bài.Như vậy số lượng lỗi được sửa ít và chỉ có một số học sinh làm việc mà
thôi.
Sau này, khi sử dụng phương pháp nói chuyện tay ba để sửa bài tôi nhận thấy tất cả học
sinh đều có thể chia sẻ bài làm của mình với bạn và được bạn giúp để sửa bài hoặc bạn
nhận xét, góp ý thêm cho bài làm của mình.Ngoài ra, học sinh còn được học tập những
cái hay từ bài của bạn và trong một nhóm nhỏ như vậy học sinh nhút nhát cũng mạnh dạn
bày tỏ ý kiến của mình.
2. Khi vận dụng những phương pháp nhóm vào trong thực tế giảng dạy tôi nhận thấy phải
vận dụng linh hoạt sao cho phù hợp với đối tượng.
Với học sinh tiểu học, tôi sử dụng phương pháp nhóm lắp ghép khi bài tập có 2 câu và
độ khó tương đương nhau.Sau khi thực hiện cá nhân, học sinh tạo nhóm lắp ghép như
sau:
Nhóm chuyên môn:
DÃY 1 DÃY 2 DÃY 3 DÃY 4
A A B B A A B B
A A B B A A B B

Nhóm lắp ghép:
DÃY 1 DÃY 2 DÃY 3 DÃY 4
A B A B A B A B
A B A B A B A B
Khi thực hiện như thế học sinh dễ dàng trao đổi nhóm chuyên môn và khi lắp ghép học
sinh di chuyển nhanh hơn, không làm mất nhiều thời gian.Với cách làn như thế còn phù
hợp với cách sắp xếp bàn ghế trong lớp học.
3. Đặc điểm của học sinh tiểu học là thích mới lạ do vậy khi sử dụng phương pháp nhóm
tôi thường xuyên thay đổi các thành viên trong nhóm bằng các hình thức chia nhóm như
chia nhóm theo từ đồng nghĩa, chia nhóm theo từ ngữ cùng chủ đề…Ngoài ra, để các
hoạt động nhóm có hiệu quả tôi còn chia nhóm theo khả năng theo sở thích.
Ví dụ:
Bài Thành phố Hồ Chí Minh (môn Địa lí)
Hoạt động 2: Giáo viên yêu cầu học sinh tìm hiểu thông tin trong SGK và những hiểu
biết của mình để chứng tỏ Thành phố Hồ Chí Minh là một trung tâm kimh tế, văn hóa,
khoa học lớn.
Để thực hiện yêu cầu trên, giáo viên chia lớp thành các nhóm nhỏ có cùng sở thích về
kinh tế, về văn hóa, về khoa học.Mỗi nhóm sẽ giải quyết một nội dung sau đó các nhóm
sẽ bổ sung cho nhau.Như thế kết quả làm việc của các em có chiều sâu và nội dung được
mở rộng hơn.
4. Tùy theo đặc điểm học sinh của từng lớp, khi sử dụng phương pháp dạy học theo nhóm
tôi chọn hình thức tổ chức, cách thức làm việc khác nhau cho cùng một phương pháp.
Ví dụ: Khi dạy bài Vị ngữ trong câu kể Ai thế nào? Ở hoạt động 1 học sinh phải thực
hiện các yêu cấu sau:
a. Đọc đoạn văn.
b.Tìm câu kể Ai thế nào ? trong đoạn văn.
c.Xác định chủ ngữ, vị ngữ của những câu vừa tìm được.
Để thực hiện yêu cầu b và c tôi sử dụng phương pháp đôi bạn học tập cho cả 3 lớp tôi
phụ trách
Nhưng với lớp 4/1 sau khi sử dụng phương pháp đôi bạn học tập tôi yêu cầu học sinh

trình bày những vấn đề chưa có sự thống nhất.Từ đó, giáo viên cùng học sinh đặt câu hỏi
để làm sáng tỏ và mở rộng vấn đề. Vì đặc điểm của học sinh lóp này vô cùng năng động,
các em tiếp thu nhanh, kĩ năng đặt câu hỏi tốt.
Với 2 lớp còn lại sau khi các em thực hiện câu b xong giáo viên cùng học sinh nhận xét,
sửa chữa rối sau đó tiến hành thực hiện tiếp câu c. Vì 2 lớp này có nhiều học sinh khả
năng tiếp thu chậm, các em còn thụ động, ít bày tỏ ý kiến.
Khi sử dụng các phương pháp dạy học theo nhóm, tôi còn hướng dẫn học sinh nhận xét ý
kiến của bạn theo tinh thần của lớp học Intel.Điều đó, giúp học sinh mạnh dạn, tự tin khi
bày tỏ ý kiến của mình và là một trong những động lực giúp học sinh cố gắng vươn lên
trong học tập.
Tóm lại:
Ngoài những kinh nghiệm như trình bày ở trên, khi vận dụng giáo viên cần nghiên cứu,
lựa chọn và phối hợp nhịp nhàng với các phương pháp khác sao cho phát huy được khả
năng học tập cao nhất của học sinh và giờ học nhẹ nhàng nhưng hiệu quả để mỗi ngày
học sinh đến trường là một ngày vui.
IV. PHẠM VI ÁP DỤNG VÀ KẾT QUẢ
-Phương pháp dạy học theo nhóm vận dụng được ở tất cả các phân môn.Tuy nhiên tùy
đặc điểm của từng phân môn và nội dung của từng bài học mà khi vận dụng giáo viên
linh hoạt thay đổi sao cho phù hợp.
-Kết quả:
Bảng thống kê kết quả học tập môn Tiếng Việt lớp 4/1 năm học 2007-2008
GIỮA KÌ I GIỮA KÌ II
GIỎI KHÁ TB YẾU GIỎI KHÁ TB YẾU
18 21 3 / 26 16 / /
Bảng thống kê kết quả học tập môn Tiếng Việt khối 4 năm học 2007-2008
GIỮA KÌ I GIỮA KÌ II
GIỎI KHÁ TB YẾU GIỎI KHÁ TB YẾU
28 59 24 15 62 53 8 /
Dựa vào bảng thống kê cho thấy số học sinh đạt loại Giỏi môn Tiếng Việt giữa kì II của
lớp 4/1 và của khối tăng so với giữa kì I.Số học sinh học sinh trung bình môn Tiếng Việt

của lớp 4/1 giữa kì II không có.Giữa học kì II số lượng học sinh trung bình của khối giảm
2 lần so với giữa kì I và không có học sinh yếu.
Ngoài ra, lớp 4/1 đa số học sinh trong lớp có kĩ năng nghe, nói, nhận xét, hợp tác… rất
tốt.Trong đợt tập huấn phương pháp dạy học tích cực lớp 5 vừa qua, giáo viên các trường
minh họa các hoạt động học tập thông qua học sinh lớp 4/1 đều có chung nhận xét là học
sinh năng động, tự tin, mạnh dạn và học tốt.
Trong buổi họp khối vừa qua, khi trao đổi về tình hình học tập của học sinh,giáo viên
trong khối nhận xét có nhiều học sinh tiến bộ rõ rệt như năng động hơn, mạnh dạn hơn,
kết quả kiểm tra GKII môn Tập làm văn tốt hơn như Chinh Chiến, Đức Đạt, Ái Vân(lớp
4/2), Trúc, Vịnh, Quỳnh Như, Châu(lớp 4/3).
Đầu năm khi BGH dự giờ thăm lớp có nhận xét trong tiết dạy giáo viên phải làm việc
nhiều, học sinh còn thụ động chưa tích cực.Bản thân giáo viên sau 5 tiết dạy rất mệt.Sau
khi vận dụng các phương pháp dạy học theo nhóm kết quả thanh tra chuyên môn vừa qua
đạt tiết dạy tốt(2 tiết).Thanh tra đã nhận xét như sau “Giáo viên và học sinh có sự phối
hợp nhịp nhàng, sử dụng những phương pháp phù hợp với bộ môn, học sinh mạnh dạn
phát biểu, nhận xét…”.Đó chính là kết quả tôi đạt được sau khi nghiên cứu, vận dụng
những phương pháp dạy học theo nhóm vào trong công tác giảng dạy của mình.
V. KẾT LUẬN:
“Đổi mới phương pháp giảng dạy là con đường tất yếu đưa nền giáo dục Việt Nam lên
một tầm cao mới trong việc hội nhập với thế giới”(Trích trong tài liệu Đổi mới phương
pháp giảng dạy của thầy Hoàng Trí).Và đó cũng là trách nhiệm của mỗi giáo viên chúng
ta để hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.
Đó là những kinh nghiệm riêng của bản thân tôi.Nó giúp tôi khắc phục được những hạn
chế trong công tác giảng dạy của mình.Tuy nhiên đó là những kinh nghiệm chủ quan của
bản thân.Do vậy rất mong nhận được những ý kiến phản hồi từ đồng nghiệp để tôi học
tập, rút kinh nghiệm để vận dụng tốt hơn nữa các phương pháp dạy học theo nhóm.

×