Tải bản đầy đủ (.docx) (42 trang)

ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ ĐÁP ỨNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA BASEL VỀ THANH TRA GIÁM SÁTNGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (484.83 KB, 42 trang )

TRUỜNG ÐẠI HỌC KINH TẾ-LUẬT
KHOA TÀI CHÍNH-NGÂN HÀNG



BÀI TIỂU LUẬN
ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ ĐÁP ỨNG CÁC QUY ĐỊNH
CỦA BASEL VỀ THANH TRA GIÁM SÁT NGÂN
HÀNG TẠI VIỆT NAM
GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hai Hằng
SVTH: Nhóm 41 - Lớp K09.404.A
Đặng Thái Bảo Dung K094040527
Phạm Thị Thu Hà K094040538
Nguyễn Thị Hoa K094040547
TP. HỒ CHÍ MINH, Năm 2013
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG THANH TRA GIÁM SÁT NGÂN
HÀNG TẠI VIỆT NAM 1
1.1 Sơ lược vài nét về mô hình giám sát tài chính tại Việt Nam 1
1.2 Tổng quan về giám sát NH 4
1.2.1 Khái niệm 4
1.2.2 Mục tiêu hoạt động giám sát 4
1.2.3 Hệ thống các nguyên tắc về TTGS theo khuyến cáo của Uỷ ban Basel 5
1.2.4 Khung pháp lý đối với hoạt động TTGS NH 10
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ THANH TRA, GIÁM
SÁT TẠI MỘT SỐ NGÂN HÀNG Ở VIỆT NAM 11
2.1. Thực trạng giám sát NH Việt Nam 11
2.1.1. Công tác giám sát của NHNN 11
2.1.2. Đánh giá công tác giám sát của NHNN 12
2.1.3 Hoạt động TTGS các


N
H
T
M 15
2.2 Đối chiếu Giám sát NH Việt Nam và những hạn chế 17
2.2.1 Hệ thống Basel và những hạn chế Giám sát NH Việt Nam 17
2.2.2 Những nội dung đã thực hiện
đư

c 19
2.2.3 . Những nội dung chưa đáp ứng
đư

c 20
2.3 Những nguyên nhân ảnh hưởng đến việc ứng dụng Basel ở Việt Nam 21
2.3.1 Những nguyên nhân thuộc về nội dung của Basel
II 21
2.3.2. Nguyên nhân từ cơ chế TTGS NHNN 22
2.3.3. Nguyên nhân nội tại từ NHTM 24
2.3.4. Nguyên nhân từ cơ sở pháp lý và bộ máy thanh tra giám sát quản lý hệ thống tài
chính quốc gia 24
CHƯƠNG
3
:
GIẢI PHÁP NÂNG CAO KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG HIỆP
Ư

C

BASEL

II
TẠI NGÂN HÀNG VIỆT
NA
M 27
3.1 Sự cần thiết ứng dụng hiệp ước Basel II tại NH Việt Nam 27
3.2 Các giải pháp nâng cao khả năng ứng dụng Basel II tại các NHTM Việt
Nam 28
3.2.1. Hòan thiện và phát
triển
hạ tầng công nghệ thông
t
i
n 28
3.2.2. Xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội
b
ộ 28
3.2.3. Cải tiến quy
trình
quản
trị rủi
r
o 29
3.2.4. Nâng cao chất lượng nguồn nhân
l

c 29
3.2.5 Tăng tính chủ động và sức mạnh tài chính cho các
N
H
T

M 30
3.2.6
Đầu
tư tài chính để ứng dụng Basel
II 31
3.3. Giải pháp về phía NHNN 31
3.3.1. Nâng cao chất lượng thông tín tín
dụn
g 31
3.3.2 Nâng cao hiệu quả công tác thanh
tra
kiểm soát, giám sát NH 32
3.3.3. Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp
l
u

t 33
3.3.4. Yêu cầu các NHTM minh bạch thông
t
i
n 35
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
BẢNG PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC
Họ và tên Chức danh Công việc
Phạm Thị Thu Hà Nhóm trưởng - Tìm hiểu các quy định về TTGS, hoàn chỉnh
chương 1 và chương 3, góp ý chương 2.
- Tổng hợp thông tin, hoàn thiện bài tiểu luận.
Đặng Thái Bảo Dung Thành viên - Tìm hiểu các quy định về TTGS và hoàn
chỉnh chương 2.

- Góp ý chương 1 và chương 3
Nguyễn Thị Hoa Thành viên
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, TỪ VIẾT TẮT
Ký hiệu Diễn giải
BCTC: Báo cáo tài chính
NH: Ngân hàng
NHNN Ngân hàng Nhà nước
NHTM: Ngân hàng thương mại
TCTC: Tổ chức tài chính
TCTD: Tổ chức tín dụng
TTCK Thị trường chứng khoán
TTGS: Thanh tra giám sát
LỜI MỞ ĐẦU
Hệ thống Ngân hàng đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế, là hệ thống
luân chuyển vốn của từng quốc gia và toàn cầu. Do tính nhạy cảm và gắn chặt với tiền nên
nó phải đối mặt với rất nhiều rủi ro,vì thế chúng ta cần phải có những biện pháp cụ thể để
hạn chế những rủi ro trong ngân hàng. Ngân hàng nhà nước với vai trò là cơ quan nhà nước
quản lý Hệ thống Ngân hàng, cần phải tiến hành những hoạt động thanh tra, giám sát nhằm
kịp thời cứu cánh cho các Tổ chức tín dụng có nguy cơ đổ vỡ, mặt khác kịp thời xử lý các
Tổ chức tín dụng có hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động ngân hàng.
Thanh tra giám sát Ngân hàng là công cụ của Nhà nước, nhằm thực hiện hiệu quả
hoạt động quản lý, hướng tới mục tiêu ổn định sức mua của đồng tiền, đảm bảo an toàn
trong hoạt động ngân hàng. Hoạt động thanh tra, giám sát của Thanh tra Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam ngày càng trở nên quan trọng trong công cuộc đổi mới hoạt động ngân hàng
như hiện nay. Tuy nhiên hoạt động thanh tra giám sát của nước ta hiện nay còn chưa thật sự
hiệu quả, nhiều bất cập và thiếu sự đồng bộ. Hoạt động thanh tra giám sát còn nhiều hạn chế
về nhiều mặt như cơ chế, hệ thống chuẩn mực quản lý, đội ngũ và khoa học kỹ thuật. Chính
vì thế, chúng tôi thực hiện đề tài “Đánh giá mức độ đáp ứng các quy định của Basel về
thannh tra giám sát các ngân hàng tại Việt Nam” để đưa đến cho các bạn cái nhìn toàn
diện về hoạt động thanh tra giám sát ngân hàng ở Việt Nam hiện nay.

7
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG THANH
TRA GIÁM SÁT NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM
1.1 Sơ lược vài nét về mô hình giám sát tài chính tại Việt Nam
So với các nước trên thế giới, thị trường tài chính Việt Nam ra đời muộn hơn, vì vậy
còn nhiều hạn chế trong cơ chế vận hành cũng như trong việc TTGS. Hệ thống giám sát tài
chính của Việt Nam hiện nay về thực chất được tổ chức theo mô hình phân tán chuyên
ngành, tức là mỗi bộ phận của thị trường tài chính được giám sát bởi một cơ quan giám sát
như: thị trường NH được giám sát bởi Cơ quan TTGS NH (trực thuộc NHNN); TTCK được
giám sát bởi Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (trực thuộc Bộ Tài chính); thị trường bảo hiểm
được giám sát bởi Cục quản lý, giám sát bảo hiểm (trực thuộc Bộ Tài chính). Ngoài ra còn
có thêm các tổ chức khác như Ủy ban giám sát tài chính quốc gia, Bảo hiểm tiền gửi Việt
Nam.
Biểu đồ 1: Mô hình giám sát tài chính hiện nay của Việt Nam:
Ngày 6/5/1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 15/SL thành lập NH Quốc Gia
Việt Nam (sau được đổi tên thành NH Nhà nước Việt Nam). Năm năm sau đó, Ban Thanh
8
tra NH trực thuộc NH Quốc gia (tiền thân của Cơ quan TTGS an toàn hoạt động NH hiện
nay) cũng được thành lập bởi một Nghị định của Chính phủ.
Ủy Ban chứng khoán Nhà nước chính thức được thành lập vào ngày 28/11/1996 theo
Nghị định số 75/CP của Chính phủ. Đây là cơ quan trực thuộc Chính phủ thực hiện chức
năng quản lý Nhà nước về chứng khoán và TTCK. Một trong những nhiệm vụ, quyền hạn
quan trọng của Ủy ban này là quản lý, thanh tra, kiểm tra và giám sát các tổ chức và cá nhân
tham gia hoạt động tại TTCK và xử lý các vi phạm về chứng khoán và TTCK theo quy định
của pháp luật (chủ yếu do Thanh tra UBCK thực hiện). Sau một thời gian hoạt động, Ủy ban
này được Chính phủ quyết định chuyển vào Bộ Tài chính nhằm tăng cường hiệu quả điều
phối hoạt động của các Bộ ngành chức năng trong việc thúc đẩy TTCK phát triển.
Cục Bảo hiểm thành lập vào tháng 3/2003, trực thuộc Bộ Tài chính và chịu trách
nhiệm giúp Bộ trưởng Bộ Tài chính quản lý hoạt động kinh doanh bảo hiểm trong phạm vi
cả nước. Cụ thể là kiểm tra, giám sát hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm và doanh nghiệp

môi giới bảo hiểm Việt Nam, văn phòng đại diện của doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài và
doanh nghiệp môi giới nước ngoài tại Việt Nam, đồng thời phối hợp với Thanh tra Bộ trong
việc xây dựng kế hoạch và thực hiện thanh tra hoạt động của các doanh nghiệp kinh doanh
bảo hiểm.
Ủy ban giám sát tài chính quốc gia được thành lập theo quyết định số 34/2008/QĐ –
TTg ngày 3/3/2008 của Thủ tướng Chính phủ. Cơ quan này có chức năng tư vấn cho Thủ
tướng Chính phủ trong điều phối giám sát thị trường tài chính quốc gia (trên cả 3 lĩnh vực
Ngân hàng, Bảo hiểm, Chứng khoán), giúp Thủ tướng Chính phủ giám sát chung thị trường
tài chính quốc gia. Theo Quyết định này, Ủy Ban sẽ là đầu mối điều phối hoạt động giám sát
chuyên ngành, giám sát chung thị trường tài chính và việc chấp hành các thông lệ, chuẩn
mực quốc tế về hoạt động giám sát của các cơ quan thanh tra giám sát chuyên ngành trên cả
ba lĩnh vực bảo hiểm, chứng khoán, ngân hàng. Ủy ban cũng tiến hành phân tích dự báo,
cảnh báo mức độ an toàn hệ thống tài chính ngân hàng và nguy cơ rủi ro với thị trường tài
chính quốc gia, thiết lập cơ sở dữ liệu, tổng hợp, xử lý và cung cấp thông tin về thị trường
tài chính quốc gia báo cáo Chính phủ.
9
Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam được thành lập theo quyết định số 218/1999/QĐ – TTg
ngày 9/1/1999 của Thủ tướng Chính phủ. Nhiệm vụ của cơ quan này là bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định của các tổ chức tham gia Bào
hiểm tiền gửi và sự phát triển lành mạnh, an toàn của hệ thống NH.
Cơ quan TTGS NH được NHNN chính thức công bố quyết định thành lập vào ngày
30/07/2009 .Theo quyết định số 83/2009/QĐ – TTg ngày 27/5/2009 của Thủ tướng Chính
phủ: “Cơ quan TTGS NH là cơ quan thường trực của NHNN thực hiện chức năng thanh tra
hành chính, thanh tra chuyên ngành và giám sát chuyên ngành về NH trong các lĩnh vực
thuộc phạm vi quản lý nhà nước của NHNN; tham mưu giúp Thống đốc NHNN quản lý nhà
nước đối với các TCTD, TCTC quy mô nhỏ, hoạt động NH của các tổ chức khác; thực hiện
phòng chống rửa tiền theo quy định của pháp luật”.
Sơ đồ 2: Mô hình tổ chức và hoạt động của cơ quan TTGS NH
Chức năng giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ thuộc trách nhiệm của Thanh tra NHNN,
nhưng trên thực tế, các Vụ khác trong NHNN cũng thực hiện chức năng này.

10
Quy trình giám sát chi tiết bắt đầu bằng các hoạt động thu thập thông tin của bộ phận
giám sát từ xa thông qua các báo cáo tài chính của các NHTM và các nguồn thông tin khác.
Các thông tin thu thập được một mặt cần được lưu trữ tại Cục quản lý thông tin của NHNN,
mặt khác được bộ phận giám sát từ xa sử dụng để phân tích, đánh giá tổng thể hệ thống NH
trong báo cáo giám sát vĩ mô, lập danh sách những NH có những dấu hiệu bất thường trong
báo cáo cảnh báo sớm và tiến hành xếp hạng cho từng NHTM trong báo cáo đánh giá xếp
hạng. Các báo cáo này được xây dựng và gửi cho bộ phận thanh tra tại chỗ.
Dựa trên kết quả ban đầu của báo cáo cảnh báo sớm và báo cáo đánh giá xếp hạng bộ
phận giám sát từ xa, bộ phận thanh tra tại chỗ lên kế hoạch thanh tra với các bước công việc
của báo cáo tiền thanh tra, tiến hành thanh tra thực tế tại NHTM, sau đó đánh giá bổ sung,
điều chỉnh xếp hạng trong báo cáo đánh giá xếp hạng và đưa ra những khuyến nghị hoặc
yêu cầu đối với NHTM bị thanh tra. Tiếp theo, Cơ quan TTGS của NHNN phải giám sát
việc thực hiện các yêu cầu và khuyến nghị đối với NHTM. Sau khi báo cáo kết quả thực
hiện các yêu cầu của NHTM thì quy trình TTGS đối với một NHTM trong một kỳ giám sát
được tạm thời kết thúc và tiếp tục bắt đầu cho một kỳ giám sát mới theo các bước như trên.
Các Vụ, Cục chức năng thuộc NHNN chịu trách nhiệm ban hành các quy định về
chính sách và quy định an toàn cho hoạt động NH theo chức năng của đơn vị mình. Thanh
tra NHNN chịu trách nhiệm giám sát thực hiện các quy định an toàn.
1.2 Tổng quan về giám sát NH
1.2.1 Khái niệm
Giám sát NH là hoạt động của NHNN trong việc thu thập, tổng hợp, phân tích thông
tin về đối tượng giám sát NH thông qua hệ thống thông tin, báo cáo nhằm phòng ngừa, phát
hiện, ngăn chặn và xử lí kịp thời rủi ro gây mất an toàn hoạt động NH, vi phạm quy định an
toàn hoạt động và các quy định khác của pháp luật có liên quan (điều 6 Luật NHNN 2010).
1.2.2 Mục tiêu hoạt động giám sát
Theo thông lệ quốc tế, có 4 mục tiêu chiến lược của hoạt động TTGS NH:
 Duy trì sự ổn định của thị trường
 Tăng cường sự nhận thức của công chúng
 Bảo vệ người tiêu dùng

 Giảm thiểu tội phạm tài chính
Điều 50 Luật NHNN 2010 quy định rõ mục đích của TTGS NH nhằm góp phần bảo
đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của hệ thống các TCTD và hệ thống tài chính; bảo vệ
11
quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền và khách hàng của TCTD; duy trì và nâng cao
lòng tin của công chúng đối với hệ thống các TCTD; bảo đảm việc chấp hành chính sách,
pháp luật về tiền tệ và NH; góp phần nâng cao hiệu quả và hiệu lực quản lý nhà nước trong
lĩnh vực tiền tệ và NH.
Như vậy, so sánh với mục tiêu theo thông lệ quốc tế, về cơ bản mục đích của TTGS
NH trong Luật NHNN Việt Nam là tương đối phù hợp.
1.2.3 Hệ thống các nguyên tắc và chuẩn mực về TTGS theo khuyến cáo của Uỷ ban
Basel.
Xuất phát từ những yếu kém trong hệ thống NH, các quốc gia nhóm G10 thuộc OECD
đã đề ra yêu cầu về an toàn vốn điều chỉnh theo rủi ro và được Uỷ ban quản lý NH thuộc
NH thanh toán Quốc tế ban hành lần đầu vào năm 1988, gọi là quy định Basel. Năm 1998,
nhóm các nước G10 và Quỹ Tiền tệ quốc tế, NH thế giới, NH thanh toán quốc tế đã đưa ra
25 nguyên tắc cơ bản về giám sát NH hiệu quả. Đây là những nguyên tắc tối thiểu và là tài
liệu cơ sở để tham khảo cho các nhà quản lý và thanh tra NH. Basel II ra đời để khắc phục
hạn chế của Basel I. Năm 2008, Việt Nam đã triển khai thực nghiệm phương pháp TTGS
dựa trên rủi ro (Basel) tại hai NHTM cổ phần. Từ năm 2010 ta từng bước triển khai áp dụng
phương pháp Basel theo thông lệ, chuẩn mực quốc tế kết hợp với TTGS chấp hành chính
sách pháp luật.
Uỷ Ban Basel đưa ra 25 nguyên tắc cơ bản cần thiết đảm bảo cho hệ thống giám sát
hoạt động có hiệu quả bao gồm:
 Chức năng, nhiệm vụ, sự độc lập, sự minh bạch và hợp tác.
 Phạm vi hoạt động NH.
 Các tiêu chí cấp phép.
 Chuyển đổi quyền sở hữu lớn.
 Các sáp nhập cơ bản.
 An toàn vốn.

 Quy trình quản lý rủi ro.
 Rủi ro tín dụng.
 Các tài sản có vấn đề, dự trữ và dự phòng.
 Giới hạn tín dụng với khách hàng lớn.
 Nguy cơ rủi ro đối với các bên liên quan.
 Rủi ro chuyển đổi và rủi ro chính trị.
 Rủi ro thị trường.
 Rủi ro thanh khoản.
12
 Rủi ro hoạt động.
 Rủi ro lãi suất trong ghi sổ của NH.
 Kiểm toán và kiểm soát nội bộ.
 Phòng tránh rủi ro trong dịch vụ tài chính.
 Phương pháp giám sát.
 Kỹ thuật giám sát.
 Thông tin báo cáo giám sát
 Chế độ kế toán và công bố thông tin.
 Thực hiện yêu cầu và kết luận TTGS.
 Giám sát tổng thể.
 Phối hợp giám sát trong và ngoài nước.
Nội dung chính của các nguyên tắc này xin được tóm tắt như sau (theo các cụm chủ
đề):
1.2.3.1 Các nguyên tắc thuộc cụm chủ đề về điều kiện tiên quyết cho việc giám sát nghiệp
vụ NH hiệu quả:
Cụm này chính là nguyên tắc số 1qui định rõ: Một hệ thống giám sát nghiệp vụ NH có
hiệu quả phải là một hệ thống phân định trách nhiệm và mục tiêu rõ ràng đối với từng cơ
quan tham gia trong quá trình giám sát các NH. Mỗi cơ quan đó phải có nguồn lực hoạt
động độc lập và phù hợp. Phải có một khung pháp lý phù hợp cho việc giám sát nghiệp vụ
NH, bao gồm cả các điều khoản liên quan đến quyền hạn của các tổ chức NH và công tác
giám sát hiện nay của chính họ; quyền giải quyết những vấn đề liên quan đến việc tuân thủ

luật pháp, các vấn đề về an toàn hoạt động của các NH, và quyền được bảo vệ hợp pháp đối
với các chuyên gia giám sát. Có các quy định cần thiết về việc chia sẻ thông giữa các
chuyên gia giám sát và việc bảo mật các thông tin đó.
1.2.3.2 Các nguyên tắc thuộc cụm chủ đề cấp phép và cơ cấu:
Cụm này bao gồm 4 nguyên tắc từ nguyên tắc số 2 đến nguyên tắc số 5, với các nội
dung chính được qui định như sau:
- Xác định rõ ràng các hoạt động TCTC được phép làm và chịu sự giám sát. Việc được
hoạt động dưới bất cứ hình thức nào dưới danh nghĩa hoặc sử dụng cụm từ “NH!” cần phải
được kiểm soát chặt chẽ.
- Cơ quan cấp phép phải được trao quyền đưa ra các tiêu chí và bác bỏ đơn xin thành
lập nếu không đạt yêu cầu. Tối thiểu quá trình cấp phép phải thực hiện các công đoạn là
đánh giá cơ cấu sở hữu tổ chức nghiệp vụ NH, Ban giám đốc và các cán bộ quản lý chủ
13
chốt, kế hoạch kinh doanh và kiểm soát nội tại, dự báo tình hình tài chính tương lai, bao
gồm cả vốn cơ bản. Nếu chủ sở hữu hoặc cơ quan mẹ đề xuất là một NH nước ngoài, cần
phải có sự cho phép trước của chuyên gia giám sát nước chủ nhà.
- Chuyên gia giám sát nghiệp vụ NH phải được quyền rà soát và từ chối bất kỳ một đề
xuất nào đối với việc chuyển quyền sở hữu hoặc quyền kiểm soát NH hiện tại cho các bên
khác; có quyền thiết lập các tiêu chí để rà soát việc bổ sung và đầu tư lớn của NH, đảm bảo
là các chi nhánh hoặc cơ cấu của NH không bị rủi ro hoặc làm cản trở đến hiệu quả hoạt
động công tác giám sát.
1.2.3.3 Các nguyên tắc thuộc cụm chủ đề về các quy định và yêu cầu thận trọng:
Cụm chủ đề quan trọng này gồm 10 nguyên tắc từ số 6 đến số 15 với những nội dung
chính là đưa ra các chuẩn mực mà các chuyên gia giám sát nghiệp vụ NH được làm và nhất
thiết phải biết xử lý trong hoạt động của mình như sau:
- Đưa ra các yêu cầu về vốn an toàn và phù hợp cho tất cả các NH; xác định rõ những
khu vực nào của vốn NH chịu rủi ro; tối thiểu đối với một NH quốc tế thì những yêu cầu đó
không được thấp hơn những yêu cầu đã đưa ra trong Hiệp định vốn Basel và các tài liệu sửa
đổi sau đó.
- Đánh giá các chính sách, thực tiễn hoạt động, các thủ tục cho vay vốn, đầu tư, việc

kiểm soát vốn vay hiện tại và hồ sơ đầu tư của NH đó.
- Đánh giá chất lượng tài sản và tính thích hợp của các điều khoản chống thất thoát và
quĩ dự trữ thất thoát khoản vay.
- Phải biết chắc là các NH có/hoặc buộc phải có hệ thống quản lý thông tin cho việc
ban quản lý xác định các đối tượng vay và những hạn chế nghiêm ngặt tránh để hiện tượng
NH chỉ tập trung cho một số bên vay hoặc nhóm bên vay nhất định.
- Phải đưa ra các yêu cầu đối với việc cho vay một số công ty và cá nhân nào đó là dựa
trên điều kiện tự do "trong tầm tay" (arm’s length), và việc kéo dài thời hạn vay phải được
giám sát chặt chẽ.
- Phải biết chắc là các NH có các chính sách, biện pháp phù hợp xác định, giám sát và
kiểm soát rủi ro quốc gia và rủi ro chuyển dịch trong các hoạt động cho vay và đầu tư quốc
tế và việc duy trì khoản dự trữ phù hợp cho các rủi ro nói trên.
14
- Phải biết chắc là các NH đã có một hệ thống đo lường, giám sát và kiểm soát chính
xác những rủi ro thị trường, biết áp đặt những biện pháp hạn chế và/hoặc phí đối với khoản
vốn cụ thể khi tiếp cận với thị trường nhiều rủi ro ngay cả nếu đã được bảo lãnh.
- Phải biết chắc là các NH đã thiết lập qui trình quản lý rủi ro tổng thể (bao gồm Ban
quản lý và cán bộ phù hợp) phục vụ cho việc xác định, đo lường, giám sát và kiểm soát các
rủi ro vật chất, và nắm giữ vốn để ngăn ngừa các rủi ro có thể xảy ra.
- Biết chắc là các NH có/hoặc buộc phải có hệ thống kiểm soát nội bộ hiện tại phù hợp
với tính chất và quy mô hoạt động của họ. Hệ thống kiểm soát này bao gồm việc phân bổ
quyền hạn, trách nhiệm, phân định chức năng tham gia vào các hoạt động của NH, hoạt
động quỹ, kiểm toán tài sản và thế chấp, đảm bảo tính an toàn cho các tài sản của NH, hệ
thống kiểm toán nội bộ độc lập phù hợp và các biện pháp thích hợp đảm bảo sự tuân thủ
những biện pháp kiểm soát nói trên cùng các quy định, luật lệ liên quan khác.
- Biết chắc là các NH có chính sách, thực tiễn và cơ chế hoạt động phù hợp, bao gồm
cả các quy định nghiêm ngặt về “Hiểu rõ khách hàng của bạn”, nhằm thúc đẩy các tiêu
chuẩn về đạo đức nghề nghiệp, trình độ chuyên môn trong ngành tài chính và ngăn ngừa các
hiện tượng phạm pháp có thể xảy ra, dù cố tình hay vô tình.
1.2.3.4 Các nguyên tắc thuộc cụm chủ đề về giám sát nghiệp vụ NH hiện nay:

Cụm chủ đề này gồm 5 nguyên tắc từ số 16 đến số 20 chỉ ra một hệ thống giám sát
nghiệp vụ NH hiệu quả cần phải có:
- Bao gồm cả các hình thức giám sát không tại chỗ và tại chỗ.
- Thường xuyên liên hệ với Ban giám đốc NH và hiểu rõ về hoạt động của NH.
- Xây dựng các biện pháp thu thập, rà soát và phân tích các báo cáo, thống kê của NH
theo hình thức đơn lẻ và tổng hợp.
- Có biện pháp thẩm định độc lập các thông tin giám sát thông qua kiểm tra trực tiếp
tại chỗ hoặc sử dụng các kiểm toán viên độc lập.
- Liên tục tăng cường yếu tố năng lực của chuyên gia giám sát trong việc giám sát hoạt
động của nhóm các NH một cách tổng quát.
1.2.3.5 Nguyên tắc thuộc cụm chủ đề yêu cầu về thông tin:
15
Cụm chủ đề này có 1 nguyên tắc số 21 chỉ rõ: Chuyên gia giám sát nghiệp vụ NH phải
biết chắc là mỗi NH có hệ thống lưu trữ tài liệu phù hợp theo yêu cầu của các chính sách kế
toán và theo một phương thức nào đó cho phép chuyên gia giám sát có thể tiếp cận và thấy
được tình hình tài chính thực tế của NH và khả năng sinh lời của các nghiệp vụ NH. Ngoài
ra NH phải thường xuyên đưa ra các bản kê tài chính phản ánh trung thực tình hình tài chính
của mình với Cơ quan TTGS.
1.2.3.6 Nguyên tắc thuộc cụm chủ đề quyền hạn hợp pháp của Chuyên gia giám sát:
Cụm chủ đề này có 1 nguyên tắc số 22 chỉ rõ: Chuyên gia giám sát nghiệp vụ NH phải
luôn có các biện pháp giám sát bắt buộc để có thể đưa ra được hành động can thiệp kịp thời
khi NH không đáp ứng được những yêu cầu cơ bản (ví dụ tỷ lệ vốn tối thiểu phù hợp, năng
lực người đứng đầu ) khi có hiện tượng vi phạm về thể chế hoặc khi người gửi tiền có thể
gặp rủi ro dưới bất kỳ hình thức nào. Trong trường hợp khẩn cấp, hoạt động can thiệp này
bao gồm cả việc thu hồi giấy phép lập tức hoặc đề nghị thu hồi giấy phép hoạt động.
1.2.3.7 Các nguyên tắc thuộc cụm chủ đề Nghiệp vụ NH xuyên biên giới:
Cụm chủ đề này gồm 3 nguyên tắc cuối cùng từ số 23 đến số 25 với những nội dung
liên quan đến Chuyên gia giám sát nghiệp vụ NH:
- Thực hiện nghiệp vụ giám sát tổng hợp các tổ chức NH có giao dịch quốc tế, giám
sát và áp dụng các thông lệ cơ bản phù hợp trong tất cả các giao dịch của các NH khi tiến

hành giao dịch quốc tế, trước nhất là tại các chi nhánh, liên doanh và cơ sở NH quốc tế.
- Thiết lập quan hệ và hệ thống trao đổi thông tin với các chuyên gia giám sát khác,
trước nhất là với chuyên gia giám sát của nước sở tại.
- Yêu cầu các NH nước ngoài hoạt động theo đúng các tiêu chuẩn của các NH trong
nước. Họ cần phải trao đổi thông tin với các chuyên gia giám sát của nước sở tại về hoạt
động của mình nhằm có được sự giám sát tổng quát nhất và bình đẳng nhất đối với các loại
NH khác nhau.
1.2.4 Khung pháp lý đối với hoạt động TTGS NH
Tiếp theo Quyết định số 83/2009/QĐ - TTg ngày 27/5/2009 của Thủ tướng Chính phủ
quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cơ quan TTGS NH trực
thuộc NHNN Việt Nam, ngày 16/6/2010, Quốc hội đã thông qua Luật NHNN Việt Nam
16
(Luật số 46/2010/QH12, viết tắt là Luật NHNN 2010) thay thế Luật NHNN Việt Nam số
01/1997/QH10 (Luật NHNN 1997) và Luật sửa đổi, bổ sung số 10/2003/QH11; trong đó, đã
dành trọn Chương V với 13 Điều khoản quy định về TTGS NH. Điều này tạo ra khung pháp
lý tương đối hoàn thiện về an toàn hoạt động NH. NHNN là cơ quan duy nhất chịu trách
nhiệm giám sát an toàn hoạt động NH.
Về giám sát vĩ mô, NHNN đã ban hành Quyết định 457 và Quyết định 493 qui định về
các tỷ lệ an toàn, về phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro trong hoạt động của TCTD,
trong đó Quyết định 493 đã tiến dần đến những đánh giá mang các yếu tố định tính và dự
phòng được chia thành dự phòng chung và dự phòng cụ thể đã hướng tới khuôn khổ thuộc
dự phòng theo Basel II.
Điều 51 Luật NHNN 2010: “Kết hợp TTGS việc chấp hành chính sách, pháp luật về
tiền tệ và NH với TTGS rủi ro trong hoạt động của đối tượng TTGS NH” có hiệu lực từ
tháng 1/2011 là cơ sở để ta tiến dần đến phương pháp giám sát rủi ro.
17
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG CÁC QUY
ĐỊNH VỀ THANH TRA, GIÁM SÁT TẠI MỘT SỐ
NGÂN HÀNG Ở VIỆT NAM
2.1. Thực trạng giám sát NH Việt Nam

2.1.1. Công tác giám sát của NHNN
Khác với tổ chức kinh doanh trong lĩnh vực khác, kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ
cần phải được kiểm soát và điều tiết chặt chẽ bởi vì: Về mặt lý luận, hệ thống tín dụng và thị
trường tài chính có tính hai mặt: tích cực và tiêu cực. Mặt tích cực là làm cho sản xuất phát
triển mạnh, nhanh chóng nhưng mặt tiêu cực cũng không kém: nó là đòn bẩy mạnh nhất gây
ra tình trạng sản xuất thừa và đầu cơ quá mức gây ra các cuộc khủng hoảng tài chính. Hệ
thống tài chính Việt Nam chủ yếu dựa vào hệ thống NH, nhất là NH quốc doanh.
Chính vì thế mà yêu cầu TTGS hệ thống NH càng phải đẩy mạnh và để thị trường tài
chính của Việt Nam hay hệ thống NH là đại diện chủ chốt thật sự minh bạch, hoạt động an
toàn và hiệu quả. Đặc biệt là các khoản nợ xấu, khó đòi, nhất là khoản vay của doanh nghiệp
nhà nước. Điều này sẽ ảnh hưởng đến cả nền kinh tế Việt Nam. Điều này đặt ra vấn đề
TTGS NH cũng cần phải khách quan với thực tế.
Trong những năm vừa qua hoạt động giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ có nhiều
bước tiến về mặt lý luận nguyên tắc và thực tiễn hoạt động. Đối với giám sát từ xa, ở Việt
Nam hiện nay phương thức nay chỉ mới được nghiên cứu và xúc tiến mạnh gần đây. Chủ
yếu cũng chỉ dựa trên các thông tin mà NH cung cấp, nên chưa thật chính xác, minh bạch và
khách quan, tạo cơ sở cho những dự báo cho TCTD và nền kinh tế nói chung. Năm 2009 Hệ
thống giám sát an toàn vi mô theo phương pháp CAMELS nhằm giám sát đối với các TCTD
riêng lẻ; hệ thống giám sát an toàn vĩ mô thực hiện giám sát rủi ro, nguy cơ TCTD; kiểm
soát khủng hoảng và sự cố trong hoạt động NH
18
Trong năm 2010 theo Báo cáo thường niên NHNN, Dự án “Xây dựng hệ thống thông
tin hỗ trợ hoạt động giám sát từ xa” đã được tập trung triển khai; các mẫu báo cáo, chỉ tiêu
phân tích, đánh giá nghiên cứu sửa đổi, bổ sung nâng cao chất lượng TTGS NH, từng bước
thực hiện mục tiêu cảnh báo sớm rủi ro cho các TCTD. Là tiền đề cho sự đổi mới căn bản
hoạt động giám sát
Phương thức thanh tra tại chỗ: Trong năm 2010 NHNN tiến hành hơn 1500 cuộc
thanh tra, kiểm tra, tập trung vào các nội dung chính sau:
(1) Thanh tra, kiểm tra các TCTD trong việc cho vay hỗ trợ lãi suất;
(2) Thanh tra cho vay theo lãi suất thỏa thuận phục vụ đời sống và cho vay qua thẻ tín

dụng;
(3) Thanh tra hoạt động mua bán, thu hồi ngoại tệ, sàn vàng;
(4) Thanh tra tín dụng, bảo lãnh; kiểm tra kiểm soát nội bộ; quản trị và điều hành;
(5) Thanh tra việc huy động vốn, khuyến mại tiền điện tử và thu phí cho vay bằng
VND;
(6) Quỹ đầu tư, tiết kiệm bưu điện, quỹ tín dụng nhân dân, Hợp tác xã;
(7) Quản ký ngoại hối, QTD nhân dân Trung ương và cơ sở;
(8) Thanh tra hành chính, giải quyết khiếu nại tố cáo…
(9) Lập các tổ công tác tiếp xúc làm việc với TCTD nắm bắt kịp thời các vấn đề của
TCTD, cũng như các vấn đề phát hiện qua giám sát cho TCTD để phòng tránh và hạn chế
rủi ro…
Ở Việt Nam hoạt động thanh tra tại chỗ của NHNN đối với NHTM thực sự được chú
trọng từ khi pháp lệnh thanh tra và pháp lệnh NH ra đời. Trong điều kiện các phương tiện và
việc xây dựng các tiêu chí cho việc giám sát từ xa còn bị hạn chế, các NHTM chưa xây
dựng cho mình được một hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ hữu hiệu thì phương thức
thanh tra, kiểm tra tại chỗ vẫn có vai trò quan trọng trong việc phát hiện sai phạm và ngăn
ngừa rủi ro trong hoạt động NH
2.1.2. Đánh giá công tác giám sát của NHNN:
Có thể thấy hoạt động TTGS của NHNN đã có nhiều đổi mới và đang trong quá trình
củng cố, hoàn thiện. Từ khi thành lập tới nay, hoạt động TTGS NHTM đã đạt được một số
19
thành tựu quan trọng: Khuôn khổ pháp lý về TTGS hệ thống NH ngày càng được hoàn
thiện, nâng cao. Từng bước xây dựng được nội dung giám sát theo kịp với sự phát triển của
hoạt động NH và các yêu cầu của thông lệ quốc tế. Tổ chức giám sát được thực hiện qua cả
hai nội dung giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ. Những tiến bộ bước đầu trong hoạt động
TTGS đã góp phần đảm bảo an toàn cho hệ thống các TCTD nói chung và NHTM nói riêng,
đã phát hiện nhiều vụ việc tiêu cực, vi phạm pháp luật, yếu kém về tài chính, tổ chức, quản
trị hoạt động kinh doanh của các NHTM…
Bên cạnh những kết quả thu được đó, hoạt động TTGS hệ thống NH cũng biểu hiện
những yếu kém, lỗ hổng trong hoạt động.

Về cơ cấu tổ chức
- Cơ cấu phân tán gây chồng chéo trách nhiệm, quyền hạn giữa các bộ phận.
- Chức năng giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ thuộc trách nhiệm của Thanh tra
NHNN, nhưng các Vụ khác trong NHNN cũng thực hiện chức năng giám sát từ xa
- Nhiệm vụ phát hiện các vi phạm, sai phạm của các NHTM là nhiệm vụ của Cơ quan
TTGS NH, trong khi nhiệm vụ xử lý các sai phạm lại do các Vụ, Cục khác trong NHNN
đảm nhiệm, nên hiệu lực của hoạt động TTGS còn hạn chế.
- Các Vụ, Cục chức năng thuộc NHNN chịu trách nhiệm ban hành các quy định về
chính sách và quy định an toàn cho hoạt động NH theo chức năng của đơn vị mình. Thanh
tra NHNN chịu trách nhiệm giám sát thực hiện các quy định an toàn. Do cơ quan ban hành
các quy định an toàn và cơ quan giám sát là hai đơn vị độc lập, vì thế đôi khi có những bất
đồng giữa việc hiểu và áp dụng các quy định giữa đơn vị ban hành quy định và đơn vị TTGS
- Cơ chế phối hợp giữa cơ quan TTGS Trung ương với cơ quan Thanh tra tại các địa
phương chưa được hoàn toàn thực hiện theo cơ chế chiều dọc. Chưa có sự phân định trách
nhiệm một cách rõ ràng về phạm vi hoạt động, chương trình làm việc, các kênh thông tin
báo cáo, chia sẻ thông tin, những vấn đề về TTGS NH trên cơ sở hợp nhất
Về mục tiêu hoạt động TTGS: Có sự mất cân bằng giữa các mục tiêu của việc giám
sát, thanh tra. Mục tiêu tăng cường sự nhận thức của công chúng và bảo vệ khách hàng cần
được cải thiện.
20
Phương pháp TTGS NH: Phương pháp thanh tra tuân thủ không còn phù hợp khi hệ
thống NH ngày càng phát triển như hiện nay. Bởi phương pháp này không giúp thanh tra
đánh giá, đo lường và giảm thiểu rủi ro của các TCTD-mục đích chính của các hoạt động
TTGS. Phương pháp này không khuyến khích việc phát triển khả năng và kinh nghiệm của
các thanh tra trong việc đánh giá, đo lường rủi ro và đề xuất biện pháp giảm thiểu.
Hiện nay, Cơ quan TTGS đã tiến hành xây dựng và thực hiện phương pháp đánh giá
năng lực tài chính theo các tiêu chí đối với các TCTD như là một bước trung chuyển để tiến
tới thực hiện phương pháp TTGS dựa trên rủi ro. Phương pháp giám sát dựa trên rủi ro là
phương pháp giám sát mà hiện nay hầu hết các thị trường tài chính phát triển đang áp dụng.
Trên cơ sở các điều kiện dần dần được hội tụ đủ, phương pháp giám sát sẽ chuyên dần từ

giám sát theo CAMELS sang phương pháp giám sát dựa trên rủi ro trong khi vẫn đảm bảo
tính kế thừa và phát triển.
Khung pháp lí đối với hoạt động của thanh tra NH:
- Khung pháp lý ở Việt Nam hiện nay chưa có quy định bảo vệ đối với đội ngũ TTGS
khi thực hiện nhiệm vụ của họ một cách đúng đắn và hợp lý.
- Các quy định để hỗ trợ áp dụng phương pháp thanh tra trên cơ sở rủi ro đến nay vẫn
chưa có, như các quy định về các loại rủi ro, cơ chế đánh giá, đo lường rủi ro mà hiện các
TCTD đang phải đương đầu và thực tế các TCTD đã phải chịu những tổn thất như rủi ro
hoạt động, rủi ro thị trường, rủi ro công nghệ , các quy định về quản trị rủi ro nội bộ của
TCTD.
- Các quy định làm nền tảng cho hoạt động thanh tra hiện nay cũng chưa được ban
hành đầy đủ như quy trình thanh tra phúc tra, giải quyết khiếu nại, các quy định đảm bảo lợi
ích vật chất và tinh thần cho các cán bộ thanh tra về cả ngắn và dài hạn để họ an tâm phấn
đấu và chuyên tâm với nghề.
- Hoạt động của TCTD được điều chỉnh bởi nhiều văn bản pháp luật và dưới luật.
Tuy nhiên hệ thống này lại thiếu tính đồng bộ, căn cứ để kết luận vi phạm không đầy đủ,
chặt chẽ
Chất lượng đội ngũ TTGS:.
21
- Trong bộ phận TTGS NH chưa có nhiều chuyên gia sâu về lĩnh vực NH hay những
người có kinh nghiệm thực tiễn trong hoạt động NH lâu năm, điều này tất yếu ảnh hưởng
đến chất lượng TTGS.
- Hạn chế trong việc đào tạo dẫn đến đội ngũ thanh tra chỉ mới dừng ở mức độ tuân
thủ của NH với các quy định pháp lý chứ chưa đi sâu đánh giá hoạt động NH dựa trên kỹ
năng xác định rủi ro. Trình độ cán bộ thanh tra còn nhiều bất cập trong khi hoạt động NH
ngày càng đa dạng, phức tạp được thực hiện bởi công nghệ hiện đại làm hạn chế không ít
đến chất lượng TTGS.
Quá trình TTGS hệ thống NH với những lỗ hổng như vậy đã khiến hệ thống NH hiện nay
ngày càng phức tạp, rủi ro và không an toàn.
2.1.3 Hoạt động TTGS các

N
H
T
M
Hiện tại, thị trường tài chính Việt Nam đã hình thành đầy đủ cả 3 bộ phận là thị
trường
tín

dụng
- NH, thị trường bảo hiểm và thị trường chứng khoán. Vì vậy, giám sát
thị trường
tài
chính Việt Nam bao hàm hoạt động giám sát cả 3 thị trường
này.
Giám sát thị trường tài chính ở Việt Nam hiện được thực hiện theo mô hình phân
tán:
- Các TCTD: do NHNN, Bộ Tài chính và Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam có trách
nhiệm TTGS. Tại Bộ Tài chính và NHNN, công tác giám sát cũng được thực hiện bởi
nhiều
vụ,

cục.
- Lĩnh vực bảo hiểm, chứng khoán: chịu sự kiểm tra, giám sát của Bộ Tài chính.
- Ngoài ra, các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) trong lĩnh vực bảo hiểm, các công
ty
chứng
khoán trực thuộc NHTM Nhà Nước: chịu sự giám sát của cơ quan Kiểm toán
Nhà
nước.
Công tác TTGS thực hiện thông qua 2 phương thức: giám sát từ xa và thanh tra

tại
chỗ.
- Hoạt động giám sát từ xa: Đ
ược
thực hiện thông qua việc thu thập và xử lý các số
liệu báo
cáo
của TCTD để đánh giá việc thực hiện các chỉ tiêu an toàn cơ bản trong hoạt
động NH
;
đồng thời tổng hợp đánh giá chung hoạt động của cả hệ thống các TCTD
phục vụ cho
sự

chỉ
đạo, điều hành toàn ngành của Thống đốc NHNN. Hiện nay hoạt
động giám sát từ
xa
được tiến hành hàng tháng và được thực hiện qua mạng máy tính.
- Hoạt động thanh tra tại chỗ: Đ
ây
là hoạt động kiểm tra trực tiếp của Thanh tra
NH tại các TCTD thông qua các đoàn thanh tra. Hàng năm Thanh tra NH xây
dựng
22
chương trình kế hoạch thanh tra trình Thống đốc phê duyệt và xây dựng đ

cương chi
tiết
chỉ đạo toàn hệ thống triển khai thực

hiện.
Trong thời gian vừa qua, hoạt động TTGS của NHNN đã được từng bước
được
đổi mới trên cơ sở các thông lệ và chuẩn mực quốc tế về quản trị rủi ro và giám sát an
toàn hoạt
động
NH. Cụ thể: NHNN cũng đã có những quy định, thông tư về việc yêu
cầu
các

NH
phải đảm bảo duy trì tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu là 8% và 10% (đối với
TCTC có quy mô nhỏ), và đồng thời cũng quy định về việc NHNN có thể yêu cầu các
TCTC duy trì các tỷ lệ bảo
đảm
an toàn cao hơn mức quy định, căn cứ vào kết quả
thanh tra, kiểm tra của cơ quan TTGS NH
.
Tuy nhiên, công tác TTGS các TCTC vẫn còn nhiều bất
c

p
:
- Bộ máy giám sát tài chính NH tại Việt Nam chưa được xây dựng đồng bộ và
hiệu
quả để đảm bảo giảm thiểu rủi ro. Hiện nay, NHNN Việt Nam chưa
được
chuyển
đổi hoạt động theo mô hình NH Trung ương. Thanh tra NH
được


giao
thực hiện một số
hoạt động giám sát an toàn hệ thống NH trong khi vẫn

chức năng thanh tra chuyên
ngành như mọi cơ quan thanh tra trong các Bộ, cơ
quan

ngang
bộ khác.
Đ
ây
là một
trong những nguyên nhân dẫn đến hạn chế việc thực thi có
hiệu
quả chính sách giám
sát NH
.
- Mô hình tổ chức, cơ chế giám sát của Việt Nam là phân tán nhưng rất chồng chéo,
làm
giảm hiệu quả công tác giám sát, gây khó khăn cho các định chế tài chính. Cụ thể:
Việc
phân định chức năng, phối
hợp
nghiệp vụ và trao đổi thông tin giữa các cơ quan
thực hiện giám sát chưa được
quy

định

cụ thể gây khó khăn trong quá trình tác nghiệp,
hoạt động chồng
chéo.
- Quy chế giám sát còn chưa đồng bộ, nhiều quy định chưa phù hợp với thông lệ
quốc
tế.
- Năng lực cán bộ so với yêu cầu quản lý mới còn khoảng cách đáng
kể.
Năng lực phát hiện, xử lý vi phạm còn hạn chế, trong khi chế tài xử lý vi phạm
chưa
đủ
mạnh. Chính vì vậy, đã không hiếm trường hợp các thành viên tham gia thị
trường
“chủ
động” vi phạm và chịu phạt để thu được khoản lợi nhuận nhiều hơn mức
thiệt hại do bị
phạt.
- Tình trạng nhiều “lượng”, nhưng “chất” ít, thậm chí giẫm chân lên nhau cũng
đang
khiến
hệ thống giám sát thị trường tài chính bộc lộ nhiều “lỗ hổng” đáng lo
ngại.
- Phương pháp TTGS đang từng bước được đổi mới nhưng chưa đáp ứng
được
yêu
23
cầu quản lý. Kiểm tra tại chỗ, thanh tra tuân thủ vẫn là nội dung hoạt động chủ
yếu,
khả năng giám sát toàn bộ thị trường tiền tệ, cảnh báo sớm và ngăn ngừa rủi ro còn
yếu.

- Kiểm toán nội bộ chưa phát huy được vai trò, trong nhiều trường hợp chỉ là hình
thức
- Khuôn khổ thể chế, pháp lý chưa thích ứng được với sự thay đổi mạnh mẽ của môi
trường
hoạt động thị trường tài
chính.
Hiện công tác TTGS NH tại Việt Nam chưa đáp ứng được yêu cầu của
Trụ
cột II
trong Hiệp ước quốc tế Basel
II.
2.2 Đối chiếu Giám sát NH Việt Nam và những hạn chế
2.2.1 Hệ thống Basel và những hạn chế Giám sát NH Việt Nam
Theo Luật TCTD, Luật NHNN và các quyết định liên quan (QĐ 457 và QĐ 493…)
đến hoạt động giám sát thì NHNN mới chỉ được các tổ chức quốc tế đánh giá là thực hiện
tốt và có quy định rõ ràng cách tính tỷ lệ giữa vốn tự có so với tổng tài sản “Có” rủi ro (phụ
lục QĐ 457); đồng thời, quy định mức tỷ lệ tối thiểu cần thiết đối với một NHTM là 8%
theo như thông lệ quốc tế. Theo đó, NHNN cũng đã có những kết quả trong việc giám sát sự
tuân thủ của các NHTM trong việc đảm bảo tỷ lệ an toàn này, giám sát được những NHTM
24
không đảm bảo được yêu cầu về tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu và có những yêu cầu về thời hạn
tối đa phải tăng tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu bằng mức quy định.
Ngoài ra, các yêu cầu khác liên quan đến việc giám sát khả năng quản trị các loại rủi
ro của NHTM thì NHNN vẫn chưa xây dựng được những văn bản pháp lý phản ảnh những
yêu cầu này. Các nội dung đưa ra trong quyết định mới chỉ giám sát mang tính định lượng
mà chưa có những nhận định mang tính định tính về mức độ rủi ro và khả năng quản trị rủi
ro của NHTM. Ví dụ như các tiêu chí để đánh giá rủi ro tín dụng của một NHTM mới chỉ
được thể hiện trong nội dung giám sát chất lượng tài sản Có thông qua việc thống kê các
khoản nợ quá hạn, trong việc giám sát giới hạn tín dụng của NHTM. Tuy nhiên, điều này là
chưa đủ để đánh giá mức độ rủi ro tín dụng của NHTM vì cần phải có thêm những đánh giá

định tính khác như đánh giá các tiêu chuẩn cấp tín dụng và quá trình xem xét tín dụng của
NH, đánh giá mức độ công bằng trong cấp tín dụng…
Nhiều NHTM chưa có khái niệm về việc xây dựng chiến lược tín dụng tổng thể và kế
hoạch khả thi để thực hiện chiến lược này, điều này ảnh hưởng sâu sắc đến việc phát triển
nguồn nhân lực và ưu tiên đầu tư chiều sâu để tạo vị thế cạnh tranh cho từng NH. Các
NHTM chưa xác định được chính xác mức độ rủi ro hiện có và rủi ro tiềm ẩn do một số hạn
chế như phân loại nợ theo tiêu chí định lượng là chủ yếu, dẫn đến tỷ lệ nợ xấu chưa phản
ánh đúng chất lượng tín dụng thực tế. Hệ thống quản trị thông tin còn yếu, chưa hỗ trợ việc
phân tích chất lượng tín dụng, chưa lượng hóa được rủi ro tín dụng của các đối tác thanh
toán, chưa đánh giá thường xuyên năng lực của cán bộ tín dụng và mức độ ảnh hưởng đến
chất lượng tín dụng. Nhiều NHTM đã xây dựng cẩm nang tín dụng nhưng chưa có cơ chế
kiểm tra, giám sát hiệu quả việc thực hiện cẩm nang này. Hệ thống xếp hạng tín dụng là cốt
lõi của hệ thống quản trị rủi ro tín dụng, nhưng chưa nhiều NH xây dựng hệ thống này để hỗ
trợ việc thẩm định hay áp dụng chính sách khách hàng, giám sát khách hàng, phân loại nợ
trên cơ sở kết hợp phân tích yếu tố định tính và định lượng theo thông lệ quốc tế.
Từ đó, hoạt động giám sát của NHNN vẫn chưa hoàn toàn đáp ứng được các yêu cầu
trong 25 nguyên tắc giám sát của Basel. Các nguyên tắc giám sát của Basel hiện nay vẫn
đang được coi là tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả hoạt động giám sát NH của các quốc gia.
2.2.2 Những nội dung đã thực hiện
đư

c
Theo Quyết định
457/2005/QĐ
– NHNN ngày 19/04/2005, được sửa đổi bổ sung
25
bằng
Quyết
định
03/2007/QĐ-NHNN

ngày 19/01/2007 và Quyết
định

34/2008/QĐ-
NHNN
ngày 05/12/2008, NHNN quy định
các
NHTM phải thực hiện các yêu cầu
sau:
- Thứ nhất, các TCTD (trừ chi nhánh NH nước ngoài) phải duy trì tỷ lệ tối thiểu
8
%
giữa vốn tự có so với tổng tài sản
"Có" rủi ro.
Trong đó: vốn tự có bao gồm vốn
cấp 1,
vốn
cấp 2 và các khoản phải loại trừ khỏi vốn tự có; tổng tài sản “Có” rủi ro là
tổng
tài sản “Có” nội bảng và tài sản “Có” ngoại bảng được điều chỉnh theo hệ số rủi ro.
Hệ số rủi
ro
cho tài sản “Có” nội bảng gồm 4 nhóm là 100%, 50%, 20%


0%.
- Thứ hai, các NHTM phải tuân theo các giới hạn tín dụng: tổng dư nợ cho vay đối
với
một
khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có, và tổng dư nợ cho vay đối với

một
nhóm
khách hàng có liên quan không vượt quá 50% vốn tự
có.
- Thứ ba, các NH phải thường xuyên đảm bảo tỷ lệ về khả năng chi
trả:
tối thiểu
25%
giữa giá trị các tài sản "Có" có thể thanh toán ngay và các tài sản "Nợ" sẽ đến hạn
thanh
toán
trong thời gian 1 tháng tiếp theo, và tối thiểu bằng 100% giữa tổng tài sản
“Có” có thể
thanh
toán ngay và tổng tài sản Nợ phải thanh toán trong khoảng thời gian
7 ngày làm việc
tiếp

theo.
- Thứ tư, NH phải đảm bảo tỷ lệ của nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để cho
v
a
y
t
r
un
g
hạn và dài hạn tối đa là
40
%

.
Thông qua bốn quy định trong Quyết định 457, nhận
thấy:
- Quy định thứ nhất, thứ hai và thứ tư đề cập đến rủi ro tín dụng, quy định thứ ba
đề
cập
đến rủi ro thanh khỏan. Chưa có quy định nào đề cập đến rủi ro hoạt động và rủi
ro
thị

trường.
- NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn chuẩn đối với các NH là 8%,

tỷ lệ này cũng
được xác định dựa trên tổng vốn và tài sản có rủi ro, tương tự như quy
định

của
Basel
I.
- Cách xác định vốn yêu cầu tối thiểu cho rủi ro tín dụng theo QĐ

457 theo cách
tính
của
Basel I: Tài sản có rủi ro = tài sản * hệ số rủi ro. Trong đó, hệ số rủi ro chỉ
căn cứ
vào
khoản mục tài sản, chưa căn cứ vào đối tượng khách hàng, và không dựa trên
các căn

cứ
xếp hạng tín dụng. Điều này có thể dẫn đến sự đánh giá không thật sự là chính
xác.
Ví dụ như cùng là khoản cho vay không đảm bảo bằng tài sản của một doanh nghiệp
được
xếp hạng rất uy tín trên thị trường và của một doanh nghiệp được đánh giá rất rủi
ro,

theo


457/2005, hệ số rủi ro tính là như nhau đều là 100%. Đ
ây
là một trong những
nhược
điểm của QĐ
457.
Như vậy, quy định về an toàn vốn tối thiểu
trong
Quyết định 457 gần như chỉ mới

×