LỜI MỞ ĐẦU
Sau khi Nhà nước bồi thường cho cá nhân bị thiệt hại do hành vi trái pháp
luật của người thi hành công vụ gây ra, trách nhiệm hoàn trả của cán bộ công
chức có hành vi trái pháp luật. Vậy pháp luật đã quy định mức hoàn trả của cán
bộ công chức vi phạm tới đâu? Dựa trên căn cứ nào?
Để tìm hiểu rõ hơn về các quy phạm này em đã quyết đinh lựa chọn đề bài số
9: “Anh A là cán bộ của cơ quan quản lý hành chính X; anh đã gây thiệt hại với
lỗi cố ý trong quá trình thực hiện nhiệm vụ được cơ quan giao. Sau khi bồi
thường thiệt hại, cơ quan yêu cầu anh A phải hoàn trả cơ quan toàn bộ số tiền cơ
quan đã chi ra cho người bị thiệt hại trong thời hạn một tháng kể từ ngày cơ
quan đã thực hiện nghĩa vụ chi trả cho người bị thiệt hại. Anh( chị ) hãy tư vấn
cho anh A về tính hợp pháp của những yêu cầu trên.”Để hoàn thiện bài tấp lớn
học kỳ của mình.
Bài tiểu luận của em gồm có 3 phần: lời mở đầu, nội dung và kết luận. Trong
đó phần nội dung được chia thành 2 phần chính
I) Cơ sở pháp lý của việc hoàn trả
II) Quyền và nghĩa vụ của A trong việc hoàn trả
Bài viết của em chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Em mong nhận được sự chỉ
bảo, góp ý của thầy cô để có thể hoàn thiện thêm bài làm của mình!
Em xin chân thành cảm ơn!
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT.
TNBTNN: Trách nhiệm bồi thường Nhà nước
1
NỘI DUNG
I) Cơ sở pháp lý của việc hoàn trả
1) Về trách nhiệm hoàn trả của cơ người thi hành công vụ
Khoản 1 Điều 56 Luật TNBTNN 2010 có quy định về trách nhiệm hoàn trả
của người thi hành công vụ như sau:“ Người thi hành công vụ có lỗi gây ra thiệt
hại có nghĩa vụ hoàn trả cho ngân sách nhà nước một khoản tiền mà Nhà nước
đã bồi thường cho người bị thiệt hại theo quyết định của cơ quan có thẩm
quyền.” Nghĩa vụ hoàn trả của người thi hành công vụ dựa trên yếu tố lỗi của
họ. Trong một số trường hợp người thi hành công vụ không có trách nhiệm hoàn
trả do họ không vi phạm lỗi cố ý. Cụ thể như quy định tại khoản 2 Điều 56 Luật
TNBTNN “Người thi hành công vụ có lỗi vô ý gây ra thiệt hại quy định tại Điều
26 của Luật này không phải chịu trách nhiệm hoàn trả.” Như vậy, nếu cán bộ
công chức gây thiệt hại với lỗi vô ý trong hoạt động tố tụng hình sự thì người
gây thiệt hại sẽ không phải hoàn trả cho Nhà nước số tiền Nhà nước đã bỏ ra để
bồi thường cho người bị thiệt hại. Đây là quy định gắn trách nhiệm của người có
hành vi trái pháp luật gây thiệt hại với thiệt hại do mình gây ra. Tránh tình trạng
“ lộng quyền” làm mà không cần biết tới hậu quả, gây bức xúc trong xã hội. Đây
cũng là quy định cần thiết để răn đe những người có ý định lợi dụng chức quyền
để gây thiệt hại cho người khác.
Theo dữ kiện đầu bài đưa ra anh A đã gây thiệt hại với lỗi cố ý trong hoạt
động quản lý Nhà nước( đây không phải là trường hợp cán bộ không phải chịu
trách nhiệm bồi thường theo luật TNBTNN 2010).Cơ quan X có trách nhiệm gửi
hồ sơ đề nghị bồi thường tới cơ quan hành chính cùng cấp chứ không phải bỏ
kinh phí của cơ quan để bồi thường cho hành vi của A. Cụ thể “Trong thời hạn
05 ngày làm việc, kể từ ngày bản án, quyết định giải quyết bồi thường có hiệu lực
pháp luật, cơ quan có trách nhiệm bồi thường phải chuyển ngay hồ sơ đề nghị
bồi thường đến cơ quan tài chính cùng cấp; trường hợp là cơ quan hưởng kinh
2
phí từ ngân sách trung ương thì chuyển hồ sơ đến cơ quan quản lý cấp
trên”( khoản 1 Điều 54 Luật TNBTNN 2010). Sau đó, cơ quan X sẽ có trách
nhiệm thu tiền hoàn trả của A và nộp đầy đủ, kịp thời toàn bộ khoản tiền hoàn
trả vào ngân sách nhà nước khi A hoàn trả. Việc quản lý, sử dụng tiền hoàn trả
này thực hiện theo quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước. Như vậy, thực
tế, cơ quan X chỉ là trung gian để yêu cầu A hoàn trả khoản tiền bồi thường vào
ngân sách nhà nước.
2) Về mức hoàn trả
Khoản 1 Điều 57 luật TNBTNN 2010 quy định căn cứ xác định mức hoàn
trả bao gồm:
“a) Mức độ lỗi của người thi hành công vụ;
b) Mức độ thiệt hại đã gây ra;
c) Điều kiện kinh tế của người thi hành công vụ.
Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao quy
định việc xác định mức hoàn trả của người thi hành công vụ.”
Và theo quy định chi tiết tại Điều 16 Nghị định 16/2010/NĐ-CP mức hoàn trả
được xác định . “Trường hợp người thi hành công vụ có lỗi cố ý gây ra thiệt hại,
nhưng chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự, thì cơ quan có trách nhiệm
bồi thường căn cứ vào mức độ thiệt hại gây ra, điều kiện kinh tế của người đó để
quyết định họ phải hoàn trả một khoản tiền nhất định, nhưng tối đa không quá 36
tháng lương của người đó tại thời điểm quyết định việc hoàn trả.
Trường hợp người thi hành công vụ có lỗi cố ý gây ra thiệt hại mà bị truy
cứu trách nhiệm hình sự do việc thực hiện hành vi trái pháp luật gây ra thiệt hại
đó thì phải hoàn trả theo quy định tại Điều 18 của Nghị định này”
Theo quy định trên anh A sẽ phải hoàn trả một khoản tiền cụ thể dựa trên
một số yếu tố như mức độ thiệt hại thực tế xảy ra do hành vi của A gây ra. Thật
ra quy định này mang tính chất rất chung chung ví dụ như một người bị thu hồi
giấy chứng nhân đăng ký kinh doanh trái pháp luật ( thuộc phạm vi bồi thường
3
nhà nước trong lĩnh vự quản lý hành chính quy định tại khoản 5 Điều 13 Luật
TNBT NN 2010) do đó người này không được kinh doanh trong một khoản thời
gian, tiền vốn họ bỏ ra không thể thu hồi, nợ ngân hàng không thể trả thêm vào
đó là những người đầu tư cho họ cũng gặp rủi ro. Vậy thiệt hại thực tế sẽ được
tính tới đâu. Đây là vấn đề mà Luật TNBTNN còn thiếu những điều chỉnh cụ
thể. Theo em, nếu đứng về phía Nhà nước thì có lẽ chỉ nên quy định xác định
thiệt hại thực tế chỉ dừng ở những thiệt hại liên quan trực tiếp tới người bị thiệt
hại chính.
Căn cứ vào hoàn cảnh thực tế của người gây thiệt hại để xác định mức hoàn
trả. Tức là, dựa vào hoàn cảnh của gia đình anh A mà cơ quan X sẽ được đưa ra
mưc bồi thường sao cho phù hợp nhất. Đây là quy định phù hợp với thực tế bởi
vì công chức thực hiện công vụ vì lợi ích của Nhà nước và nó luôn tiềm ẩn
những rủi ra rất lớn do vai trò quan trọng của Nhà nước. Nếu quy định bản thân
người thi hành công vụ phải hoàn trả toàn bộ số tiền cơ quan Nhà nước đã bỏ ra
để bồi thường cho người bị thiệt hại thì cõ lẽ đội ngũ cán bộ công chức sẽ ngày
càng ít đi vì mối lo làm không đủ để trả nợ.
Mức bồi thường do hành vi của cán bộ công chức gây ra có thể rất lớn
nhưng để đảm bảo cho cán bộ có thể an tâm công tác nhà nước đã quy định hạn
mức tối đa không quá 36 tháng lương của người đó tại thời điểm quyết định việc
hoàn trả. Như vậy tối đa công chức sẽ phải chịu gần như 3 năm làm không có
lương. Quy định này vừa đủ tính răn đe đối với người có hành vi trái pháp luật
nhưng vẫn thể hiện được trách nhiệm của nhà nước đối với cán bộ của mình.
Cơ quan X yêu cầu A hoàn trả toàn bộ số tiền để bồi thường thiệt hại là quy
định quá chung chung, không xác định được cơ quan X có dựa trên các quy định
của pháp luật bồi thường Nhà nước để đưa ra yêu cầu hay không. Chúng ta có
thể thấy yêu cầu này trong một số trường hợp sẽ là không hợp lý. Ví dụ như:
Trường hợp 1: Gia đình A rất khó khăn, A là lao động chính trong nhà, có
thêm 2 người phụ thuộc. Mặc dù để giải quyết vấn đề này nhà nước đã quy định
mức trừ tối thiểu và tối đa vào lương của cán bộ, công chức. Nhưng nếu khoản
4
tiền vượt quá nhiều so với mức trừ tức là thời gian trừ là quá lớn sẽ dẫn tới cuộc
sống A khó khăn trong một thời gian rất dài.
Trường hợp 2: Nếu số tiền đó lớn hơn 36 tháng lương của A tại thời điểm
quyết định việc hoàn trả. Mà cơ quan X lại yêu cầu A hoàn trả toàn bộ thì sẽ vi
phạm quy định tại Điều 16 Nghị định 16/2010/NĐ-CP.
3) Về thủ tục ban hành quyết định hoàn trả
A sẽ phải thực hiện nghĩa vụ hoàn trả sau khi có quyết định việc hoàn trả.
Quyết định hoàn trả sẽ phải làm rõ một số vấn đề như mức hoàn trả cụ thể đối
với A, thời gian, cách thức hoàn trả.Quyết định này sẽ phải tuân theo các quy
đinh, trình tự cụ thể được quy định tại Điều 58 Luật TNBTNN 2010
“1. Trong thời hạn 20 ngày, kể từ ngày đã thực hiện xong việc chi trả tiền
bồi thường, cơ quan có trách nhiệm bồi thường phải thành lập Hội đồng xem xét
trách nhiệm hoàn trả để xác định trách nhiệm hoàn trả, mức hoàn trả đối với
người thi hành công vụ đã gây ra thiệt hại. ..
Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao quy
định việc thành lập, thành phần, nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng xem xét trách
nhiệm hoàn trả của người thi hành công vụ.
2. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày đã thực hiện xong việc chi trả tiền bồi
thường, người có thẩm quyền quy định tại Điều 59 của Luật này phải ban hành
quyết định hoàn trả. Quyết định hoàn trả phải được gửi đến người có nghĩa vụ
hoàn trả, cơ quan cấp trên trực tiếp của cơ quan có trách nhiệm bồi thường.”
Việc thành lập Hội đồng để xem xét trách nhiệm hoàn trả của A là rất cần
thiết. Hội đồng này sẽ cân nhắc mức hoàn trả của A dựa trên những quy định
của pháp luật cũng như hoàn cảnh của A. Sau khi có kết luận của Hội đồng, phải
có quyết định hoàn trả được gửi đến cho A và cơ quan cấp trên của cơ quan X.
Quyết định hoàn trả phải do người có thẩm quyền ban hành. Điều 59 Luật
TNBTNN quy định những người có thẩm quyền ban hành quyết định hoàn trả
bao gồm:
5