Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Căn bệnh Hà Lan và nguy cơ mắc phải ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (390.46 KB, 28 trang )

Căn bệnh Hà Lan và nguy cơ mắc phải ở Việt Nam
MỤC LỤC
Kinh tế phát triển – Nhóm 4 K10401 Trang 1
Căn bệnh Hà Lan và nguy cơ mắc phải ở Việt Nam
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
hi nhắc đến Hà Lan, chắc hẳn chúng ta sẽ nghĩ ngay đến một vương quốc
của hoa Tulip, cối xay gió và những cánh đồng rau quả bạt ngàn, một quốc
gia nhỏ bé nhưng rất thịnh vượng ở Tây Âu. Tuy nhiên, trong quá trình
phát triển kinh tế hàng trăm năm của mình, Hà Lan cũng đôi lần mắc phải những sai
lầm. Tiêu biểu một trong những sai lầm đó là vào những năm 60 của thế kỉ trước, khi
“Căn bệnh Hà Lan” - một “căn bệnh” của nền kinh tế xuất hiện và lây lan nhanh
chóng sang nhiều nước trong khu vực, gây ra hậu quả nghiêm trọng. Nó làm cho kinh
tế tăng trưởng nhanh chóng nhưng lại vô cùng mong manh, dễ vỡ và khiến chính phủ
các nước này phải đổ biết bao công sức để hồi phục lại nền kinh tế. Hiện nay, “Căn
bệnh Hà Lan” là một trong những trở ngại mà các nước đang phát triển hay vấp phải
do chính sách kinh tế thiếu khôn ngoan và cầu mong một sự tăng trưởng nhảy vọt
trong ngắn hạn.Do đó, không phải vô lý khi các nhà họach định chính sách hiện nay
luôn phải gắn liền tăng trưởng kinh tế với bền vững. Nếu chúng ta có thành ngữ “Của
thiên trả địa” thì các nhà kinh tế trên thế giới lại có thuật ngữ “Lời nguyền của tài
nguyên”, tức là những nước giàu tài nguyên thường có nền kinh tế kém phát triển, phụ
thuộc. Việt Nam, một nước được đánh giá là trong giai đọan phát triển khá nóng,đã
xuất hiện một vài biểu hiện của “Căn bệnh Hà Lan”. Vậy liệu ta có thể khéo léo tránh
được căn bệnh này, thoát được lời nguyền này hay chịu chung số phận với Hà Lan
những năm 1960, điều đó hoàn toàn phụ thuộc vào sự tỉnh táo và ứng xử khôn ngoan
của chúng ta. Chính từ những băn khoăn trên nhóm chúng em đã tiến hành tìm hiểu đề
tài tiểu luận “Căn bệnh Hà Lan – Nguy cơ mắc phải ở Việt Nam” để phân tích rõ hơn
“Căn bệnh Hà Lan” cũng như những nguy cơ tiềm ẩn của căn bệnh này ở nước ta hiện
nay, thời điểm nền kinh tế đang có nhiều bước đột phá nhanh chóng.
K
Khi thực hiện đề tài nhưng thiết nghĩ cũng không tránh khỏi những sai lầm và


thiếu sót. Vì vậy, tập thể nhóm rất mong nhận được những nhận xét góp ý chân thành
của Thầy và các bạn!
2. Đối tượng nghiên cứu:
- Lý thuyết “ Căn bệnh Hà Lan”
- Liên hệ thực tiễn Việt Nam và giáp pháp.
Kinh tế phát triển – Nhóm 4 K10401 Trang 2
Căn bệnh Hà Lan và nguy cơ mắc phải ở Việt Nam
3. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp thu thập thông tin.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, đánh giá, nhận xét, mô hình hóa…
4. Mục đích nghiên cứu:
Bài tiểu luận này sẽ giúp chúng ta có cái nhìn tổng quan hơn và hiểu rõ hơn về
“ Căn bệnh Hà Lan” của các nước đang phát triển và liên hệ thực tiễn Việt Nam thông
qua việc phân tích các lý thuyết. Từ đó có thể định hướng được một số giải pháp.
5. Kết cấu đề tài:
Ngoài phần mở đầu, kết luận bài tiểu luận còn có 4 chương :
- Chương 1: Giới thiệu về “ Căn bệnh Hà Lan”.
- Chương 2: Mô hình và tác động của “ Căn bệnh Hà Lan”.
- Chương 3: Các nước với “ Căn bệnh Hà Lan”.
- Chương 4: Liên hệ Việt Nam – thực tiễn, nguy cở mắc phải và giải pháp
phòng tránh.
Kinh tế phát triển – Nhóm 4 K10401 Trang 3
Căn bệnh Hà Lan và nguy cơ mắc phải ở Việt Nam
B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU VỀ “ CĂN BỆNH HÀ LAN”
1.1 Lịch sử ra đời “ Căn bệnh Hà Lan”
Trong suốt thời gian từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến những năm 1960,
Hà Lan đã đạt được sự thành công đáng kể trong hầu hết các lĩnh vực, nạn lạm phát ít
khi vượt quá 3% một năm. Tốc độ tăng GNP thường trên 5% và nạn thất nghiệp dao
động xung quanh tỉ lệ 1%. Bí quyết của những thành công này là ở chỗ khu vực xuất

khẩu truyền thống của nước nay có sức cạnh tranh mạnh so với những đối thủ của
mình trên toàn thế giới, như sản phẩm nông nghiệp và hàng điện tử.
Vào những năm 1960, trong quá trình thăm dò, các nhà địa chất đã phát hiện
một nguồn khí đốt với trữ lượng rất lớn ở vùng biển Bắc. Chính phủ Hà Lan đã quyết
định khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên này, từ năm 1973 đến năm 1978 Hà Lan
xuất khẩu một lượng khí đốt lớn làm tăng 10% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu và
tăng 4% GNP. Nhờ việc khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên, tự nhiên, Hà Lan có
thêm một khoản trời cho (Winfall) rất lớn. Chính phủ Hà Lan đã tăng chi tiêu ngân
sách, đầu tư vào nhiều lĩnh vực kém hiệu quả, sản xuất hàng hoá phi ngoại thương
không có sức cạnh tranh thay vì tiếp tục tập trung đầu tư cho nông nghiệp và điện tử…
Nhưng khi nguồn khí đốt được khai thác hết, nguồn tiền không đủ để đáp ứng những
nhu cầu chi tiêu của quốc gia, cầu trong nước giảm, đồng thời nền kinh tế Hà Lan gặp
nhiều khó khăn như lạm phát tăng, xuất khẩu các ngành sản xuất truyền thống như sản
phẩm nông nghiệp và hàng điện tử giảm sút, chi phí sản xuất trong nước tăng lên,
đồng đôla trên thị trường trong nước bị sụt giá, tỷ lệ tăng trưởng thu nhập thấp, tỷ lệ
thất nghiệp tăng… Những điều này làm cho tỉ lệ lạm phát tăng từ 2% năm 1970 lên
10% năm 1975 và tốc độ tăng GNP giảm từ 5% xuống còn 1%. Điều này làm cho nền
kinh tế Hà Lan trì trệ và để lại những hậu quả nặng nề. Bằng những chính sách hợp lý,
chính phủ Hà Lan đã vực dậy và đưa nền kinh tế đi lên.
Thuật ngữ “ căn bệnh Hà Lan”được The Economist đặt ra vào năm 1977 để
miêu tả sự suy giảm của khu vực chế tạo của Hà Lan khi nước này đẩy mạnh xuất
khẩu khí thiên nhiên. Sau đó, đến năm 1982, hai nhà kinh tế học là W. Max Corden và
J. Peter Neary đã mô hình hóa hiện tượng nói trên.
1.2 Quá trình hình thành “ Căn bệnh Hà Lan”
Kinh tế phát triển – Nhóm 4 K10401 Trang 4
Căn bệnh Hà Lan và nguy cơ mắc phải ở Việt Nam
Như chúng ta đã biết căn bệnh Hà Lan không chỉ xảy ra đối với riêng nước này
mà nó còn phổ biến ở nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là các nước đang phát triển.
Mầm mống gây bệnh chủ yếu là các nước này là phát hiện ra một nguồn tài nguyên
lớn hay giá một số mặt hàng xuất khẩu tăng lên đột ngột hoặc nguồn vốn đầu tư quá

lớn được đổ vào nền kinh tế. Tuy nhiên vì không có chính sách sử dụng hữu hiệu nên
những nguồn lợi to lớn đó lại trở thành con dao hai lưỡi làm thương tổn nền kinh tế.
Sự phát hiện ra trữ lượng tài nguyên lớn (khí đốt) của người Hà Lan, ví như
người nhặt được “của từ trên trời rơi xuống” làm cho giá trị ngành xuất khẩu khí đốt
tăng vọt lên, ngành khai thác phát triển mạnh, tỷ trọng xuất khẩu được nâng cao đáng
kể, đóng góp cho GDP tăng lên rất nhiều. Đây là mở đầu tốt đẹp cho ngành xuất khẩu
nhưng liệu đối với các ngành khác thì sao? Xuất khẩu tài nguyên tăng kéo theo giá mặt
hàng xuất khẩu tăng đồng thời nội tệ tăng giá. Điều này làm tăng tỷ giá hối đoái và
tăng mức lương chung, từ đó tạo ra áp lực đối với năng lực cạnh tranh của các ngành
thương mại khác trong nền kinh tế.
Khi mức lương chung tăng lên thì thu nhập người dân tăng lên cùng lúc tỷ giá
tăng nên giá hàng ngoại nhập hạ xuống. Với tâm lý của người tiêu dùng thì lựa chọn
hàng ngoại nhập lúc bấy giờ là tối ưu. Tiêu dùng trong nước tăng lên nhưng không
phải cho hàng hóa trong nước mà là hàng hóa nhập khẩu ( giá rẻ hơn trước). Các nhà
sản xuất đứng trước nguy phải cạnh tranh với hàng nhập khẩu. Điều này đòi hỏi họ
phải giảm chi phí đầu vào, nâng cao kỹ thuật công nghệ, nâng cao năng suất lao động.
Muốn như vậy cần có sự đầu tư thích đáng nhưng doanh thu của họ không những
không tăng lên mà còn giảm xuống thì lấy đâu ra để đầu tư.
Tỷ giá hối đoái tăng mang đến nguy cơ rủi ro cao cho các ngành công nghệ sử
dụng vốn nhiều, từ đó gây ra nguy cơ thất nghiệp cao cho xã hội. Tuy nhiên vấn đề này
có thể được giải quyết bằng cách phát triển khu vực dịch vụ có thể giúp bù đắp số việc
làm đã mất của ngành công nghiệp. Tuy nhiên, nhiều cơ hội việc làm tiềm năng trong
ngành dịch vụ lại có năng suất tương đối thấp, đồng nghĩa với mức lương thấp, dẫn tới
làm tăng những căng thẳng xã hội.
Sự gia tăng khu vực xuất khẩu tài nguyên ngày càng gây ra nhiều tác động xấu
cho nền kinh tế. Đến khi nguồn tài nguyên cạn kiệt, lợi thế so sánh không còn thì giá
hàng hóa xuất khẩu rớt giá, nguồn thu ngoại tệ sụt giảm đột ngột, trong khi các ngành
Kinh tế phát triển – Nhóm 4 K10401 Trang 5
Căn bệnh Hà Lan và nguy cơ mắc phải ở Việt Nam
khác bị bỏ bê, chưa kịp thay đổi để thích nghi. Nền kinh tế đi đến chỗ khủng hoảng, từ

từ tê liệt như một cơ thể mà hệ miễn dịch bị tiêu diệt, không còn sức đề kháng.
Từ trường hợp của Hà Lan, chúng ta có thể khái quát toàn bộ triệu chứng của
“căn bệnh Hà Lan” như sau:
NGUỒN THU LỚN
TÁC ĐỘNG LÔI KÉO NGUỒN LỰC
CƠ CẤU KINH TẾ
CƠ CẤU LAO ĐỘNG
CĂN BỆNH HÀ LAN
VIỆC LÀM
TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI
TÁC ĐỘNG CHI TIÊU
HOẠT ĐỘNG XNK
Có thể nói một quốc gia khi thu được nguồn ngoại tệ lớn sẽ có thể dẫn đến 2 tác
động lớn: tác động về chi tiêu và tác động về lôi kéo nguồn lực.
*Tác động chi tiêu (Resource Spending Effect)
Khi nguồn ngoại tệ chảy vào trong nước một cách nhanh chóng ồ ạt sẽ làm cho
lượng cung ngoại tệ trở nên dồi dào trong khi cầu vẫn không đổi, tất yếu làm cho tỷ
giá thay đổi. Kết quả: đồng nội tệ lên giá, đồng ngoại tệ giảm giá, hàng hóa trong nước
tăng giá tương đối so với thế giới. Ngành công nghiệp xuất khẩu bị giảm khả năng
cạnh tranh trên thị trường thế giới; hàng hóa nhập khẩu trở lên rẻ hơn bao giờ hết, xuất
hiện tràn ngập ở thị trường trong nước và người dân đổ xô đi mua hàng nhập khẩu,
nền sản xuất trong nước bị thất bại do không cạnh tranh được ngay trên chính thị
trường của mình.
Kết quả là lượng nhập khẩu tăng mạnh; ngành hàng xuất khẩu phi tài nguyên
giảm xuống rõ rệt. Đây là triệu chứng thứ nhất của “căn bệnh Hà Lan”.
*Tác động lôi kéo nguồn lực (Resource Movement Effect)
Do thu nhập từ nguồn ngoại tệ lớn, nền kinh tế tập trung nguồn lực vào ngành
khai thác tài nguyên đó, không chú trọng đến các ngành công nghiệp – nông nghiệp
vốn là thế mạnh trước đây của mình nữa.
Nông nghiệp ít được chú trọng làm cho chất lượng và năng suất giảm. Công

nghiệp khai khoáng tài nguyên phát triển, thu nhập từ các ngành này tăng lên thu hút
một bộ phận lớn lao động từ các khu vực nông nghiệp và các ngành công nghiệp khác
Kinh tế phát triển – Nhóm 4 K10401 Trang 6
Căn bệnh Hà Lan và nguy cơ mắc phải ở Việt Nam
chuyển sang. Mặc dù cung lao động trong một số ngành công nghiệp khai thác tài
nguyên tăng lên nhưng do những lao động này không có trình độ tay nghề cao, chưa
có tác phong làm việc (do một phần lớn là lao động từ nông thôn chuyển sang), chính
vì vậy ngành công nghiệp khai khoáng chưa phải là hoạt động một cách hiệu quả.
Kết quả là làm cho một số ngành thì cung lao động quá nhiều, một số ngành thì
thiếu hụt lao động trầm trọng. Nền kinh tế bị mất ổn định, sản xuất trì trệ. Đây chính là
triệu chứng thứ hai của “căn bệnh Hà Lan”.
Như vậy, một quốc gia khi mắc vào “căn bệnh Hà Lan” thì nền kinh tế sẽ bị rơi
vào tình trạng lạm phát gia tăng (cung lương thực không đủ, cầu về lương thực gia
tăng do thu nhập tăng lên làm cho giá nông sản tăng, tất yếu làm cho các hàng hóa
khác tăng giá); thu nhập quốc dân (GDP) giảm xuống (do thu nhập chủ yếu chỉ là các
ngành khai thác khoáng sản, các ngành sản xuất khác không tạo ra được thu nhập hoặc
thu nhập không đáng kể); tỷ trọng xuất khẩu giảm xuống - nhập khẩu tăng lên; áp lực
việc làm gia tăng, nền kinh tế đình đốn, tiêu điều… Một khi tài nguyên cạn kiệt, nguồn
thu ngoại tệ không còn, nhà nước sẽ không có đủ ngoại tệ để duy trì nền kinh tế như
lúc trước nữa, quả thật đây chính là thảm họa với những nước đó.
1.3 Định nghĩa
“Căn bệnh Hà Lan” chỉ tình trạng suy giảm mạnh của khu vực sản xuất khi một
quốc gia tập trung khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên để xuất khẩu. Mở rộng ra,
thuật ngữ này cũng dùng để chỉ tình trạng giảm sút của nền kinh tế do có sự gia tăng
dòng ngoại tệ nói chung, cũng như sự tăng nhanh giá tài nguyên thiên nhiên xuất khẩu
hay nguồn viện trợ từ nước ngoài, nguồn vốn FDI…
CHƯƠNG 2: MÔ HÌNH VÀ TÁC ĐỘNG CỦA “ CĂN BỆNH HÀ LAN”
2.1 Mô hình cổ điển
2.2.1 Giả thuyết của mô hình.
Mô hình cổ điển của Căn bệnh hà Lan được công bố bởi hai nhà kinh tế học là

W. Max Corden và J. Peter Neary vào năm 1982. Mô hình này dựa trên giả thiết rằng
nền kinh tế quốc dân được chia ra làm 2 khu vực: khu vực xuất khẩu (tradable sector)
và khu vực không xuất khẩu (non-tradable). Trong đó, khu vực xuất khẩu được chia
làm 2 khu vực nhỏ.
 Khu vực “bùng nổ” (booming sector) : khu vực khai thác tài nguyên
Kinh tế phát triển – Nhóm 4 K10401 Trang 7
Căn bệnh Hà Lan và nguy cơ mắc phải ở Việt Nam
 Khu vực “trì trệ” (non-booming sector): khu vực chế tạo (manufacturing sector)
Các giả thiết khác là tổng lực lượng lao động không đổi, nền kinh tế trong trạng
thái toàn dụng lao động, và tỷ giá hối đoái danh nghĩa cố định.
THE ECONOMY
TRADABLE SECTOR
khu vực xuất khẩu
NON-TRADABLE SECTOR
khu vực không xuất khẩu
BOOMING SECTOR
Khu vực “bùng nổ”
NON- BOOMING SECTOR
Khu vực “trì trệ”
2.2.2 Nội dung của mô hình
• Hiệu ứng di chuyển nguồn lực:
Khi các ngành khai thác tài nguyên bùng nổ, lượng cầu về lao động của khu
vực này tăng lên, lao động từ khu vực sản xuất (manufacturing sector) sẽ chuyển sang
khu vực khai thác này làm cho khu vực sản xuất bị thiếu cung lao động và trở nên suy
thoái. Quá trình này được gọi là phi công nghiệp hóa trực tiếp (Direct Reindustrialize).
Sự phát triển mạnh mẽ của khu vực khai thác đã làm tăng tăng thu nhập của
người lao động trong lĩnh vự này. Nhu cầu tiêu dùng của họ vì thế cũng tăng lên. Đây
là nguyên nhân dẫn đến sự tăng trưởng mạnh mẽ của khu vực không xuất khẩu (non-
tradable sector). Sự tăng trưởng này lại kéo theo sự di chuyển nguồn lực từ khu vực
chế tạo và khiến cho khu vực này ngày càng trì trệ hơn. Quá trình này được gọi là phi

công nghiệp hóa gián tiếp (Indirect Reindustrialize). W. Max Corden và J. Peter Neary
gọi đây là hiệu ứng di chuyển nguồn lực của căn bệnh Hà Lan (resource movement
effect)
• Hiệu ứng tiêu dùng
Theo thuyết của Migara, thị trường có hai thành phần tham gia là Nontrable (N)
và Tradable (T). Trong đó, N là những loại hàng hóa và dịch vụ sản xuất trong nước
Kinh tế phát triển – Nhóm 4 K10401 Trang 8
Căn bệnh Hà Lan và nguy cơ mắc phải ở Việt Nam
chỉ phục vụ nhu cầu trong nước như dịch vụ, xây dựng…và không tham gia xuất khẩu
hay nhập khẩu; T là tất cả các loại hàng hóa và dịch vụ được sản xuất trong nước để
phục vụ hoạt động xuất và nhập khẩu cũng như là cầu nội địa.
Hiệu ứng tiêu dùng xảy ra khi những người có thu nhập từ yếu tố bùng nổ tăng
lên, và lượng thu nhập này sẽ được chi cho cả hai mặt hàng là N và T. Nếu cầu của N
so với thu nhập là co dãn thì thu nhập tăng sẽ đẩy giá N tăng. Khi giá N tăng nghĩa là
đầu vào của T cũng tăng theo như giá của nguyên, nhiên liệu hay lương nhân công.
Tuy nhiên giá của T lại cố định bởi đó là những mặt hàng được giao dịch quốc tế và bị
áp dụng nguyên tắc một giá. Do vậy, khi chi phí sản xuất tăng, lợi nhuận của các nhà
sản xuất T sẽ bị giảm. Do đó, cầu T tăng sẽ được thay thế bằng các mặt hàng nhập
khẩu. Khi tỉ giá danh nghĩa là cố định, thu nhập tăng nhưng sẽ không kéo theo giá của
T tăng theo. Khi đó, cầu tăng của N sẽ làm giá tăng và do đó mà tỷ giá hối đoái thực tế
tăng theo. Với tỷ giá hối đoái được định nghĩa như sau: Q = e (Pt/Pn)
Trong đó:
- Q là tỉ gía hối đoái thực tế
- e là tỉ giá hối đoái danh nghĩa giữa nội tệ và ngoại tệ.
- Pt, Pn là giá của N và T.
- Pn tăng sẽ làm giá trị Q giảm. Hiện tương này được gọi là sự tăng tỉ giá hối
đoái thực tế bởi giá trị nội tệ tăng so với ngoại tệ.
Khi đồng nội tệ tăng so với ngoại tệ sẽ làm sức cạnh tranh của các mặt hàng
xuất khẩu giảm, cùng với đó lại làm nhập khẩu tăng. Tức là hiệu ứng tiêu dùng trên
không những sẽ làm tăng giá các mặt hàng N trong nước, gây áp lực lạm phát; đồng

thời nó còn làm các ngành sản xuất các mặt hàng T xuất khẩu khác bị suy yếu và
lượng nhập khẩu lại gia tăng.
2.2 Mô hình bốn khu vực
2.2.1 Giả thuyết của mô hình.
 Khu vực xuất khẩu (tradable) được chia thành khu vực có sự bùng nổ
(Booming sector) và khu vực không có sự bùng nổ (Non-Booming sector).
 Khu vực không xuất khẩu (non-tradable) được chia thành khu vực sản xuất
hàng tư bản (Capital goods) và khu vực sản xuất hàng tiêu dùng (Consumer
goods).
Kinh tế phát triển – Nhóm 4 K10401 Trang 9
Căn bệnh Hà Lan và nguy cơ mắc phải ở Việt Nam
 Bên cạnh đó, thay vì nghiên cứu nông nghiệp như một khu vực đơn nhất giống
mô hình 2 khu vực, mô hình 4 khu vực xem khu vực nông nghiệp gồm khu vực
sản xuất nhằm xuất khẩu thu lợi nhuận (cash crops) và khu vực sản xuất lương
thực tiêu dùng trong nước (food crops).
THE ECONOMY
TRADABLE SECTOR
NON-TRADABLE SECTOR
BOOMING SECTOR
Ex: Petrolium sector
CAPITAL GOODS
Ex:
Building & Construction sector
CONSUMER GOODS
Ex:
Food sector
NON- BOOMING SECTOR
Ex:
Agricultural export
Manufacturing

Public Utility
2.2.3 Nội dung của mô hình
• Hiệu ứng di chuyển nguồn lực:
Về cơ bản, mô hình 4 khu vực cũng thừa nhận tác động duy chuyển nguồn lực
như mô hình 2 khu vực. Tuy nhiên, do có sự phân chia khu vực chi tiết hơn, mô hình
này phân tích các tác động chi tiết hơn.
Cụ thể, đối với khu vực nông nghiệp, hiệu ứng di chuyển nguồn lực chỉ ra rằng,
do đồng nội tệ tăng giá làm giảm sức cạnh tranh mà khu vực sản xuất xuất khẩu cash
crops sẽ bị thu hẹp lại trong lúc khu vực food crops lại có xu hướng được mở rộng
hơn. Nghiên cứu cụ thể của Benjamin, Devarajan và Weiner năm 1989 đã cho thấy rõ
tác động này. Đó là sự sụt giảm mạnh mẽ của cash crops trong khi food crops lại phản
ứng tích cực với sự bùng nổ của khai thác dầu ở Camoroon những năm 1979-1985.
Hiệu ứng di chuyển nguồn lực cũng diễn ra tương tự như vậy trong khu vực
công nghiệp. Một số ngành sản xuất như sản xuất hàng tiêu dùng, sản xuất hàng tư
Kinh tế phát triển – Nhóm 4 K10401 Trang 10
Căn bệnh Hà Lan và nguy cơ mắc phải ở Việt Nam
bản…phục vụ cho nhu cầu trong nước có xu hướng phát đạt hơn do dòng ngoại tệ làm
cầu tăng. Trong lúc các ngành công nghiệp sản xuất xuất khẩu có dấu hiệu suy thoái
do mức độ cạnh tranh giảm. Ngoài ra, mô hình 4 nhân tố cũng chỉ ra rằng, các ngành
sản xuất hàng tư bản thường có mức tăng trưởng cao hơn các ngành hàng tiêu dùng do
dòng ngoài tệ thường được ưu tiên cho việc đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng…
• Hiệu ứng tiêu dùng
Về hiệu ứng tiêu dùng, mô hình 4 khu vực không có nhiều khác biệt với mô hình 2
khu vực. Thu nhập cao hơn tạo xu hướng tiêu dùng cao hơn trong nước và do đó thúc
đẩy các ngành sản xuất cho tiêu dùng trong nước phát đạt hơn trong lúc nền kinh tế có
nguy cơ lạm phát.
CHƯƠNG 3: CÁC NƯỚC VỚI “ CĂN BỆNH HÀ LAN”
Thực tế cho thấy căn bệnh Hà Lan đã ảnh hưởng đến nhiều quốc gia trên thế
giới và gây rất nhiều hậu quả nặng nề. Alan Greensspan ( 2008) cho rằng căn bện Hà
Lan chủ yếu xảy ra ở các nước phát triển do họ không được chuẩn bị kỹ lưỡng để đối

phó. Có thể kể đến một số nước như: Nga, Anh, Azerbaijan, Kuwait, Trung Quốc,
Columbia, Nigeria, Indonesia, Mexixo….
Trước hết, trên rất nhiều khía cạnh, Nigeria thể hiện như một ví dụ điển hình
của căn bệnh Hà Lan về lời nguyền tài nguyên.
3.1 Tổng quan về đất nước Nigeria
Nigeria, tên chính thức là Cộng hòa Liên bang Nigeria (Federal Republic of
Nigeria) là một quốc gia thuộc khu vực Tây Phi và cũng là nước đông dân nhất
tại châu Phi với dân số đông thứ 8 trên thế giới. Ngày nay, Nigeria vẫn là một nước
nghèo, và chỉ số phát triển con người ở mức rất thấp.
Nigeria là nước có trữ lượng dầu mỏ lớn nhất châu Phi và là thành viên của tổ
chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) . Nhờ xuất khẩu dầu mỏ , kinh tế Nigeria đã
Kinh tế phát triển – Nhóm 4 K10401 Trang 11
Căn bệnh Hà Lan và nguy cơ mắc phải ở Việt Nam
bắt đầu phát triển trong những năm gần đây nhưng vẫn phải đối mặt với nhiều thách
thức to lớn. Năm 1960, Nigeria trở thành thành viên của Liên Hiệp Quốc, ngoài ra nó
còn tham gia các tổ chức khác nhưLiên minh Châu Phi, và Khối Thịnh vượng chung
Anh.
- GDP per capita của Nigeria: Ta thấy có sự tăng mạnh và đột biến trong
khoảng thời gian từ 1972 – 1980.
- Xếp hạng trên thế giới.
• Về tỷ lệ nghèo đói của quốc gia, theo thống kê của Ngân hàng thế giới thì năm
1985, tỷ lệ nghèo đói là 43% thì đến năm 2004 đã tăng lên 54,7%. Có thể thấy
rằng đất nước này vẫn là một đất nước rất nghèo so với khu vực và trên thế
giới.
• Về chỉ số phát triển con người HDI năm 2007 là 0.511, đứng thứ 158 trên thế
giới.
• Về tuổi thọ ước tính của người dân: độ tuổi ước tính của người dân Nigeria chỉ
ở mức 52 (2011), rất thấp so với những quốc gia còn lại.
Kinh tế phát triển – Nhóm 4 K10401 Trang 12
Căn bệnh Hà Lan và nguy cơ mắc phải ở Việt Nam

• Về tỷ lệ nghèo đói của quốc gia, theo thống kê của Ngân hàng thế giới thì năm
1985, tỷ lệ nghèo đói là 43% thì đến năm 2004 đã tăng lên 54,7%. Có thể thấy
rằng đất nước này vẫn là một đất nước rất nghèo so với khu vực và trên thế
giới.
3.2 Tình hình kinh tế Nigeria từ sau 1956 và diễn biến của “Căn bệnh Hà
Lan”
3.2.1 Lĩnh vực kinh tế chính
Trước khi phát hiện dầu, nông nghiệp là lĩnh vực chủ đạo của nền kinh tế
Nigeria, nông nghiệp chiếm tới 65% xuất khẩu trước những năm 1960. Vào đầu những
năm 1970, Nigeria phát hiện ra trữ lượng dầu mỏ khổng lồ thì đây là nguồn tài nguyên
quan trọng bậc nhất đối nền kinh tế của đất nước này. Việc khai thác dầu để xuất khẩu
đã đem lại cho Nigeria một lượng ngoại tệ cực kì lớn bởi 90% kim ngạch xuất khẩu
của nước này là từ xuất khẩu dầu (nhất là vào giai đoạn 73 – 74 : giá dầu tăng lên gấp
4 lần so với trước đó, giai đoạn 79 – 80 : giá dầu lại tăng thêm gấp đôi)
Kinh tế phát triển – Nhóm 4 K10401 Trang 13
Căn bệnh Hà Lan và nguy cơ mắc phải ở Việt Nam
3.2.2 Những chuyển biến trong nền kinh tế từ sau 1970 và “Căn bệnh
Hà Lan”
Tình hình nông nghiệp của Nigeria và thế giới.
Bảng 1: Tình hình nông nghiệp của Nigeria và sự phát triển của thế giới giai
đoạn 1969-1983.
TABLE 1: THE PERFORMANCE OF NIGERIAN AND DEVELOPING
WORLD AGRICULTURE: 1969 – 1983
Index of Output per Capita
1969 - 72 1974 - 78 1979 – 81 1982 -83
Nigeria
Agriculture 100 91 91 84
Food 100 92 92 85
Developing World
Agriculture 100 103 105 104

Food 100 104 106 106
Source: Gelb and Associates
Sản lượng nông nghiệp nói chung và sản lượng lương thực đặc biệt, giảm trong
những năm bùng nổ dầu của những năm 1970 và 1980 đầu khi sản xuất dầu đã thống
trị nền kinh tế. Điều này trái ngược với phần còn lại của thế giới đang phát triển sản
xuất nông nghiệp và thực phẩm cao hơn trong 1982-83 hơn trong giai đoạn cơ sở của
1969 - 1972.
Kinh tế phát triển – Nhóm 4 K10401 Trang 14
Căn bệnh Hà Lan và nguy cơ mắc phải ở Việt Nam
Ngoài ra, xuất khẩu của Nigeria quan trọng nhất trước khi phát hiện ra dầu là
những món hàng như ca cao và dầu cọ. Bảng 2 cho thấy giữa năm 1973 và 1981, khối
lượng của tất cả các xuất khẩu giảm. Xuất khẩu ca cao và cao su vào năm 1981 là
khoảng một nửa năm 1973 mức. Xuất khẩu hạt cọ hai phần ba năm 1973 mức độ của
họ, nhưng điều này là sau khi một sự gia tăng đáng kể trong năm 1981 so với năm
1980. Xuất khẩu lạc giảm không. Giá trị thực tế của tất cả các hàng xuất khẩu phi dầu
mỏ đã giảm gần 75%.
Trong khi đó từ năm 1973 – 1974, giá trị dầu mỏ tăng gấp 4 lần, và tăng gấp 2
lần vào năm 1979 – 1980. Và kết quả nước này nổi lên như như một hình mẫu dân chủ
và kinh tế phát triển. Nhưng những triệu chứng cũng như hậu quả của căn bệnh Hà
Lan đã xuất hiện.
Bảng 2: Tình hình xuất khẩu các sản phẩm “không phải là dầu mỏ”
TABLE 2: NON-OIL EXPORT PERFORMANCE
1973 1974 1975 1976 1977 1978 1979 1980 1981
Volume
Cocoa 214 194 175 219 168 192 218 187 108
Palm
kernels
138 186 171 272 186 57 51 50 92
Rubber 49 61 61 34 28 31 34 31 24
Groundnuts 199 30 5 2 0 0 0 0 0

Total Non-
Oil Exports
(mil.of 1975
naira)
549 578 350 343 366 375 360 270 141
Source: Gelb and Associates
Biểu đồ 2: Giá dầu và thu nhập từ dầu của Nigeria giai đoạn 1970 - 2003
Kinh tế phát triển – Nhóm 4 K10401 Trang 15
Căn bệnh Hà Lan và nguy cơ mắc phải ở Việt Nam
Các nhà khai thác ồ ạt tăng sản lượng dầu xuất khẩu, nhưng cũng chính điều
này làm cho giá trị đồng nội tệ tăng lên do cung nội tệ không đáp ứng đủ lượng cung
ngoại tệ tăng nhanh quá mức, kết quả là tỷ giá hối đoái bị tác động thay đổi khó lòng
kiểm soát. Và do đó, người dân bắt đầu đổ xô vào việc tiêu dùng hàng nhập khẩu do
hàng hóa nhập khẩu rẻ đi một cách tương đối so với hàng nội địa do giá nội tệ tăng.
Lao động từ các khu vực sản xuất khác đổ xô vào khu vực khai thác tài nguyên gây
nên sự mất cân bằng. Còn sức sản xuất hàng hóa công nghiệp và nông nghiệp trong
nước không thể cạnh tranh với thế giới do chi phí sản xuất tăng cao quá mức,hàng
nhập lại rẻ mạt, nền sản xuất nội địa gần như bị thủ tiêu. Đặc biệt, với nguồn lợi nhuận
khổng lồ thu được từ dầu mỏ, chính phủ nước này đã tăng cường đầu tư cho quốc
phòng (trang bị vũ khí, lực lượng quân sự), giải quyết vấn đề nội chiến sắc tộc, phung
phí tiền của để đầu tư vào các dự án không hiệu quả
Kinh tế phát triển – Nhóm 4 K10401 Trang 16
Căn bệnh Hà Lan và nguy cơ mắc phải ở Việt Nam

Hậu quả là vào đầu những năm 80, thâm hụt thương mại gia tăng (giai đoạn 81
– 84 thâm hụt ngân sách chiếm 12% so với GDP), lạm phát tăng cao, tỷ giá hối đoái
tăng không thể kiểm soát (tỷ giá hối đoái thực giai đoạn này tăng gấp 3 lần so với giai
đoạn 70 – 72),vấn đề thất nghiệp, tăng trưởng GDP (không kể dầu) chỉ đạt 5.3%
( tương đương với 60% của 5 năm trước khi khám phá ra dầu), GDP/người giảm sút
trầm trọng, sự giàu có chỉ tập trung vào một số ít người trong khi người lao động sản

xuất trong các khu vực công nghiệp và nhất là nông nghiệp chịu ảnh hưởng nặng nề
tác động của khu vực kinh tế thịnh vượng nhờ dầu mỏ, người dân sống trong sự nghèo
khổ, bần cùng.
Bảng 3: Các chỉ số phát triển cơ bản của Nigeria (Nguồn:WB)
TABLE 3: BASIC DEVELOPMENT INDICATORS
1970 1980 1990
Latest year
(in parentheses)
PPP GDP per Capita $255.96 $893.92 $983.04 $826.47 (2000)
Kinh tế phát triển – Nhóm 4 K10401 Trang 17
Căn bệnh Hà Lan và nguy cơ mắc phải ở Việt Nam
Life Expectancy at
Birth 46 52 45 (2002)
Male Adult Literacy
Rate 59 74 (2002)
Female Adult
Literacy Rate 38 39 59 (2002)
Gross primary
school enrollment
rate
37 104 75 96 (2002)
Gross secondary
school enrollment
rate
27 22 19
GDP trên đầu người rõ ràng đã tăng từ năm 1970 ($255,96 năm 1970 đã tăng
lên $983,04 năm 1990). Tuy nhiên, có thể thấy rằng những chỉ số về tuổi thọ ước tính,
tỷ lệ mù chữ, tỷ lệ về giáo dục tiểu học, trung học đã không có những biến chuyển lớn,
thậm chí còn giảm đi qua các năm. Điều đó cho thấy, việc phát hiện ra nguồn tài
nguyên dầu mỏ to lớn 1970 đã không cải thiện được đời sống của người dân Nigeria,

một thể hiện rõ nét của “Căn bệnh Hà Lan”.
3.3 Kết luận.
Nền kinh tế của Nigeria trong những năm thập niên 70 –80 chủ yếu dựa vào
xuất khẩu dầu mỏ. Nguồn thu ngoại tệ lớn từ xuất khẩu dầu làm tỷ giá hối đoái gia
tăng; làm tăng chi phí đầu vào cho một số ngành kinh tế truyền trống có lợi thế xuất
khẩu, đặc biệt là nông nghiệp; thất nghiệp và lạm phát gia tăng cao; nợ nước ngoài
chồng chất ( từ việc thâm hụt cán cân thương mại và thâm hụt ngân sách); tỷ lệ nghèo
đói không có sự cải thiện;…đã đẩy nền kinh tế Nigeria lâm vào tình trạng trì trệ kéo
dài. Đó là những biểu hiện của căn bệnh Hà Lan.
CHƯƠNG 4: LIÊN HỆ VIỆT NAM – THỰC TIỄN, NGUY CƠ VÀ GIẢI PHÁP
PHÒNG TRÁNH
Kinh tế phát triển – Nhóm 4 K10401 Trang 18
Căn bệnh Hà Lan và nguy cơ mắc phải ở Việt Nam
4.1Nguy cơ từ hiện tượng hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài từ
Việt Nam (FDI).
Một trong những nguyên nhân gây ra căn bệnh Hà Lan ở một số quốc gia là sự gia
tăng ào ạt của dòng ngoại tệ (vốn) nước ngoài vào một số khu vực kém bền vững (như
khu vực khai thác khoáng sản). Khi đó, những tác động của Căn bệnh Hà Lan sẽ ảnh
hưởng tiêu cực đến nền kinh tế quốc dân.
4.1.1 Giai đoạn 1986 – 2006.
Sau khi thông qua luật đầu tư nước ngoài (1986), thời kỳ đầu tiên (1988-1996),
dòng FDI đổ vào Việt Nam trung bình hằng năm là 3.8 tỷ USD. Những năm 1997-
1999, chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính châu Á, nguồn FDI sụt giảm
mạnh (giảm gần 50%), chỉ đạt 1.82 tỷ USD/năm. Sau giai đoạn phục hồi chậm (2000-
2003: trung bình 1.98 tỷ USD/năm), kể từ năm 2004, nguồn FDI tăng lên liên tục với
tốc độ cao (2004:115.38%, 2006:75%, 2007: 99%, 2008: 215%) .
Bảng 1: Trị giá xuất khẩu theo khu vực kinh tế
Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006
Phân theo khu vực kinh tế
Khu vực kinh tế trong nước (%) 53.0 54.8 49.6 49.6 45.3 42.8 42.1

Khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài (%)
47.0 45.2 47.1 50.4 54.7 57.2 57.9
Bảng 2: Trị giá nhập khẩu theo khu vực kinh tế
Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006
Phân theo khu vực kinh tế
Khu vực kinh tế trong nước (%) 72.2 69.3 66.1 65.1 65.3 62.9 63.3
Khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài (%)
27.8 30.7 33.9 34.9 34.7 37.1 26.7
Trích tổng cục thống kê gso.gov.vn
Qua 2 bảng trên ta thấy, mức đóng góp vào xuất nhập khẩu của khu vực doanh
nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày càng tăng và chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu.
Đồ thị: Tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký qua các năm.
4.1.2 Giai đoạn 2006 – nay.
Kinh tế phát triển – Nhóm 4 K10401 Trang 19
Căn bệnh Hà Lan và nguy cơ mắc phải ở Việt Nam
Giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI năm 2008 đạt 24,465 tỷ USD,
chiếm khoảng 40% tổng kiêm ngạch xuất khẩu cả nước, nhưng khối doanh nghiệp này
cũng nhập khẩu tới 28,458 tỷ USD. Tổng nhập siêu xấp xỉ 4 tỷ USD của khối này đã
chiếm ¼ thâm hụt thương mại của Việt Nam năm 2008. Như vậy, FDI góp phần làm
thâm hụt cán cân thương mại.
Theo số liệu Thống kê Hải quan thì tổng kim ngạch hàng hóa xuất nhập khẩu
của khối doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong năm 2011 đạt
96,71 tỷ USD, tăng 36% so với kết quả thực hiện của năm trước. Trong đó, trị giá xuất
khẩu là 47,87 tỷ USD, tăng 40,3% và chiếm 49,4% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả
nước. Trị giá nhập khẩu của khu vực các doanh nghiệp này là 48,84 tỷ USD, tăng
32,1%, chiếm 45,7% tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước. Trong khi đó, khối
doanh nghiệp trong nước xuất khẩu đạt 49,03 tỷ USD trong năm 2011, tăng 28,7% và
nhập khẩu là 57,91 tỷ USD, tăng 21% so với năm 2010.

Năm 2012 là năm có tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp nhất trong thập niên vừa
qua, chỉ với 5,03%. Về FDI, tính chung cả cấp mới và tăng vốn, các nhà đầu tư nước
ngoài đã đăng ký đầu tư vào Việt Nam 13,013 tỷ USD, bằng 84,7% so với cùng kỳ
2011.Về cơ cấu ngành, FDI hiện tại có sự thay đổi lớn, đặc biệt là tỷ trọng vốn đăng
ký vào bất động sản trong tổng vốn đăng ký đã giảm, năm 2009: 35,4%, 2010: 36,8%;
2011:5,8%, 2012: 14,2% tổng vốn đăng ký. Thu hút đầu tư của Việt Nam giảm dần là
do môi trường đầu tư của Việt Nam ngày càng mất điểm trong mắt các nhà đầu tư
Kinh tế phát triển – Nhóm 4 K10401 Trang 20
Căn bệnh Hà Lan và nguy cơ mắc phải ở Việt Nam
nước ngoài, sự cạnh tranh của các nước trong khu vực. Trong khi FDI vào Việt Nam
đã sụt giảm thì FDI vào các quốc gia khác trong khu vực lại tăng trưởng với tốc độ
nhanh. ( Nguồn: tapchitaichinh.vn )
Từ những tác động trên, quá trình phi công nghiệp hóa tất yếu sẽ diễn ra. Không
những vậy, một khi tài nguyên cạn kiệt, nhân công rẻ không còn là lợi thế, những nhà
đầu tư này sẽ rút vốn về nước để lại phía sau một Việt Nam với nền công nghiệp vẫn
lạc hậu và kém phát triển. Khi ấy, “Căn bệnh Hà Lan” sẽ “bùng phát”.
Có thể thấy rằng, nguồn vốn FDI vào Việt Nam qua các năm đã có xu hướng
tăng mạnh từ sau 2006 , tuy nhiên đến năm 2012 đã có sự chững lại, nguyên nhân
chính là so cách thức sử dụng vốn tại Việt Nam, chủ yếu là ở những ngành thâm dụng
lao động và khai thác tài nguyên, thuộc dạng tạm thời, giá trị gia tăng không cao,
không ứng dụng khó học công nghệ kỹ thuật ( như cơ khí, máy móc, sản xuất sản
phẩm công nghệ cao) hay xây dựng cơ sở hạ tầng, vật chất, giáo dục. Khi các ngành
công nghiệp nặng được các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm, đầu tư, tạo được nguồn
lợi nhuận sẽ thu hút được một lượng lớn lao động từ các ngành sản xuất khác. Điều
này hiển nhiên sẽ làm thu hẹp sản xuất các ngành sản xuất còn lại của nền kinh tế. Tỷ
trọng ngành công nghiệp nặng ngày càng tăng lên trong khi các ngành sản xuất khác
(tất nhiên bao gồm cả các ngành sản xuất hiện đại) bị thu hẹp, kém phát triển.
Từ những tác động trên, quá trình phi công nghiệp hóa tất yếu sẽ diễn ra. Không
những vậy, một khi tài nguyên cạn kiệt, nhân công rẻ không còn là lợi thế, những nhà
đầu tư này sẽ rút vốn về nước để lại phía sau một Việt Nam với nền công nghiệp vẫn

lạc hậu và kém phát triển. Khi ấy, “Căn bệnh Hà Lan” sẽ “bùng phát”.
4.2 Nguy cơ từ hiện trạng thu hút và sử dụng nguồn viện trợ ODA tại Việt
Nam.
Ở các nước đang phát triển nói chung cũng như Việt Nam nói riêng, nguồn vốn
nước ngoài đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội,
nâng cao đời sống nhân dân. Tuy nhiên, nếu như chính phủ các nước không sử dụng
nguồn vốn này đúng cách và hiệu quả nó sẽ dẫn đến tác dụng ngược, đặc biệt đó là dẫn
đến những triệu chứng của căn bệnh Hà Lan như tăng trưởng kinh tế chậm, ,lạm phát
tăng, và tăng giá trị của đồng tiền cũng như tỷ giá hối đoái thực tăng gây hại đến khu
vực xuất khẩu.
Kinh tế phát triển – Nhóm 4 K10401 Trang 21
Căn bệnh Hà Lan và nguy cơ mắc phải ở Việt Nam
Mục tiêu của ODA để giúp đỡ phát triển cơ sở hạ tầng và xây dựng vốn nhân
lực thông qua tài trợ nhập khẩu, giảm gánh nặng nợ nước ngoài, tăng tỷ lệ dự trữ ngoại
tệ. Đầu tư cơ sở hạ tầng và nguồn vốn nhân lực giúp khuyến khích phát triển khu vực
tư nhân dẫn đến tăng trưởng kinh tế và giảm đói nghèo cho nước nhận.
Việt Nam là một trong những nước được nhận nhiều viện trợ ODA của các quốc
gia phát triển và các tổ chức như World Bank, ADB, IMF…Tính đến năm 2007, cộng
đồng quốc tế đã cam kết dành cho Việt Nam nguồn ODA với tổng giá trị gần 36,97
USD, đã ký kết 26,2 tỷ USD và giải ngân 17,9 tỷ USD . Đặc biệt trong những năm gần
đây, vốn ODA cung cấp cũng tăng khá mạnh (riêng năm 2008 sụt giảm nhẹ )
Bảng 1: Số liệu vận động ODA của Bộ Tài chính từ 1991 đến nay
(Đvt: triệu USD)
Năm Tổng ODA Vay ưu đãi ODA không hoàn lại
1991 1.60 1.60
1993 2.86 2.86
1994 2.43 2.43
1995 13.99 13.99
1996 13.34 13.34
1997 2.10 2.10

1998 5.60 5.60
1999 2.67 2.67
2000 3.10 3.10
2001 9.48 9.48
2002 1.88 1.88
2003 96.30 74.68 21.63
2004 7.94 2.81 5.13
2005 22.89 22.89
2006 68.88 65.90 2.98
2007 1.60 1.60
2008 102.44 80.00 22.44
2009 356.02 320.00 36.02
2010 75.87 75.00 0.87
2011 0.29 0.29
Tổng cộng 791.31 618.39 172.92
Kinh tế phát triển – Nhóm 4 K10401 Trang 22
Căn bệnh Hà Lan và nguy cơ mắc phải ở Việt Nam
(Nguồn: Bộ tài chính)
Bảng thống kê trên cho thấy: ODA cam kết dành cho Bộ Tài chính có xu hướng
tăng dần qua các năm. Tổng ODA cam kết dành cho Bộ Tài chính đạt nhiều nhất vào
năm 2009, bao gồm cả vốn vay ưu đãi và viện trợ không hoàn lại.
Năm 2003, Bộ Tài chính bắt đầu nhận khoản vay ưu đãi đầu tiên. Mặc dù số dự
án vay không nhiều (7/90 chương trình, dự án) nhưng hầu hết là những dự án lớn.
Hiện nay, vốn vay ưu đãi chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu vốn vay ODA của cả giai
đoạn 1993-2011, gấp 3,6 lần tổng vốn viện trợ không hoàn lại.
Tại Việt Nam hiện nay, nguồn vốn ODA được chính phủ tập trung vào phát
triển nông lâm nghiệp (21%), cơ sở hạ tầng (33%), Giáo dục – đào tạo-y tế-khoa học
công nghệ (31%) (3 ) . Tuy nhiên, việc quản lý sử dụng ODA lại còn rất nhiều bất cập,
đặc biệt là vấn nạn tham nhũng. Thất thoát lãng phí tuy không có số liệu thống kê chi
tiết nhưng nhiều khả năng là một con số không nhỏ (nhất là sau vụ tham nhũng PMU

18 và vụ PCI- Đại lộ Đông Tây). Nguồn ODA thực chất là món nợ vay lãi suất thấp
(khoảng 0.75%/năm) và thời gian đáo hạn lớn (40 năm). Tuy nhiên, nếu quy hoạch,
quản lý không hợp lý, những nguồn ngoại tệ này sẽ không những không giúp đất nước
nhận viện trợ có thể công nghiệp hóa mà còn lại là gánh nặng cho các thế hệ sau.
Ngoài ra, theo kế hoạch, đến năm 2010 Việt Nam sẽ gia nhập nhóm nước có thu nhập
trung bình (năm 2008, GDP tính trên đầu người của Việt Nam ước tính đã là 2014
USD). Vì vậy, việc thu hút vốn ODA trong những năm sắp tới sẽ ngày một khó khăn
hơn.
4.2.1 Tác động đến kinh tế
Chính phủ tiêu dùng bằng cách đổi tiền ngoại tệ có được từ viện trợ cho ngân
hàng trung ương ra đồng nội tệ để mua hàng hóa và dịch vụ nội địa. Việc này dẫn đến
giá của hàng hóa trong nước phi ngoại thương tăng, do cầu trong nước tăng trong khi
cung không đổi do hàng hóa phi ngoại thương không nhập khẩu. Đến lượt nó, việc
tăng giá đầu ra của mặt hàng phi thương mại dẫn đến giá đầu vào như lương cũng
tăng. Khi giá đầu vào tăng vơi mặt hàng thương mại, xuất nhập khẩu mà giá đầu ra của
Kinh tế phát triển – Nhóm 4 K10401 Trang 23
Căn bệnh Hà Lan và nguy cơ mắc phải ở Việt Nam
các mặt hàng này được quy định bởi giá quốc tế , do đó lợi nhuận của các công ty này
bị giảm. Sự tăng giá của mặt hàng thương mại so với phi thương mại dẫn đến việc tăng
tỷ giá hối đoái thực, trong khi tỷ giá hối đoái danh nghĩa giảm, cũng như tăng giá trị
của đồng nội tệ tăng. Điều này lại làm giảm khả năng cạnh tranh của ngành xuất khẩu.
 Kết quả 1 : khu vực xuất khẩu bị kìm hãm do lợi nhuận giảm, khả năng cạnh tranh
giảm so với các nước và do đó tài nguyên chuyển từ khu vực thương mại (tradable
sector) sang khu vực phi thương mại (non-tradable sector)
 Kết quả 2: lạm phát xảy ra, người có thu nhập thấp và trung bình là những người
chịu ảnh hưởng nhiều nhất, đời sống người dân không những không được cải thiện mà
lại càng khó khăn
4.2.2 Tác động đến xã hội
- Thứ nhất, qua nghiên cứu cho thấy nguồn viện trợ lớn có thể vượt quá khả năng quản
lý của chính phủ gây lãng phí, những chương trình dự án không hiệu quả.

- Thứ hai, nguồn vốn tăng làm giảm sự khuyến khích có những chính sách tốt hay cải
cách những khu vực, tổ chức, thể chế kém hiệu quả.
- Thứ ba, kinh nghiệm chỉ ra rằng sự phụ thuộc vào viện trợ làm yếu tính trách nhiệm
giải trình, khuyến khích việc tìm kiếm đặc lợi, ưu đãi từ chính phủ mà không chịu cải
cách để hoạt động hiệu quả hơn, tham nhũng tăng; hơn nữa, sự gia tăng viện trợ làm
cản trở sự phát triển của xã hội.
4.3 Giải pháp phòng tránh
Để có được giải pháp phòng tránh “Căn bệnh Hà Lan” tại Việt Nam một cách
sâu sát và hiệu quả, trước hết chúng ta cần hiểu rõ những nguy cơ tiềm tàng trong
nước, bắt đầu chính là từ những nguyên nhân gây ra nguy cơ của căn bệnh – việc đẩy
mạnh xuất khẩu tài nguyên thiên nhiên dẫn tới làm suy giảm ngành công nghiệp chế
tạo; việc giảm sút của nền kinh tế từ tác động của sự gia tăng dòng ngoại tệ nói chung,
…Từ đó, nhóm có những tổng hợp về giải pháp phòng tránh “Căn bệnh Hà Lan” sau
đây:
- Sử dụng nguồn thu ngoại tệ từ việc khai thác tài nguyên, xuất nhập khẩu hàng
sơ chế hay các nguồn viện trợ từ nước ngoài một cách có hiệu quả bằng cách
xây dựng các chiến lược khai thác, sử dụng và phát triển hợp lý.
- Sử dụng hợp lý nguồn vốn đầu tư nước ngoài
- Tái cơ cấu lại nền kinh tế.
Kinh tế phát triển – Nhóm 4 K10401 Trang 24
Căn bệnh Hà Lan và nguy cơ mắc phải ở Việt Nam
Trong thời kỳ hiện nay, tái cơ cấu chinh là từ được sử dụng một cách phổ biến
nhất bởi vì đây là vấn đề có liên quan đến tất cả các hoạt động trong nền kinh tế, có sự
ảnh hưởng lớn đến việc nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh
tế.
Hội nghị Trung ương 3 (khóa XI) đã bàn và quyết định tái cơ cấu nền kinh tế
gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và
sức cạnh tranh. Theo đó, trong 5 năm tới, việc cơ cấu lại nền kinh tế tập trung vào 3
lĩnh vực quan trọng nhất là: Tái cơ cấu đầu tư với trọng tâm là đầu tư công; Cơ cấu lại
thị trường tài chính với trọng tâm là tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thương mại; Tái cơ

cấu doanh nghiệp nhà nước.
Có thể thấy rằng ba nhiệm vụ trọng tâm của việc tái cơ cấu kinh tế nếu có thể
được thực hiện hiệu quả thì nền kinh tế sẽ phát triển khỏe mạnh hơn và nguy cơ mắc
phải căn bệnh Hà Lan sẽ bị triệt tiêu.
Nội dung tái cơ cấu:
1. Cơ cấu lại đầu tư, trọng tâm là đầu tư công
Đầu tư công bao gồm đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước; vay nợ: Bao
gồm vay nước ngoài, chủ yếu là ODA và phát hành trái phiếu Chính phủ trong nước;
tín dụng đầu tư phát triển; đầu tư của các doanh nghiệp có vốn nhà nước (DNNN); các
nguồn khác, như đầu tư của Tổng công ty Đầu tư kinh doanh vốn nhà nước (SCIC).
2. Cơ cấu lại thị trường tài chính với trọng tâm là tái cơ cấu hệ thống ngân
hàng thương mại
Trên tinh thần chỉ đạo của Chính phủ, việc cơ cấu lại hệ thống ngân hàng
thương mại sẽ theo hướng cơ cấu lại để có hệ thống ngân hàng thương mại được quản
trị tốt, hoạt động hiệu quả, sản phẩm và dịch vụ ngân hàng đa dạng, đáp ứng yêu cầu
phát triển của nền kinh tế thị trường với đại bộ phận là doanh nghiệp vừa và nhỏ và
các hộ sản xuất kinh doanh. Hệ thống ngân hàng từng bước nâng cao tiềm lực tài chính
và khả năng cạnh tranh; không còn ngân hàng yếu kém kéo dài, ảnh hưởng xấu đến
nền kinh tế. Chính phủ đang chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước tiến hành rà soát, đánh giá
đúng thực trạng quản lý và hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ
chức tín dụng, xây dựng phương án tổng thể cơ cấu lại toàn bộ hệ thống với mục tiêu,
mô hình và cơ chế chính sách phù hợp. Hệ thống ngân hàng được tái cấu trúc trên cơ
sở có cơ chế, chính sách để những ngân hàng thương mại có đủ điều kiện phát triển
nhanh và cạnh tranh có hiệu quả trong nước và quốc tế; đồng thời, khuyến khích các
Kinh tế phát triển – Nhóm 4 K10401 Trang 25

×