Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

PHÂN TÍCH HIỆN TƯỢNG “BẪY THU NHẬP TRUNG BÌNH” Ở CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (533.69 KB, 36 trang )

Kinh tế phát triển
MỤC LỤC
A. LỜI MỞ ĐẦU
Kinh tế Việt Nam từ khi bắt đầu đổi mới (1986), nhất là sau những cải cách lớn
trong các năm 1988 và 1989, Việt Nam phát triển khá nhanh. Trong giai đoạn 1990 -
2010, tốc độ tăng trưởng bình quân 7,5%, GNI đầu người (theo giá trị thực) bình quân
tăng 6%, tỉ lệ người ở dưới tuyến nghèo (poverty line) trong tổng dân số theo tiêu chí
của World Bank giảm từ 70% vào cuối thập niên 1980 xuống còn 10.6% năm 2010.
Trong giai đoạn đổi mới vừa qua, các loại thị trường của yếu tố sản xuất như thị
trường vốn, thị trường lao động và thị trường đất đai chậm phát triển hoặc phát triển
méo mó, và việc cải cách doanh nghiệp nhà nước (SOEs) tiến hành chậm và không
triệt để. Nhiều SOEs nhỏ đã được cổ phần hóa hoặc tư nhân hóa nhưng những doanh
nghiệp lớn lại được tổ chức lại thành các tập đoàn kinh tế và biến thành các nhóm lợi
ích được bảo hộ và hưởng nhiều đặc lợi như ưu tiên tiếp cận với vốn, đất đai và thông
tin về đầu tư công. Trong khi đó những doanh nghiệp tư nhân, đặc biệt là doanh
nghiệp nhỏ và vừa, rất khó tiếp cận vốn và đất để xây dựng cơ sở sản xuất, kinh
doanh. Sự phân bổ và thực thi các nguồn lực cho đầu tư công cũng bị méo mó bởi
tham nhũng và các nhóm lợi ích. Những bất ổn xã hội ở nông thôn do thể chế đất đai
hiện nay còn đưa lại hậu quả tiêu cực cho tương lai kinh tế Việt Nam nói chung.
Có thể gọi giai đoạn 20 hoặc 25 năm đầu của quá trình đổi mới là chiến lược cải
cách tiệm tiến (gradualist). Chiến lược này đã cho thấy nhiều hiệu quả tích cực, nhờ
đó Việt Nam đã thoát khỏi cái bẫy nghèo và phát triển thành một nước có thu nhập
trung bình thấp vào năm 2009. Đây là cột mốc vô cùng quan trọng, mở ra nhiều cơ hội
mới cho sự phát triển của nền kinh tế nước nhà. Thế nhưng trên thực tế, có nhiều nền
Bẫy thu nhập trung bình Trang
Kinh tế phát triển
kinh tế ở châu Á từ nghèo chuyển thành có thu nhập trung bình, nhưng có rất ít trong
số đó vượt lên như trường hợp của Đài Loan và Hàn Quốc. Philippines là quốc gia
điển hình của tình trạng vướng vào bẫy thu nhập trung bình đã không thể vượt qua
ngưỡng 2.000 USD trong nhiều thập niên. Indonesia cũng mất hơn một thập niên để
từ trên 1.000 USD vượt lên hơn 2.000 USD/người. Còn Thái Lan thì bất ổn kéo dài từ


sau 2005 và cũng mất hơn hai thập niên mới vượt qua con số 3.000 USD. Vì vậy,
nước ta cũng có nguy cơ mắc bẫy thu nhập trung bình nếu không sớm chuyển hướng
chiến lược cải cách từ tiệm tiến sang giai đoạn cải cách mạnh mẽ đối với các lĩnh vực
then chốt như doanh nghiệp nhà nước và tập đoàn kinh tế, thị trường các yếu tố sản
xuất và quá trình hình thành các chính sách lớn.
Chính vì thế việc tiến hành nghiên cứu, phân tích tác động của “bẫy thu nhập
trung bình” ở các nước đang phát triển, từ đó đề xuất các biện pháp cho Việt Nam
tránh “bẫy thu nhập trung bình”, cũng như chỉ ra những thách thức có thể nảy sinh
đối với một nước thu nhập trung bình là một nhiệm vụ mang tính cấp thiết và có ý
nghĩa thực sự quan trọng trong việc giúp Việt Nam định hướng phát triển để không bị
rơi vào ‘bẫy thu nhập trung bình’. Đó cũng chính là lý do nhóm tiến hành nghiên cứu,
thực hiện đề tài:
“Phân tích hiện tượng “bẫy thu nhập trung bình” ở các nước đang phát triển
và Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam hiện nay.”
Bẫy thu nhập trung bình Trang
Kinh tế phát triển
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT
Lý thuyết cho chúng ta có được một cái nhìn tổng quan về các hiện tượng các quy
luật trong cuộc sống. Vì vậy cơ sở lí luận của một vấn đề nào đó là một phần rất quan
trọng trong quá trình đào sâu tìm hiểu và phân tích nó. Trong đề tài này chúng tôi
tham khảo và ứng dụng những lý thuyết làm nền tảng như sau:
- “Bẫy thu nhập trung bình” của GS. Trần Văn Thọ đăng trên các tạp chí Kinh tế.
- Quan điểm lý luận về “bẫy các nước thu nhập trung bình” , các giải pháp để thoát khỏi
tình trạng “bẫy của các nước thu nhập trung bình” dưới góc nhìn của các chuyên gia
như Indermit Gill, cố vấn và Homi Kharas, chuyên gia kinh tế trưởng của Ngân hàng
thế giới.
- Quan điểm lý luận về “bẫy các nước thu nhập trung bình” hay “Bẫy thu nhập trung
bình” và khái niệm“chiếc trần thủy tinh vô hình”.của GS. Kenichi Ohno, Viện Nghiên
cứu Chính sách Quốc gia Tokyo.

- Kinh nghiệm và phương hướng của một số nhà lãnh đạo như Thủ tướng Malaixia
Najib Tun Razak,
- Ngoài ra chúng ta cũng sử dụng ý kiến của nhà chính trị về “bẫy thu nhập trung bình”.
Bẫy thu nhập trung bình Trang
Kinh tế phát triển
I. Các quan niệm về “bẫy thu nhập trung bình” (middle income trap)
Theo Tạp Chí Cộng Sản: "Bẫy thu nhập trung bình" là cách nói hình tượng để chỉ
một tình trạng của nền kinh tế, mà sau khi đã cố gắng để đạt được mức thu nhập trung
bình nhất định, nền kinh tế bị đình trệ, không những dừng lại ở mức thu nhập đó, mà
toàn bộ những gì đã giúp nền kinh tế tạo ra được mức thu nhập trung bình trong quá
trình trước đây lại trở thành cản trở lớn cho các bước phát triển tiếp theo. Một số tài
liệu dùng hình ảnh "bẫy tăng trưởng" để chỉ cùng một trạng thái như vậy.
Bẫy thu nhập trung bình, theo Indermit Gill, cố vấn và Homi Kharas, chuyên gia
kinh tế trưởng của Ngân hàng thế giới là tình trạng không đáp ứng nổi những đòi hỏi
cao và rất cao khi nền kinh tế đã đạt đến mức thu nhập trung bình. Có hai mốc quan
trọng: GDP trên 1000 USD người/năm và khoảng 10.000 USD người/năm. Chỉ có nền
kinh tế nào vượt qua mốc thứ nhất và sau đó tiếp tục tăng trưởng mạnh để đạt tới mốc
thứ hai, rồi vẫn tiếp tục tăng trưởng thì mới trở thành nền kinh tế công nghiệp hóa.
Bẫy thu nhập trung bình, theo GS. Kenichi Ohno, Viện Nghiên cứu Chính sách
Quốc gia Tokyo, có thể được hình dung giống như “chiếc trần thủy tinh vô hình” ngăn
cản sự phát triển kinh tế giữa giai đoạn 2 với giai đoạn 3 trong quá trình 4 giai đoạn
của sự tăng trưởng và phát triển như sau:
• Giai đoạn 1: Do sự gia tăng FDI ồ ạt, các lĩnh vực của nền kinh tế như thiết kế, công
nghệ, sản xuất và marketing đều được chỉ đạo bởi người nước ngoài. Ở giai đoạn này,
các nguyên liệu và các thành phần quan trọng của sản xuất đều phải nhập khẩu, nguồn
lực trong nước chỉ cung cấp đất công nghiệp và lao động kỹ năng thấp. Điều đó tạo
việc làm cho người nghèo, nhưng giá trị nội tại thấp và giá trị được tạo ra chủ yếu bởi
người nước ngoài. Việt Nam đang ở giai đoạn này.
• Giai đoạn 2: Khi FDI tích lũy và sản xuất mở rộng, cung nội địa cho nền kinh tế bắt
đầu phát triển. Ở giai đoạn này, công nghiệp lắp ráp trở nên cạnh tranh và vòng tuần

hoàn giữa nhà lắp ráp và nhà cung cấp được thiết lập. Nguồn lực trong nước đã tạo ra
sự phát triển cho nền công nghiệp. Sáng tạo giá trị nội tại tăng, nhưng sản xuất cơ bản
Bẫy thu nhập trung bình Trang
Kinh tế phát triển
vẫn dưới sự quản lý và hướng dẫn nước ngoài. Thailand và Malaysia đã đạt đến giai
đoạn này.
• Giai đoạn 3: Nội địa hóa kỹ năng và kiến thức bằng cách phát triển nguồn nhân lực
trong nước để thay thế lao động nước ngoài ở mọi khâu của sản xuất bao gồm quản lý,
công nghệ, thiết kế, vận hành xí nghiệp, hậu cần, quản lý chất lượng, và marketing
là thách thức tiếp theo của nền kinh tế. Khi mức độ phụ thuộc nước ngoài giảm, giá trị
nội tại tăng đáng kể. Nền kinh tế nổi lên như một nhà xuất khẩu năng động của các
sản phẩm chất lượng cao, thách thức những đối thủ cạnh tranh ở trình độ cao hơn và
thiết lập lại bức tranh công nghiệp toàn cầu. Hàn Quốc và Đài Loan đang trong giai
đoạn này.
• Giai đoạn 4: Giai đoạn cuối cùng, nền kinh tế tạo được khả năng tạo ra sản phẩm mới
và xu hướng thị trường toàn cầu. Nhật Bản, Mỹ và một số nước EU hiện đang là
những nhà sáng tạo công nghiệp.
Chiếc trần thủy tinh vô hình giữa giai đoạn 2 và giai đoạn 3 chính là “bẫy thu nhập
trung bình”. Vượt qua được sự ngăn cản của chiếc trần thủy tinh này, nền kinh tế sẽ
chuyển từ giai đoạn phụ thuộc một phần vào ngoại lực sang hoàn toàn dựa vào nội
lực. Lúc đó, nguồn nhân lực trong nước đủ trình độ thay thế hoàn toàn lao động nước
ngoài, nền kinh tế đủ trình độ là nhà xuất khẩu năng động với các sản phẩm chất
lượng cao đáp ứng và cạnh tranh với nền kinh tế thế giới.
Bẫy thu nhập trung bình Trang
Kinh tế phát triển
Sơ đồ của Kenichi Ohno về bẫy thu nhập trung bình
Bẫy thu nhập trung bình Trang
Kinh tế phát triển



Như vậy, bẫy thu nhập trung bình trong quan niệm của Kenichi Ohno và của Homi
Kharas có khác nhau. Tuy nhiên, điểm giống nhau trong hai quan niệm này là yêu cầu
cao về trình độ chuyên môn hóa nền kinh tế, về trình độ nguồn nhân lực bản
địa và trình độ quản lý vĩ mô. Chúng ta có thể rút ra khái niệm ngắn gọn về “ Bẫy thu
nhập trung bình ” như sau:
Bẫy thu nhập trung bình Trang
Kinh tế phát triển
“Bẫy thu nhập trung bình” là một thuật ngữ dùng để chỉ tình trạng mắc kẹt của
nhiều quốc gia đã thoát nghèo, gia nhập vào nhóm nước có thu nhập trung bình
nhưng mất nhiều thập niên vẫn không trở thành quốc gia phát triển.
II. Các nguyên nhân mắc phải tình trạng “bẫy thu nhập trung bình”
Các quốc gia đang phát triển vướng vào “bẫy thu nhập trung bình” là do các nguyên
nhân chính sau:
- Sự suy giảm hiệu quả vốn đầu tư sau quá trình kích thích tăng trưởng.
- Tiếp tục tình trạng của một nền kinh tế gia công (nền kinh tế trong nước không đủ sức
tạo ra giá trị gia tăng mới để tham gia vào chuỗi giá trị công nghiệp toàn cầu; sự thống
trị của các hãng mang thương hiệu nước ngoài).
- Sự phân hóa thu nhập dẫn đến phân cực và bất ổn. Sự phân hóa thu nhập làm cho
khoảng cách giữa các nhóm và các khu vực ngày càng xa. Các khu vực nghèo hơn và
khu vực nông thôn đang tụt hậu so với khu vực thành thị. Các dân tộc thiểu số tham
gia rất ít vào quá trình tăng trưởng chung.
Ngoài ra, quá trình phát triển từ thu nhập thấp đến thu nhập trung bình cũng ngầm
chứa nhiều yếu tố là nguyên nhân để một nước rơi vào bẫy trung bình. Đó là sự hủy
hoại môi trường sống mà phải mất nhiều nguồn lực và thời gian khắc phục, sự thay
đổi môi trường xã hội (kết cấu văn hóa, kết cấu xã hội biến đổi trong thời gian quá
ngắn) dễ tạo ra những xung đột, sự tự tin thái quá của các tầng lớp dẫn dắt đến thành
công, tâm lý đòi thưởng công trạng biểu hiện ở nhu cầu hưởng thụ sớm.
III. Các giải pháp để thoát khỏi tình trạng “bẫy thu nhập trung bình”
1. Các giải pháp để thoát khỏi tình trạng “Bẫy thu nhập trung bình” dưới góc
nhìn của các chuyên gia.

Ở bất kỳ giai đoạn nào, nếu muốn nền kinh tế có những thành tựu trong tăng trưởng
và phát triển, mỗi nền kinh tế đều cần phải được quản lý sáng tạo và điều chỉnh không
ngừng. Tuy nhiên, nếu chỉ như thế, nền kinh tế vẫn không vượt qua được bẫy thu nhập
Bẫy thu nhập trung bình Trang
Kinh tế phát triển
trung bình. Những đòi hỏi cao và rất cao để vượt qua bẫy này, theo Indermit Gill,
Homi Kharas và các chuyên gia WB, gồm:
- Chuyển từ đa dạng hóa sang chuyên môn hóa: Khi bắt đầu tăng trưởng, các nền kinh
tế đều có xu hướng đa dạng hóa. Nhưng xu hướng này đảo ngược thành chuyên môn
hóa khi nền kinh tế đạt tới một ngưỡng nào đó về hiệu quả tính trên quy mô tương
ứng. Bước chuyển này có thể diễn ra sớm hơn hay muộn hơn tùy thuộc vào diện tích
và xu hướng xuất khẩu của nền kinh tế. Ví dụ, Singapore bắt đầu chuyên môn hóa khi
đạt mức thu nhập trên đầu người là 2500 USD/năm. Một số nước khác từ 5000 - 8000
USD người/năm.
- Chuyển từ đầu tư sang đổi mới: Khi các doanh nghiệp trong một nền kinh tế đạt tới
“biên giới công nghệ” thì cần phải khuyến khích sự xuất hiện của các doanh nghiệp
mới với công nghệ mới và tạo thuận lợi cho sự giải thể của các doanh nghiệp mà các
sản phẩm hoặc công nghệ của họ đã trở nên lỗi thời do sự gia nhập của các doanh
nghiệp mới. Điều này đòi hỏi phải thay đổi từ luật lệ, chính sách đến bản thân doanh
nghiệp. Chọn thời điểm thực hiện bước chuyển này và xử lý được sự phản kháng của
các nhóm lợi ích là thách thức lớn đối với các chính phủ.
- Chuyển từ giáo dục cơ bản sang giáo dục đại học và nghiên cứu khoa học: Khi các
quốc gia nắm bắt thông tin tốt hơn về các sản phẩm và các lĩnh vực sản xuất mà họ
nên chuyên môn hóa và về các hoạt động nghiên cứu-phát triển (R&D) liên quan mà
họ nên trợ cấp, chính phủ phải thay đổi từ trợ cấp chung cho giáo dục sang việc áp
dụng các biện pháp khuyến khích cụ thể hơn cho việc tạo ra những sản phẩm mới và
quy trình mới. Thông thường, do không biết chính xác các hoạt động R&D nào cần
trợ cấp, các chính phủ buộc phải ưu tiên trợ cấp cho giáo dục đại học và sau đại học.
2. Chính sách công nghiệp tiên phong
Đa số các học giả đưa ra những giải pháp chung để thoát bẫy thu nhập trung bình

là chuyển đầu tư từ các nghành thâm dụng lao động sang giáo dục – đào tạo, đổi mới
– sáng tạo trong khoa học – công nghệ nghiên cứu – phát triển, tiến tới kinh tế tri thức.
Có hai cách đó là mở rộng các ngành mới với giá trị gia tăng cao hơn ví dụ như ngành
Bẫy thu nhập trung bình Trang
Kinh tế phát triển
công nghệ cao và trong những ngành đang hoạt động, vươn tới làm các công đoạn với
giá trị gia tăng cao hơn như về phía thượng nguồn của chuỗi giá trị, vươn tới làm thiết
kế, nghiên cứu – phát triển và đi vào các chế tạo sản xuất yêu cầu vốn lớn còn phía hạ
nguồn của chuỗi giá trị thì tăng cường khâu tiếp thị, tạo thương hiệu, vươn ra thế giới.
Chính sách công nghiệp tiên phong nhằm củng cố sự cân bằng vốn rất mong manh
và hay thay đổi giữa chỉ đạo của nhà nước và định hướng thị trường, giữa cam kết
toàn cầu hóa và duy trì công cụ chính sách, giữa lãnh đạo quyết đoán với nhu cầu lắng
nghe doanh nghiệp tư nhân một cách cẩn trọng. Chính sách này rất khó thực hiện so
với việc đơn giản buông lỏng thị trường hoặc kiểm soát mọi việc bằng cỗ máy nhà
nước. Hợp phần chủ đạo của chính sách này là chấp nhận cơ chế thị trường và toàn
cầu hóa, tinh thần học hỏi linh hoạt của cả chính phủ và khu vực tư nhân, và mối
tương tác phức tạp, không ngừng thay đổi giữa hai khu vực này. Cụ thể hơn, chính
sách công nghiệp tiên phong phải thỏa mãn tất cả những điều kiện sau:
+ Phát triển theo cơ chế thị trường trong bối cảnh toàn cầu hóa: khu vực tư nhân tham
gia chủ yếu vào hoạt động sản xuất, đầu tư, thương mại và các hoạt động kinh tế
khác trong môi trường cạnh tranh mở do cơ chế thị trường và quá trình toàn cầu hóa
tạo ra. Nhà nước không tham gia vào hoạt động sản xuất, trừ những lĩnh vực khu
vực tư nhân chưa sẵn sang tiếp quản vai trò của nhà nước.
+ Nhà nước mạnh: Nhà nước đảm đương vai trò vững chắc và chủ động trong việc định
hướng và hỗ trợ phát triển mặc dù về nguyên tắc, mọi hoạt động sản xuất đều do tư
nhân tiếp nhận là chủ yếu.
+ Giữ lại những công cụ chính sách phù hợp cho các nước công nghiệp hóa đi sau
+ Phát triển năng lực động: Nâng cao năng lực chính sách và tính năng động của khu
vực tư nhân
+ Nội lực hóa kỹ năng và công nghệ có trong nguồn vốn con người của công dân các

nước: Đây là phần quan trọng nhất của mục tiêu và giải pháp chính sách công
nghiệp.
Bẫy thu nhập trung bình Trang
Kinh tế phát triển
+ Cộng tác công tư hiệu quả: Xây dựng mối quan hệ hợp tác hiệu quả giữa hai khu vực
nhà nước và tư nhân một cách vững chắc trên sự tin tưởng lẫn nhau và tham gia một
cách tích cực từ hai phía.
+ Kiến thức sâu rộng về công nghiệp: nhằm tránh đánh giá sai chính sách và gây ảnh
hưởng chính trị. Chính phủ cần phải tích lũy đầy đủ những kiến thức về ngành công
nghiệp mà mình muốn can thiệp.
Trên thực tế, có rất nhiều dẫn chứng về chính sách công nghiệp tiên phong đã được
thực hiện, mà cụ thể là ở các nước Đông Á như Singapore, Malayxia, Thái Lan.
Bẫy thu nhập trung bình Trang
Kinh tế phát triển
CHƯƠNG II. “BẪY THU NHẬP TRUNG BÌNH” Ở CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT
TRIỂN
I. Thực trạng bẫy thu nhập trung bình ở các nước đang phát triển
Theo tiêu chuẩn của Ngân hàng thế giới, Việt Nam hiện đang ở trong nhóm các
nước có thu nhập ở mức trung bình thấp, đến năm 2020 cũng có thể sẽ đạt mức thu
nhập trung bình cao. Nhưng vấn đề là Việt Nam có thể tiếp tục phát triển bền vững để
trở thành nước có thu nhập cao trong vài thập kỷ sau đó nữa hay không mới là điều
quan trọng. Trong lịch sử kinh tế thế giới, rất ít nước vượt qua được cái bẫy này thậm
chí có những nước đã mắc vào bẫy này từ rất sớm mà không cần đợi đến khi đạt được
mức thu nhập trung bình cao (độ 4000 USD).
Các nước đi trước trong khu vực ASEAN như Malaysia, Thái Lan, Indonesia và
Philippines, đều không vượt qua “bẫy thu nhập trung bình” sau những bước phát triển
nhảy vọt. Đáng ngạc nhiên trong suốt hai thập niên 1970 – 1980 số ít nền kinh tế
Đông Á như Hàn Quốc, Đài Loan đã vượt qua “bẫy” bằng con đường phát triển
hướng tới công nghệ cao trên nền tảng phát triển chất lượng nguồn nhân lực, lao động
kỹ thuật cao.

Những cỗ máy tăng trưởng trên thế giới đang trong thời kỳ chuyển pha. Các nền
kinh tế đang phát triển hiện nay đang đóng góp trên một nửa tổng tăng trưởng GDP
toàn cầu. Kết quả đương nhiên là người ta phải quan tâm tới một vấn đề: Liệu có nguy
cơ là một số hay nhiều nước đang phát triển sẽ rơi vào “bẫy thu nhập trung bình” hay
không?
Bẫy thu nhập trung bình đã và đang níu kéo nhiều nước đang phát triển: dù họ đã
thoát khỏi mức thu nhập thấp - tính theo đầu người – nhưng sau đó thì có vẻ như dẫm
chân tại chỗ, đánh mất động lực trên con đường tiến tới mức thu nhập cao ngang bằng
với các nền kinh tế tiên tiến. Đấy là kinh nghiệm mà hầu hết các nước Mỹ Latinh đã
trải qua trong những năm 1980, và trong những năm gần đây các nước có thu nhập
trung bình ở các nơi khác cũng sợ rằng họ có thể mắc phải tình trạng tương tự như thế.
Bẫy thu nhập trung bình Trang
Kinh tế phát triển
Trong đa số mọi trường hợp các quốc gia thành công trong việc tiến lên mức thu
nhập trung bình từ mức thu nhập thấp, nền tảng quá trình phát triển là khá giống
nhau. Thường thì, có rất nhiều người lao động không có tay nghề được chuyển từ
những công việc với thu nhập chỉ đủ sống qua ngày sang những ngành sản xuất hay
dịch vụ hiện đại hơn – cần vốn đầu tư lớn hơn và công nghệ cao hơn – mà không cần
phải nâng cao tay nghề cho những người lao động này.
Những ngành công nghệ đó đã có sẵn từ các nước giàu có hơn và dễ dàng thích ứng
với hoàn cảnh địa phương ở các nước nghèo. Hiệu quả tổng hợp của công việc chuyển
giao đó – thường đi kèm với quá trình đô thị hóa – là sự gia tăng đáng kể “năng suất
lao động toàn xã hội”, yếu tố quan trọng tạo ra sự gia tăng GDP vượt trên mức tăng
trưởng đơn thuần dựa trên gia tăng công ăn việc làm, tiền vốn, và những tác nhân vật
chất khác trong sản xuất.
Chẳng sớm thì muộn, việc gặt hái lợi ích từ những loại “hoa quả ở cành thấp” như
thế - hiểu theo nghĩa cơ hội tăng trưởng – sẽ gặp phải giới hạn. Sau đó tốc độ tăng
trưởng có thể chậm lại làm cho nền kinh tế rơi vào bẫy thu nhập trung bình. Thời điểm
mấu chốt là khi trong nền kinh tế không còn dư thừa những người thiếu tay nghề để
tiếp tục chuyển sang phục vụ trong những ngành kinh tế hiện đại không đòi hỏi kỹ

năng lao động bậc cao. Hoặc là, như trong một số trường hợp cho thấy, khi những
ngành này không thể tiếp tục đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh (vì không thể tăng
thêm được lợi nhuận) trong khi nền kinh tế thì vẫn đang dư thừa những lao động
không có tay nghề.
Sau thời điểm bước ngoặt này, sự gia tăng năng suất lao động toàn xã hội và việc
duy trì tốc độ phát triển GDP cao phụ thuộc vào khả năng của nền kinh tế trong việc
nâng cấp sản xuất, dịch vụ và nông nghiệp theo xu hướng đòi hỏi công nghệ phức tạp
hơn, trình độ lao động cao hơn, và cần những tài sản vô hình như năng lực thiết kế và
tổ chức. Mặt khác, một yếu tố quan trọng cơ bản khác là việc thiết lập các định chế trợ
giúp cho đổi mới và chuổi các giao dịch phức tạp trên thương trường.
Bây giờ thách thức không còn là tiếp cận những công nghệ cơ bản mà thế giới đang
có mà là tạo dựng năng lực cùng những định chế phù hợp ở trong nước – vốn là
Bẫy thu nhập trung bình Trang
Kinh tế phát triển
những thứ không thể nhập khẩu hoặc sao chép một cách dễ dàng của nước ngoài. Điều
kiện tối thiếu ở đây là xã hội phải cung cấp được một nền giáo dục và cơ sở hạ tầng
phù hợp.
Hiện nay các nước có mức thu nhập trung bình ở Mỹ Latinh đã thấy quá trình
chuyển đổi lao động từ những công việc có thu nhập chỉ đủ sống qua ngày sang những
công việc có thu nhập cao hơn đang chậm lại, dù lao động dư thừa vẫn còn. Đây là do
sai lầm trong quản lí kinh tế vĩ mô và nền sản xuất hướng nội, trì trệ kéo dài tới tận
những năm 1990, khi những nước này vấp phải những giới hạn của quá trình dịch
chuyển lao động. Tuy nhiên, có một số nước đã vượt lên được, xác lập vị trí vững
vàng trong chuỗi giá trị toàn cầu (ví dụ ở Brazil đã hình thành ngành nông nghiệp
công nghệ cao, công nghiệp khoan dầu ngoài biển sâu và công nghiệp sản xuất máy
bay).
Ngược lại, các nước đang phát triển ở châu Á lại dựa chủ yếu vào thương mại quốc
tế nhằm đẩy nhanh quá trình dịch chuyển lao động bằng cách tự mình tham gia vào
những lĩnh vực cần nhiều lao động trong chuỗi giá trị toàn cầu. Những tiến bộ trong
công nghệ thông tin liên lạc và cước vận chuyển rẻ cũng như hàng rào thương mại

quốc tế giảm đã tạo nhiều thuận lợi cho xu hướng này.
Con đường từ thu nhập thấp (tính theo đầu người) lên mức trung bình và sau đó là
lên mức cao đồng nghĩa với việc gia tăng tỉ lệ dân chúng chuyển từ những công việc
chỉ đủ sống qua ngày sang những công việc đơn giản của thời hiện đại và sau đó là
sang những công việc phức tạp hơn. Ngành thương mại quốc tế đã mở rộng cửa cho
con đường này, nhưng những cải cách trong lĩnh vực định chế, nền giáo dục chất
lượng cao và việc tạo ra những tài sản vô hình tại chỗ là vấn đề then chốt cho sự tiến
bộ bền vững trong dài hạn. Hàn Quốc là thí dụ rõ nhất về việc một nước biết tận dụng
cơ hội để leo lên các nấc thang thu nhập.
II. Hướng giải quyết cho các nước đang phát triển
- Để duy trì được tốc độ tăng trưởng cao, các nước đang phát triển cần tận dụng hơn
nữa nhóm lao động có thu nhập thấp ở nông thôn và số lao động bán thất nghiệp ở khu
vực đô thị vì đây là nguồn lực còn chưa được khai thác triệt để. Nếu chuyển đổi nghề
nghiệp thành công cho nhóm người này thì tổng năng suất lao động toàn xã hội sẽ gia
Bẫy thu nhập trung bình Trang
Kinh tế phát triển
tăng. Để điều này thành công trên bình diện toàn cầu thì bản thân các nước có mức thu
nhập trung bình phải vượt qua các rào cản trên con đường dẫn tới mức thu nhập cao
hơn, và bằng cách đó, tạo ra nhu cầu mới đồng thời tiếp tục chuyển giao cơ hội
chuyển đổi nghề nghiệp cho những người lao động ở các nước nghèo hơn.
- Các nước có mức thu nhập trung bình nhưng giàu tài nguyên trực diện với con đường
riêng của mình, một con đường đã được mở rộng ra nhờ sự tăng giá các nguyên vật
liệu trong một thời gian dài, kèm theo sự dịch chuyển trong cơ cấu GDP toàn cầu.
Khác với hoạt động sản xuất công nghiệp, ngành khai thác tài nguyên thiên nghiên
thường có những tính chất đặc thù, tạo cơ hội cho việc hình thành các năng lực ở địa
phương trong những hoạt động kinh doanh tầm cao (sinh nhiều lợi nhuận). Tuy nhiên,
thách thức gắn liền ở đây là làm sao để duy trì phát triển theo cách này một cách bền
vững.
- Trong khi phần lớn các nước tiến từ trạng thái thu nhập thấp lên thu nhập trung bình
đều đi qua một con đường nói chung là giống nhau thì những giai đoạn tiếp theo của

họ sẽ đòi hỏi những dạng kinh nghiệm phong phú khác nhau về cải cách thể chế và
tích lũy tài sản vô hình. Căn cứ vào triển vọng phát triển không lấy gì làm tốt đẹp của
những nền kinh tế tiên tiến, động lực của nền kinh tế thế giới hiện nay sẽ phụ thuộc
vào mức độ thành công của các nước nghèo và các nước thu nhập trung bình khi nỗ
lực tiến lên những bậc thang thu nhập mới.
III. Bẫy thu nhập trung bình ở một số nước đang phát triến
1. Bẫy thu nhập trung bình ở Philippine
Điển hình chúng ta có thể thấy như ở trường hợp của Philippin. Vào những năm
của thập niên 1950, Philippin là nước phát triển chỉ sau Nhật Bản, cao hơn cả Hàn
Quốc. Năm 1960, GDP bình quân đầu người của Philippincao gấp đôi Thái Lan
nhưng đến giữa thập niên 1980 Thái Lan đã theo kịp Philippin và đến năm 2000 hai
nước đảo ngược vị trí của năm 1960. Năm 1985, GDP bình quân đầu người của
Philippin cao gấp 3,5 lần Trung Quốc nhưng sau năm 2000, Trung Quốc đã vượt
Philippin.
Sự lãnh đạo yếu kém và không kiên định trong giai đoạn từ năm 1965 đến 1986 bị
coi là một nguyên nhân khiến đất nước Philíppin thất bại. Tỷ lệ đầu tư so với GDP của
Philíppin đã luôn ở mức thấp trong 20 năm qua dẫn tới việc kết cấu hạ tầng yếu kém
Bẫy thu nhập trung bình Trang
Kinh tế phát triển
gây cản trở kinh doanh. Một vấn đề nữa đối với Philíppin là những yếu kém trong lĩnh
vực tài chính công. Thuế thu được tính theo GDP vẫn ở mức thấp hơn so với mức
trước năm 1997, trong khi nợ của nhà nước vẫn cao, khoảng 75% GDP.
Các doanh nghiệp Philíppin còn mất sức cạnh tranh trên thị trường thế giới do
không có môi trường, cơ chế tạo ra các khuyến khích cần thiết để doanh nghiệp đầu tư
đổi mới công nghệ, cải thiện năng suất và chi phí kinh doanh quá cao. Thêm vào đó,
nạn tham nhũng hoành hành, lan rộng và thấm sâu trong xã hội, hoạt động kinh tế phụ
thuộc nhiều vào sự bảo hộ chính trị của giai tầng thống trị. Các cơ chế cho phát triển
bị chi phối bởi những người có đặc quyền đặc lợi.
Nghiên cứu của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) đã chỉ ra rằng, những trở ngại
cơ bản đối với tăng trưởng của nền kinh tế Philíppin là: (1) Các điều kiện tài chính

quá chặt chẽ; (2) Kết cấu hạ tầng yếu kém, đặc biệt là giao thông và phân phối điện;
(3) Lòng tin của giới đầu tư kém do những bất ổn chính trị; (4) Phát triển ngành chế
tạo không theo nhu cầu thị trường.
Như vậy, có thể rút ra một số nguyên nhân chính khiến Philíppin không thoát khỏi
bẫy thu nhập trung bình như sau:
- Tiết kiệm và đầu tư thấp. Tỷ lệ tiết kiệm thấp đã làm cho Philíppin không đủ
nguồn lực để tích lũy các nhân tố, đặc biệt là công nghệ cho tăng trưởng dài hạn.
- Một hệ quả khác của tỷ lệ tiết kiệm thấp là tình trạng thâm hụt thương mại trầm
trọng do cả xuất khẩu giảm xuống lẫn nhập khẩu tăng lên bởi chiến lược công nghiệp
hóa của Philíppin và việc xây dựng kết cấu hạ tầng.
- Quản lý tài chính yếu kém. Mặc dù bức tranh tài chính của Philíppin đã được cải
thiện nhiều trong những thập niên trước, nhưng các biện pháp để tạo nguồn thu tài
chính cho Chính phủ lại không được cải thiện, từ đó không thể cung cấp được các
dịch vụ kinh tế và xã hội nhằm ổn định kinh tế vĩ mô.
- Nỗ lực cải cách thiếu kiên quyết và nhất quán. Sự thiếu ổn định về chính trị ở
Philíppin đã làm giảm động lực cải cách của giới hoạch định chính sách, đặc biệt là
trong việc xóa bỏ bảo hộ, độc quyền và giải quyết vấn đề nông dân.
Bẫy thu nhập trung bình Trang
Kinh tế phát triển
2. Bẫy thu nhập đối với Malaysia
Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới (2009): “ Thách thức về trung hạn quan
trọng nhất đối với kinh tế Malayxia là gia nhập vào nhóm các nước có thu nhập
cao.
Malaixia đă tăng trưởng vững chắc trong vài thập kỷ qua, nhưng vẫn còn phụ
thuộc vào mô hình kinh tế dựa vào tích lũy vốn là chủ yếu. Mặc dù đã đạt được nhiều
thành công trong quá khứ nhưng khả năng tăng trưởng của Malayxia vẫn tụt hậu so với
các nền kinh tế khác trong khu vực. Nền kinh tế dường như bị mắc vào bẫy thu nhập
trung bình không thể duy trì tính cạnh tranh của một nhà sản xuất khối lượng lớn với
chi phí thấp, cũng như không thể nâng cấp chuỗi giá trị và tăng trưởng nhanh bằng
cách thâm nhập vào các thị trường hàng hóa và dịch vụ mang tính tri thức và sáng tạo

đang tăng trưởng mạnh”. Thủ tướng Malayxia Najib Tun Razak, người nắm quyền vào
tháng 4 năm 2009, đă coi việc vượt qua bẫy thu nhập trung bình là mục tiêu kinh tế quan
trọng nhất của chính
phủ. Để đạt được mục tiêu đề ra, thủ tướng Najib muốn huy
động các chính sách và
nguồn lực hiện có để tự do hơn nữa nền kinh tế, thúc đẩy đầu
tư tư nhân, hình thành các ngành tạo giá trị mới, cải cách ngân sách, phát triển nguồn
nhân lực - được coi là năm trụ cột trong “Mô hình kinh tế mới” của ông:
Mô hình kinh tế mới của Malaixia
Bẫy thu nhập trung bình Trang
Kinh tế phát triển
Thực hiện công nghiệp hóa và kết hợp chính sách hợp lý, tận dụng tốt luồng vốn
FDI Malaysia tăng trưởng ấn tượng. Tuy nhiên, năng lực khu vực tư nhân còn yếu
sau nhiều thập kỷ tăng trưởng bởi các lý do: Phụ thuộc vào nước ngoài, không nội lực
hóa được giá trị và năng lực, rủi ro cạnh tranh về áp lực tiền lương luồng FDI chuyển
dần sang Trung Quốc, Ấn Độ, Việt Nam
Phục hồi nhanh sau khủng hoảng tài chính châu Á (1977-1999), Chính phủ
Malaysia dự báo rằng tăng trưởng GDP hằng năm từ 7,0% (1991-2000) lên 7,5%
(2001-2010). Tỷ lệ tăng trưởng cao hơn này được tạo ra bởi sự chuyển đổi nền kinh tế
Malaysia thành một nền kinh tế tri thức, năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) đóng góp
vào tăng trưởng 3,2 phần trăm so với 1,8 phần trăm trong giai đoạn 1991-2000. Sự lạc
quan này trước khi có cuộc khủng hoảng tài chính 2008. Thực tế, các quốc gia lân cận
có tốc độ tăng trưởng cao hơn nhiều như (Trung Quốc, Ấn Độ và Indonesia). Một
Bẫy thu nhập trung bình Trang
Kinh tế phát triển
nguyên nhân quan trọng được chỉ ra cho việc Malaysia rơi vào “bẫy thu nhập trung
bình” là vẫn còn sử dụng chiến lược tăng trưởng kinh tế – chiến lược kinh tế mới
(NEP) những năm 1970. Để thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình, Malaysia cần cải cách
trong nhiều lĩnh vực (chú ý nhất, dịch vụ dân sự, giáo dục và nghiên cứu, hệ thống tài
chính, hệ thống nhà nước, ngành tư pháp, lực lượng cảnh sát, và liên kết giữa các công

ty), cuối cùng phân tích và học hỏi thực tiễn từ Trung Quốc và Ấn Độ.
Theo Shahid Yusuf & Kaoru Nabeshima (2009), đưa ra chiến lược lợi thế cạnh
tranh tích lũy để có thể duy trì tăng trưởng trong vòng 5-7 năm tới cho Malaysia đó là
liên kết các doanh nghiệp chậm phát triển; đa dạng hóa thành các dòng sản phẩm, tận
dụng chuyên môn trong ngành nghề kinh doanh hiện tại; tăng cường phát triển dịch vụ
y tế và giáo dục; phát triển du lịch tận dụng di sản văn hóa tối đa hóa lợi ích cho nền
kinh tế.
3. Bẫy thu nhập trung bình ở Thái Lan
Trong hơn nửa thế kỷ qua (1952-2011), Thái Lan đã đạt được tỷ lệ tăng trưởng kinh
tế trung bình 6,2%/năm, giúp đưa nước này trở thành một trong những nền kinh tế
thành công nhất sau khi chiến tranh thế giới thứ hai. Tiến bộ kinh tế còn giúp đạt được
nhiều thành tựu khác, chẳng hạn như giảm tỉ lệ đói nghèo hơn 40% trong 25 năm,
cuộc sống người dân đầy đủ, và được tiếp cận nhiều hơn với hàng hóa và dịch vụ công
cộng.
Thái Lan mất hơn hai thập kỷ mới vượt qua con số 3.000 đô la Mỹ nhưng vẫn chưa
bước vào được nhóm nước có mức thu nhập trung bình của trung bình. Thái Lan được
cho là đã không nội địa hóa được giá trị gia tăng và năng lực quản lý. Nền kinh tế quá
phụ thuộc vào các công ty nước ngoài, thiếu các thương hiệu nội địa và khu vực tư
nhân vẫn yếu kém sau nhiều thập kỷ mở cửa.
Thái Lan đang nỗ lực từng bước phát triển công nghiệp bằng cách tiếp tục con
đường đang đi của mình. Thái Lan vẫn tiếp tục khuyến khích FDI vào lĩnh vực chế
tạo, thúc đẩy công nghệ khuôn mẫu, tăng cường năng lực và liên kết các nhà sản xuất
linh kiện nội địa. Việc tiếp tục củng cố các cụng công nghiệp ô tô vẫn là trụ cột trong
chính sách công nghiệp của Thái Lan.
Bẫy thu nhập trung bình Trang
Kinh tế phát triển
Một trong các dự án hỗ trợ nỗ lực này là Dự án phát triển nguồn nhân lực trong
ngành công nghiệp ô tô hiện đang được triển khai với sự hỗ trợ toàn diện của bốn
công ty sản xuất ô tô lớn của Nhật Bản. Một định hướng chính sách khác là phát triển
sản xuất ô tô sinh thái. Đồng thời, Thái Lan cũng khuyến khích phát triển các lĩnh vực

mới như du lịch khám chữa bệnh, công nghệ sinh học và ITC. Dựa trên các thành quả
đạt được trong quá khứ, Thái Lan áp dụng cách tiếp cận hai chiều, vừa phát triển cơ sở
công nghiệp cũ đồng thời tìm kiếm các nguồn tăng trưởng mới.
5 chiến lược và 12 kế hoạch hành động của ngành công nghiệp ô tô Thái Lan
Một điểm khác nhau dễ dàng nhìn thấy giữa Malaixia và Thái Lan đó việc lựa chọn
lực đẩy cơ bản của chính sách công nghiệp. Trong khi Thái Lan hoàn toàn theo thị
trường và toàn cầu hóa, nỗ lực xây dựng một môi trường kinh doanh mở và tự do,
không kỳ vọng vào việc tạo ra các thương hiệu quốc gia, thì Malaixia lại áp dụng các
biện pháp chỉ đạo và hành chính để dẫn dắt khu vực tư nhân hoặc khu vực nước ngoài
đi theo một định hướng nhất định, trong đó bao gồm cả việc phát triển và thúc đẩy
việc sản xuất ô tô mang thương hiệu quốc gia
IV. Những bài học rút ra từ các nước đang phát triển
Bẫy thu nhập trung bình Trang
Kinh tế phát triển
Báo cáo về tăng trưởng - Chiến lược tăng trưởng bền vững và phát triển hòa nhập
của ủy ban về Tăng trưởng và Phát triển (năm 2010) đã rút ra những bài học thành
công cho quá trình tăng trưởng kéo dài là:
Thứ nhất, hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Nền kinh tế thế giới hiện nay mở hơn
và quá trình toàn cầu hóa giúp các quốc gia có thể tăng trưởng cao bằng cách nhập
khẩu các ý tưởng, công nghệ và bí quyết từ các nước khác và khai thác nguồn nhu
cầu trên thế giới để tạo ra một thị trường sâu rộng và linh hoạt cho sản phẩm của
mình.
Thứ hai, duy trì được sự ổn định vĩ mô. Trong các giai đoạn phát triển điều chính
yếu là phải tránh được những tác động tiêu cực của sự bất ổn định và khó tiên liệu về
kinh tế vĩ mô, đặc biệt là đối với khu vực tư nhân.
Thứ ba, có tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư cao. Mức đầu tư công cao trong lĩnh vực kết
cấu hạ tầng với “định hướng tương lai”, hạn chế tiêu dùng hiện tại để phấn đấu đạt
mức thu nhập cao hơn trong tương lai.
Thứ tư, tôn trọng các quy luật cân bằng được thị trường. Các doanh nghiệp đều có
đầy đủ quyền đối với tài sản của mình để họ yên tâm đầu tư. Tuy nhiên, điều đó

không có nghĩa là chính phủ các nước không được can thiệp để phát hiện lợi thế cạnh
tranh của nước mình, từ đó tận dụng tốt nhất nguồn nhân lực và vốn. Trong nhiều
trường hợp, chính phủ thậm chí định hướng sự phát triển với những chính sách có
tầm nhìn và linh hoạt.
Thứ năm, có chính phủ quyết tâm, đáng tin cậy và đủ năng lực. Tăng trưởng không
chỉ liên quan tới kinh tế mà còn đòi hỏi có một nền tảng chính trị vững chắc. Chính
phủ và các cơ quan của chính phủ phải không ngừng tìm kiếm các giải pháp hành
động cần thiết để duy trì động lực tăng trưởng kinh tế. Nếu thiếu vắng nền tảng chính
trị này thì việc duy trì các chính sách thúc đẩy kinh tế tăng trưởng là rất khó, nếu
không nói là không thể làm được.
Vậy tại sao một số quốc gia lại đánh mất động lực tăng trưởng? Câu trả lời cũng
không đơn giản bởi vì một quốc gia có thể gặp một hoặc nhiều vấn đề gây hạn chế,
Bẫy thu nhập trung bình Trang
Kinh tế phát triển
thậm chí tạo ra sự bế tắc trong tăng trưởng trong nhiều năm. Những phân tích và kinh
nghiệm thực tế có thể thấy một số bài học như sau:
Thứ nhất, quản lý kinh tế vĩ mô yếu kém. Điều này là khá rõ ràng vì thiếu sự ổn
định kinh tế vĩ mô, nền kinh tế sẽ trở nên rối ren và nhiều tín hiệu thị trường, chính
sách bị che mờ hoặc thậm chí mất đi.
Thứ hai, thâm hụt kép về ngân sách và thương mại dẫn tới tình trạng nợ công tăng
cao và mất khả năng chi trả và đầu tư công.
Thứ ba, tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư thấp sẽ dẫn đến tình trạng thiếu hụt nền tảng công
nghệ, thiếu máy móc thiết bị chuẩn bị cơ sở cho tăng trưởng dài hạn.
Thứ tư, quá tập trung vào các ngành công nghệ thấp, cải tiến công nghệ không đủ
nhanh để tham gia các nấc thang giá trị gia tăng cao của chuỗi giá trị toàn cầu, làm
cho các sản phẩm của quốc gia đó có chất lượng thấp và khả năng cạnh tranh quốc tế
thấp.
Thứ năm, cạnh tranh lao động giá rẻ giúp một số quốc gia tạo đà tăng trưởng trong
thời gian đầu. Tuy nhiên, kéo dài lợi thế cạnh tranh này có thể dẫn tới hệ quả là trình
độ nguồn nhân lực thấp.

Thứ sáu, không tạo ra được một môi trường để phát triển khu vực doanh nghiệp
năng động và có khả năng cạnh tranh quốc tế, đặc biệt là khu vực tư nhân.
V. Cách thoát bẫy trung bình của Hàn Quốc
Hàn Quốc như một trường hợp thành công trong quá trình phát triển kinh tế và là
một quốc gia bị rơi vào bẫy thu nhập trung bình trong cuộc khủng hoảng năm 1997,
rồi sau đó nhanh chóng thoát ra nhờ Chính phủ nước này đã tiến hành chính sách cải
cách mạnh mẽ trong hàng loạt các lĩnh vực, như luật pháp, tài chính, doanh nghiệp…
Có rất nhiều nhân tố tạo ra sự tăng trưởng bền vững kéo dài này, như việc thực thi
chiến lược tăng trưởng hướng vào xuất khẩu, cải cách thể chế và chính sách công, đầu
tư vào nguồn nhân lực và lực lượng doanh nhân chất lượng cao, sử dụng hiệu quả
nguồn lực công cho phát triển kết cấu hạ tầng và giáo dục, khả năng điều chỉnh linh
Bẫy thu nhập trung bình Trang
Kinh tế phát triển
hoạt đối với các thay đổi của giới doanh nhân và các nhà hoạch định chính sách, khả
năng duy trì được phân phối thu nhập khá đồng đều.
Đầu tiên, với triết lý cơ bản của chính quyền của Tổng thống Pác Chung Hy lúc đó
là “xuất khẩu là hàng đầu” và “xây dựng đất nước bằng thúc đẩy xuất khẩu”, Chính
phủ Hàn Quốc đã có những can thiệp mạnh mẽ bằng việc cung cấp các nguồn đầu tư
và các biện pháp ổn định kinh tế vĩ mô. Tất cả những ngành xuất khẩu đều được
Chính phủ Hàn Quốc tài trợ, hỗ trợ trong giai đoạn ban đầu.
Sau khi củng cố khả năng công nghệ, vào những năm giữa thế kỷ XX, Hàn Quốc đã
bắt đầu tự do hóa thương mại bằng việc giảm thuế quan. Tuy nhiên, ưu đãi thuế quan
đối với các ngành công nghiệp chiến lược lại bị xóa bỏ và điều này không dẫn tới sự
sụp đổ của ngành công nghiệp Hàn Quốc, mà ngược lại, tạo ra sức ép cần thiết để
nhiều ngành công nghiệp cạnh tranh trở thành số một thế giới.
Về chính sách ngành, Chính phủ Hàn Quốc đã cam kết tạo ra một nền kinh tế mạnh
dựa vào sở hữu trong nước, có xu hướng công nghiệp hóa kiểu “cú hích lớn”. Hàn
Quốc cũng phải chịu sức ép từ việc nâng cấp và tái cấu trúc ngành công nghiệp từ
thâm dụng vốn và lao động sang thâm dụng công nghệ. Khó khăn chính của quá trình
này là Hàn Quốc thiếu khả năng công nghệ để chuyển lên các hoạt động có giá trị gia

tăng cao hơn. Lúc này, sự can thiệp của Chính phủ là thông qua các doanh nghiệp lớn
(chaebol) của Hàn Quốc đã phát huy tác dụng. Những ngành công nghệ cao của các
chaebol được bảo hộ trước cạnh tranh toàn cầu và được tiếp cận với nguồn vốn hỗ trợ.
Hai nhân tố quan trọng trong giai đoạn ban đầu này là sự cam kết của Chính phủ và
các ngân hàng quốc doanh để làm giảm rủi ro của việc phát triển công nghệ.
Một điểm nổi bật nữa của Hàn Quốc là sự phát triển nguồn nhân lực nhanh chóng.
Sự phát triển mạnh mẽ của các ngành công nghiệp xuất khẩu thâm dụng lao động kỹ
năng đã thúc đẩy giáo dục của xã hội. Chính phủ Hàn Quốc, bằng việc xác định nhu
cầu tương lai của lực lượng lao động kỹ năng phục vụ cho phát triển công nghiệp, đã
đưa ra nhiều chương trình quản lý nguồn nhân lực. Vì vậy, khi các dòng công nghệ
mới từ nước ngoài vào Hàn Quốc đã thực hiện rất tốt do đầu tư vào nguồn nhân lực
được đào tạo tốt ngay từ thời kỳ đầu công nghiệp hóa.
Bẫy thu nhập trung bình Trang
Kinh tế phát triển
CHƯƠNG III. BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP
I. Khái quát kinh tế Việt Nam
1. Các chỉ số tăng trưởng.
.
Diễn
đàn phát triển Việt Nam. Nguồn: Tổng cục thống kê, các chỉ số chính của Ngân hàng
Bẫy thu nhập trung bình Trang
201
1
87,8
4
122,
0 1300 5,87
201
2
88,7

8
136,
0 1540 6,66
Kinh tế phát triển
phát triển châu Á (2008), Các tính toán về tăng trưởng – Đại học kinh tế Quốc dân
giai đoạn 1990 – 2012.
Nền kinh tế Việt Nam đã tăng trưởng nhanh chóng với tốc độ tăng trưởng bình
quân đạt 7,4% trong giai đoạn 1991 – 2010. Năm 1990, Việt Nam là một trong những
quốc gia nghèo nhất thế giới với GDP bình quân đầu người là 98 USD (theo dữ liệu
của ADB). Đến năm 2009, mức GDP bình quân đầu người là 1.109 USD. Đến năm
2012, với mức GDP bình quân đầu người là 1.540 USD. Ngày 23/12/2009 Việt Nam
đã được xếp vào các nước có mức thu nhập trung bình thấp theo xếp hạng của ngân
hàng thế giới. Đây là một mốc quan trọng đánh dấu sự tăng trưởng của Việt Nam.
ICOR còn được gọi là hệ số sử dụng vốn, hay hệ số đầu tư tăng trưởng, hay tỷ lệ vốn trên
sản lượng tăng thêm, v.v
Các số liệu thống kê tăng trưởng cho thấy: cho đến giữa những năm 1990, hệ số
sử dụng vốn (ICOR) ở mức thấp, mức đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp (TFP)
ở mức cao – điều này cho thấy tăng trưởng nhanh do tăng hiệu suất. Giai đoạn sau đó,
chỉ số ICOR tăng lên, đóng góp của TFP đối với tăng trưởng giảm xuống và đóng góp
của vốn tăng lên đáng kể. Điều này cho thấy tăng trưởng có được nhờ đầu tư ồ ạt,
nhưng mức hiệu quả sử dụng vốn thấp.
Đặc biệt trong năm 2012 với nhiều thách thức từ những khó khăn của nền kinh tế
trong nước và thế giới, nhưng với sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị, Việt Nam đã đạt
được những kết quả khả quan trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là kiềm chế lạm phát, ổn
định kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng hợp lý, đảm bảo an sinh xã hội
Tuy nhiên trên thực tế vẫn xuất hiện một số hạn chế trong sự phát triển kinh tế ở
Việt Nam. Chúng ta có thể kể đến đó là hiện tượng bất bình đẳng thu nhập.
Bảng 2.3: Thu nhập bình quân đầu người và chênh lệch thu nhập
Bẫy thu nhập trung bình Trang

×