Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Tiểu Luận Tình hình phát triển chăn nuôi Việt Nam, triển vọng và thách thức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.07 KB, 17 trang )

I. LỜI MỞ ĐẦU
Trong 10 năm gần đây, tình hình nghiên cứu và phát triển chăn nuôi
của Việt Nam đã có bước tiến bộ rõ rệt cả về số lượng và chất lượng. Các
hệ thống chăn nuôi trong khu vực dự án được thống nhất chung trong hệ
thống canh tác rất truyền thống. Các loại hệ thống canh tác và vai trò của
vật nuôi trong các hệ thống này khá đa dạng tuỳ theo các điều kiện xã hội,
kinh tế, sinh thái và các nhóm người dân tộc thiểu số. Vật nuôi tham gia
vào quá trình sản xuất ngành trồng trọt (làm đất, phân bón), an toàn lương
thực và mặt khác chúng sử dụng các nguồn không sử dụng tới ủng hộ nhân
dân và của chung (phần còn lại của cây trồng, các vùng đấttrống của công
cộng để chăn nuôi, v v ) để tạo thêm và tích luỹ vốn, và biểu hiện cho sự
khá giả. Trâu và bò được nuôi để cho sức kéo, thịt, phân bón và để bán con
giống. Tại những vùng xa xôi hẻo lánh, trâu và bò thường được giữ như
một loại “ngân hàng vật nuôi” của hộ gia đình để bán và khi cần tiền mặt
để trang trải các khoản như chi phí giáo dục, y tế và dùng cho các dịp kỷ
niệm như lễ hội, đám cưới và đám tang. Lợn được nuôi để bán, để ăn trong
gia đình và cũng như dùng cho các dịp lễ tết. Gia cầm (gà và vịt) phổ biến
là thả vườn thường là tự bới tìm thức ăn và cũng là một nguồn cung cấp
chất đạm và tiền mặt. Cũng có khi dê được nuôi để lấy thịt. Chăn nuôi là
một nguồn vốn dự trữ và các đàn vật nuôi là một khoản rất dễ chia thừa kế.
Bên cạnh những hoạt động sản xuất tiêu dùng trong nước, chăn nuôi cũng
mang lại hiệu quả kinh tế cao từ xuất khẩu sang các nước.
Mặc dù hoạt động sản xuất chăn nuôi đóng góp đáng kể cho an toàn
lương thực và năng suất trang trại, ấn tượng chung là phần lớn các nông
dân nghèo trong khu vực dự án có kỹ năng chăn nuôi tương đối thấp.
Không có truyền thống sản xuất chăn nuôi và gây giống đầu tư thâm canh,
và các nguồn lực cần thiết cho kiểu hệ thống sản xuất này rất hạn chế.
Thiệt hại do các loại bệnh dịch trong chăn nuôi rất cao. Vì vậy, chăn nuôi
- 1 -
tốt hơn, cải thiện sức khoẻ vật nuôi, quản lý khu chăn nuôi, cũng như khả
năng tiếp cận với tài chính vi mô là những nhu cầu chính cần phải làm rõ.


Làm sao để khắc phục được những khó khăn, nâng cao hiệu quả kinh tế
cho ngành chăn nuôi, chúng tôi đã tìm hiểu nội dung “ Tình hình phát
triển chăn nuôi Việt Nam, triển vọng và thách thức”
II. NỘI DUNG
1. Một số kết quả trong nghiên cứu và phát triển chăn nuôi ở Việt
Nam hiện nay
1.1. Về một số giống vật nuôi chủ yếu
- Đối với chăn nuôi lợn đã tăng tỷ lệ thịt nạc từ 33,6% ở lợn nội lên
40,6% ở lợn lai (miền Bắc) và 34,5% ở lợn nội lên 42,6% tỷ lệ nạc ở lợn
lai (miền Nam). Đối với lợn lai 3 dòng ngoại (Landrace x Yorkshire) x
Duroc tỷ lệ nạc trong nghiên cứu đạt 58-61%, trong đại trà sản xuất đạt 52-
56%. Hiện nay, (năm 2001) cả nước có 21.741 ngàn con lợn, sản xuất
1513 ngàn tấn thịt hơi, xuất khẩu năm 2001: 27,3 ngàn tấn thịt xẻ (tương
đương 40 ngàn tấn thịt lợn hơi, chiếm 2,6% số thịt lợn sản xuất ra). Hiện
nay, cả nước sản xuất khoảng 3,5 triệu lợn ngoại có tỷ lệ nạc trung bình
trên 51%, chất lượng tốt, khối lượng thịt trung bình 80-95kg, sản xuất 12
triệu lợn lai nội x ngoại khối lượng trung bình 65-85kg, tỷ lệ nạc trung
bình 38-51% tuỳ từng công thức lai. Khoảng 6 triệu lợn nội thuần, chủ yếu
- 2 -
nuôi ở vùng sâu vùng xa, khối lượng trung bình 35-55kg/con. Khối lượng
lợn xuất chuồng trung bình toàn quốc (1999) 69,8kg/con với tốc độ tăng
1%, khối lượng xuất chuồng năm 2001 ước đạt 71,5kg/con.
- Đối với chăn nuôi gia cầm: trong 10 năm gần đây, về chất lượng
đàn gia cầm được cải thiện rõ nét: gà công nghiệp lông trắng sản xuất gần
14 triệu con/năm; gia cầm lông màu sản xuất khoảng 65 triệu con/năm
(2001); vịt CV.Super-M khoảng 17 triệu con/năm; ngan năng suất cao
khoảng 6 triệu con/năm; gia cầm địa phương trên 100 triệu con/năm.
Tổng đàn gia cầm năm 2001: 216 triệu con, trong đó gà: 158 triệu;
vịt, ngan, ngỗng: 58 triệu con. Tổng số thịt gia cầm sản xuất ra năm 2001:
322 ngàn tấn

- Đối với chăn nuôi đại gia súc
+ Đàn bò năm 1992 có 3.193,8 ngàn con, trong đó khoảng 12% bò
lai Sind. Từ năm 1994, Bộ Nông nghiệp và PTNT có chương trình cải tạo
bò Việt Nam đã nâng tỷ lệ lai Sind lên 25%. Sau khi chương trình kết thúc
vào năm 1998, tình hình cải tạo chất lượng đàn bò theo hướng Sind hoá
chậm lại. Đến nay, theo đánh giá của các chuyên gia chưa đạt 28%/tổng
đàn. Bò lai Sind có khối lượng trung bình ở con cái 210-230kg/con; ở con
đực 240-260kg/con. Bò vàng Việt Nam có khối lượng 180kg ở con cái;
200kg ở con đực.
Bảng 1. Số lượng đàn gia súc

m
Trâu Bò Lợn Gà Vịt,
ngan

(1000
con)
Tổng
số
(con)

sữa
(con)
(1000
con)
(1000
con)
ngỗng
(1000
con)

(1000
con)
199
0
2.854,
1
3.116,
9
11.00
0
12.260 80.184 23.636 372,3
199 2.886, 3.201, 13.08 13.891 99.627 32.041 312,2
- 3 -
2 5 8 0
199
4
2.977,
3
3.466,
8
16.50
0
15.587 99.627 32.041 427,8
199
6
2.953,
9
3.800,
3
22.56

3
16.921 112.788 38.617 512,8
199
8
2.951,
4
3.987,
3
26.64
5
18.132 126.361 41.529 514,3
199
9
2.955,
7
4.063,
5
29.40
1
18.886 135.760 43.563 516,0
200
0
2.897,
2
4.127,
9
34.98
2
20.194 147.050 50.996 543,9
200

1
2.819,
4
3.896,
0
41.24
1
21.741 158.037 57.973 569,4
Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2002
Từ những năm của thập kỷ 80 và đặc biệt trong thập kỷ 90, các công
thức lai giữa bò lai Sind với bò Charolais, bò Lymousin, Hereford,
Simental. Drought master, Red Brahman, Grey Brahman được thử
nghiệm. Trong đó, các công thức lai với bò Chairolais, Brahman đang
được ưa chuộng ở duyên hải miền Trung, Tây nguyên. Riêng bò Brahman
có thể nuôi thuần tại vùng miền Trung. Khối lượng bò lúc 18-24 tháng tuổi
có thể đạt 230-350kg, sau khi vỗ béo 60 ngày đạt 370-400kg được thị
trường ưa chuộng
Bảng 2. Sản lượng thịt các loại gia súc, gia cầm
Năm Tổng thịt Thịt các loại (tấn) Trứng Sữa (tấn)
(tấn) Thịt lợn Thịt trâu,

(triệu
quả)

1990 1.007.900 729.000 111.900 1.896,4 9.300
1992 1.078.866 797.156 127.275 2.269,1 13.043
1994 1.235.933 937.730 111.792 2.672,1 16.234
1996 1.408.320 1.077.004 119.362 3.083,8 27.856
1998 1.608.476 1.230.621 127.755 3.226,7 32.000
1999 1.711.724 1.318.196 131.720 3.442,8 39.692

- 4 -
2000 1.835.923 1.408.961 140.449 3.708,6 52.172
2001 1.989.291 1.513.279 153.410 4.161,8 64.703
Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2002
- Đối với bò sữa năm 1992 có 13.080 con; năm 1999 có 29.401 con;
năm 2000 có 34.982 con. Từ khi Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và PTNT có
chương trình phát triển giống bò sữa (1999) đàn bò sữa đã tăng nhanh:
41.241 con (2001); dự kiến đến hết năm 2002 đàn bò tăng lên 54.000 con.
Như vậy, trong vòng 1 năm đàn bò tăng thêm 13.000 con bằng cả giai
đoạn 20 năm (1973-1992). Và trong năm 2000-2002 tăng 20.000 con bằng
cả giai đoạn 1992-2000. Năng suất sữa bò hiện nay đạt 2800-3700kg/chu
kỳ. Trung bình toàn đàn đạt 3400-3500kg/chu kỳ đối với bò lai F1, F2 và
F3 giữa lai Sind với bò Holstein Friesian. Bò thuần HF có sản lượng sữa
3850kg-5000kg/chu kỳ. Một số nghiên cứu gần đây cho thấy có triển vọng
đạt 3800-4000kg/chu kỳ đối với bò lai F2 3/4 và F3 7/8 Holstein Frisian ở
các vùng đồng bằng. Hai vùng Mộc Châu và Lâm Đồng, nhất là vùng Lâm
Đồng có triển vọng nuôi bò đạt năng suất sữa 4500-7000kg/chu kỳ đối với
bò Holstein Friesian.
- Đàn trâu Việt Nam năm 1990 có 2854 ngàn con, năm 1994 tăng lên
2977 ngàn con (1994). Từ đó giảm dần còn 2819 ngàn con vào năm 2001.
Xu thế đàn trâu còn tiếp tục giảm.
- Đàn dê hiện có 569 ngàn con (2001) đang góp phần cho các hộ
chăn nuôi nghèo ở Trung du, miền núi có thêm thu nhập góp phần xóa đói
giảm nghèo.
1.2. Thức ăn chăn nuôi
Thức ăn chăn nuôi chiếm 70% chi phí giá thành sản phẩm chăn nuôi.
Do đó nghiên cứu và đầu tư công nghệ cho chế biến thức ăn chăn nuôi
trong 6 năm gần đây được quan tâm nhiều hơn. Các phương pháp nghiên
cứu hiện đại nhằm đánh giá giá trị dinh dưỡng thức ăn gia súc, công nghệ
- 5 -

chế biến thức ăn, cân bằng năng lượng, acid amin, vitamin, khoáng đang
được quan tâm nghiên cứu.
Tiêu tốn thức ăn/kg tăng trọng từ 3,8-4,0kg giảm xuống còn 2,9-
3,1kg đối với lợn (trong nghiên cứu); trong sản xuất đại trà từ 4,0-4,5kg
xuống còn 3,2-3,5kg; tương tự đối với chăn nuôi gà công nghiệp tiêu tốn
từ 2,5-3,0kg thức ăn/kg tăng trọng xuống còn 2,0-2,2kg. Thức ăn chăn
nuôi công nghiệp đã tăng từ 59 ngàn tấn (1990) lên 2500 ngàn tấn (2000),
tốc độ tăng trung bình 31,7%/năm ở giai đoạn này. Trong vòng 10 năm đã
tăng gấp 42 lần.
1.3. Kết quả về bảo tồn nguồn gen vật nuôi Việt Nam và đa dạng sinh
học trong chăn nuôi
Đã kết hợp phương pháp nuôi giữ động vật tại bản xứ và áp dụng
phương pháp di truyền phân tử để đánh giá bản chất của 51 giống vật nuôi
quý của Việt Nam. Bảo tồn được một số giống có nguy cơ mất như lợn ỉ,
gà Hồ v.v. Đã chọn lọc phát triển một số giống như cừu Phan Rang, dê
Bách Thảo, vịt Bầu quỳ, gà H’mông; đã bảo tồn được 2181 mẫu AND của
39 giống. Đây là nguồn gen quý đang được lưu giữ tại Viện Chăn Nuôi.
1.4. Một số kết quả ứng dụng công nghệ sinh học trong chăn nuôi
- Bằng công nghệ cấy truyền phôi tươi và phôi đông lạnh, đến nay
chúng ta đã có hàng trăm bò được tạo ra. Những bò này sinh trưởng phát
triển cao hơn 30-40%, cho năng suất sữa cao hơn 25-30% so với những bò
khác cùng giống. Có nhiều con đang vắt sữa lứa 1 và 2 năng suất sữa
4500-5500 kg/chu kỳ. Có 4 bò đực giống tốt từ cấy phôi đang sử dụng
khai thác tinh dùng cho thụ tinh nhân tạo hoặc cho nhảy trực tiếp. Đã
- 6 -
thành công trong việc xác định giới tính của phôi đã cắt một phôi thành 2
tạo ra 2 bê giống nhau.
- Với công nghệ gen động vật, các nhà nghiên cứu chăn nuôi đã làm
chủ được kỹ thuật nhân gen PCR trên các thiết bị đã có ở Việt Nam. Công
việc này đã được triển khai và bước đầu có kết quả với gen Halothane trên

lợn, gen Kappacasein và
β
-lactoglobulin trên bò. Một số gen hóc môn sinh
trưởng và sinh sản của gà và lợn góp phần chọn lọc cải tiến di truyền chất
lượng giống lợn và bò sữa của Việt Nam.
- ứng dụng công nghệ lên men để bảo quản phụ phẩm nông nghiệp
và thủy sản làm thức ăn cho chăn nuôi, sử lý chất thải chăn nuôi làm giảm
ô nhiễm môi trường và tạo nguồn khí đốt Biogas cũng là thành tựu của
việc ứng dụng công nghệ sinh học trong chăn nuôi ở Việt Nam hiện nay.
2. Những thách thức đối với ngành chăn nuôi nước ta
2.1. Giá thức ăn gia súc cao, chất lượng thức ăn chưa được kiểm soát
Chi phí thức ăn trong giá thành sản phẩm chăn nuôi chiếm 70%. Do
vậy, giá thức ăn cao hơn các nước trong khu vực đã tác động bất lợi cho
phát triển chăn nuôi của Việt Nam.
- Nhìn chung giá thức ăn chăn nuôi ở Việt Nam đã giảm đáng kể
12% (cho 2 năm 2000-2001 do Nhà nước bỏ thuế nhập khẩu khô dầu đỗ
tương xuống 0%; thuế VAT được giảm từ 10% xuống 5%; lãi vay tín dụng
giảm ). Ví dụ: giá thức ăn cho lợn vỗ béo điều tra của IFDRI - Bộ Nông
nghiệp và PTNT, 1999 là 2.830 đồng/kg. Giá thức ăn tương tự của
Malaysia 175 USD/tấn = 2.625 đồng/kg, Việt Nam đắt hơn 7,8%; của
Philippine: 208 USD/tấn = 3.120 đồng/kg, trong trường hợp này ở Việt
Nam thức ăn chăn nuôi có giá rẻ hơn. Thức ăn hoàn chỉnh cho gà con ở
Việt Nam quý II/1999: 3840 đồng; năm 2002: 3700 đồng/kg; ở
- 7 -
Malaysia: 213 USD/tấn = 3200 đồng/kg, ở Việt Nam đắt hơn 15,6% so
với Malaysia.
- Chất lượng thức ăn chăn nuôi ở Việt Nam do 136 nhà máy sản xuất
ra hiện nay có chất lượng rất khác nhau và giá bán cũng rất khác nhau.
Phần lớn các xí nghiệp nhỏ có chất lượng thức ăn chăn nuôi thấp.
- Theo tính toán, chỉ có thể khắc phục được trở ngại này nếu giảm

chi phí vận tải nhập khẩu cao hơn 8-13% (do cảng biển Việt Nam chưa có
cảng biển sâu tiếp nhận loại tải >50.000 tấn; chưa có thiết bị chuyên dùng
bốc dỡ ở cảng biển cho thức ăn gia súc) chi phí cho đại lý cấp I và II từ 6-
7%.
Điều này phục thuộc vào quá trình đầu tư cơ sở hạ tầng của cả nước.
Đồng thời một phần chăn nuôi tập trung quy mô thâm canh lớn hơn sẽ
giúp giảm chi phí nêu trên.
2.2. Năng suất ngành chăn nuôi thấp
Mặc dù GDP ngành chăn nuôi chiếm 19% trong nông nghiệp. Tổng
sản phẩm chăn nuôi trị giá 1,65 tỷ USD (24.960,2 tỷ đồng của năm 2000
so với 10.1043,7 tỷ đồng của ngành trồng trọt; 3136,6 tỷ đồng ngành dịch
vụ nông nghiệp). Người nông dân chỉ dành 10% thời gian lao động nông
nghiệp cho ngành chăn nuôi. Mặc dù năng suất lao động của các hoạt động
chăn nuôi cao hơn 25% so với các hoạt động khác của ngành nông nghiệp
và hình thành một ngành công nghiệp chế biến thức ăn chăn nuôi 2,5 triệu
tấn (2000) và 3 triệu tấn (2001) trị giá 12.000 tỷ đồng (tương đương 800
triệu USD) nhưng chăn nuôi vẫn ở quy mô trang trại nhỏ bé, ít có điều
kiện áp dụng các tiến bộ kỹ thuật về giống, về công nghệ mới để nâng cao
năng suất vật nuôi.
Quan sát cho thấy các trại chăn nuôi có quy mô 50-1000 nái; 200-
1000 lợn thịt họ rất chú trọng các khâu áp dụng tiến bộ kỹ thuật, công
- 8 -
nghệ mới để nâng cao năng suất chất lượng sản phẩm và hạ giá thành sản
phẩm chăn nuôi.
2. 3. Hệ thống giống vật nuôi chưa hình thành
Hệ thống giống hình tháp cụ kỵ - ông bà - bố mẹ trong thực tế mới
đang được quan tâm khoảng 2 năm gần đây, còn rất mới mẻ, cần được
quan tâm. Tình trạng một số giống vật nuôi tốt (bố mẹ) lại biến thành vật
nuôi thương phẩm; và vật nuôi thương phẩm ở một số trại tư nhân lại được
các hộ nông dân khác mua làm giống bố mẹ là còn phổ biến.

2.4. Trong thập niên tới về cơ bản nước ta vẫn không tránh khỏi tình
trạng thiếu nghiêm trọng nguyên liệu thức ăn dùng cho chăn
nuôi
Trong 10 năm qua, hàng năm chúng ta phải nhập 30-40% nguyên liệu như
ngô, 80% nguyên liệu khô dầu đỗ tương, 50% nguyên liệu bột cá và các
loại thức ăn bổ sung như premix, axit amin tổng hợp. Theo dự báo của Cục
Khuyến nông và Khuyến lâm đến năm 2005 nhu cầu thức ăn tinh cho chăn
nuôi 10 triệu tấn, trong đó nước ta tự sản xuất được khoảng 7,6 triệu tấn
và cần nhập 2,4 triệu tấn. Đến năm 2010 nhu cầu thức ăn tinh sẽ gấp 1,6
lần con số nêu trên (khoảng 16-17 triệu tấn), trong đó trong nước ước đoán
chỉ đáp ứng được 70% nhu cầu.
2.5. Thị trường tiêu thụ sản phẩm chăn nuôi vẫn còn gặp khó khăn
- Thức ăn chăn nuôi ở Việt Nam đắt hơn trung bình của thế giới
khoảng 16% và so với khu vực 13%, do đó giá thành sản phẩm chăn nuôi
cao hơn.
Nhu cầu tiêu dùng thực phẩm thịt, trứng, sữa trong nước tuy vẫn tiếp
tục gia tăng do thu nhập của người dân tăng. Song giữa người sản xuất,
người giết mổ và người tiêu thụ sản phẩm vật nuôi có khoảng cách, thiếu
thống tin. Người chăn nuôi phải bán lợn hơi với giá thấp, còn người tiêu
thụ thực phẩm bị mua giá lại cao, chênh lệch đó người giết mổ hưởng lợi.
- 9 -
Trong khi đó thị trường nước ngoài sẽ càng có sự cạnh tranh gay gắt hơn
nhất là từ 2006 khi Hiệp định AFTA có hiệu lực hoàn toàn. Vì vậy rất cần
thiết cung cấp thông tin, tổ chức lại theo hệ thống giống từ chăn nuôi đến
giết mổ, tiệu thụ sản phẩm chăn nuôi.
2.6. Tình hình dịch bệnh vẫn là mối đe doạ tiềm tàng đối với vật nuôi
Một số bệnh truyền nhiễm như lở mồm long móng trâu, bệnh tụ
huyết trùng, bò, lợn, bệnh tiêu chảy ở lợn giai đoạn nhỏ, bệnh Newcattle,
Gumboro ở gà, bệnh dịch tả ở vịt v.v vẫn là những nguyên nhân gây rủi
ro và thiệt hại lớn cho ngành chăn nuôi, nếu đàn gia súc gia cầm không

được tiêm phòng triệt để. Chính phủ đã có quyết định số 166 và 167 TTg-
QĐngày 26/10/2001, trong đó hỗ trợ các loại vác xin chủ yếu để tránh dịch
nhưng việc triển khai vẫn thiếu đồng bộ. Hệ thống dịch vụ thú y kém phát
triển.
2.7. Hội nhập kinh tế khu vực (AFTA) và kinh tế thế giới (WTO) vừa
là thuận lợi vừa là thách thức
Là thách thức bởi vì trình độ công nghệ và điểm xuất phát của nước
ta còn thấp so với các nước trong khu vực như Singapo, Thái Lan,
Malaysia v.v Theo cam kết, đến năm 2006 nước ta phải mở cửa thị
trường chăn nuôi, lúc đó mức thuế nhập khẩu thịt lợn, sản phẩm sữa chỉ
tối đa còn 5%. Rõ ràng nếu như chúng ta không hạ được giá thành và
nâng cao chất lượng sản phẩm chăn nuôi trong những năm tới thì ngay cả
thị trường nội địa cũng sẽ bị thu hẹp bởi sự lấn ép của sản phẩm thịt, trứng,
sữa từ nước ngoài vào.
3. Phương hướng phát triển chăn nuôi giai đoạn 2000-2010
Mục tiêu chiến lược phát triển chăn nuôi là chọn lọc tăng năng suất
chất lượng các tính trạng kinh tế giống vật nuôi, giảm tiêu tốn thức ăn/kg
tăng trọng, vệ sinh an toàn thực phẩm, hạ giá thành sản phẩm/kg thịt để
tăng sức cạnh tranh phục vụ chủ yếu cho thị trường trong nước trong 5
- 10 -
năm tới và hướng tới tham gia xuất khẩu 4-5% sản phẩm vào năm 2010.
Cụ thể là:
Bằng nhiều biện pháp để tăng nhanh đàn gia súc, gia cầm (bảng 3),
đàn lợn từ 19,5 triệu con (2000) tăng lên 24 triệu con (2005); đàn gia cầm
từ 197 triệu lên 297 triệu năm 2005; đàn bò từ 4,1 triệu (2000) lên 4,2 triệu
con (2005).v.v.
Phấn đấu đưa mức sản xuất thịt hơi các loại từ 22kg/đầu người (15kg
thịt xẻ) năm 1999 lên 30kg thịt hơi/đầu người (20-22kg thịt xẻ/người) năm
2005 và 40kg thịt hơi/đầu người (28-30kg thịt xẻ/người) năm 2010. Đưa
mức sản xuất trứng từ 46 quả/đầu người năm 1999 lên 60 quả/đầu người

năm 2005 và 75 quả/đầu người năm 2010. Đưa đàn lợn lai nhiều máu
ngoại đạt tỷ lệ nạc cao. Theo đánh giá của chúng tôi số gia cầm có thể lên
trên 400 triệu con; ngược lại số lượng trâu có thể giảm còn 2,7 triệu con
năm 2005 và 2,5 triệu con vào năm 2010.
Bảng 3. Dự kiến chỉ tiêu đầu gia súc, gia cầm từ 2000- 2005 và 2010
Chỉ tiêu ĐVT Năm
2000
Năm
2001
Năm
2005
Năm
2010
Lợn 1000 con 19.500 20.000 24.000 30.000
Gia cầm 1000 con 197.000 220.000 297.000 350.000
Bò 1000 con 4.146 4.220 4.200 4.600
Trong đó bò
sữa
1000 con 32 33 100 200
Trâu 1000 con 2.950 2.960 3.000 3.000
Dê 1000 con 500 530 650 800
Ong 1000 đàn 300 340 500 800
Tằm 1000 ổ 420 450 850 1.200
Nguồn: Cục Khuyến nông - Khuyến lâm

Việc xuất khẩu 50-100.000 tấn thịt xẻ các loại (tương đương 75-150
ngàn tấn thịt hơi trong tổng số 3,6 triệu tấn thịt hơi trong năm 2010, chiếm
- 11 -
4-5% tổng số thịt sản xuất ra) vào năm 2005 và 2010 của Bộ Nông nghiệp
và PTNT thể hiện thị trường nội địa là quan trọng trong hướng tương lai

gần.
Bên cạnh cải thiện điều kiện thị trường trong nước, chiến lược phát
triển chăn nuôi cũng cần đặt ra điều kiện để tiếp cận thị trường quốc tế
trong tương lai xa thông qua áp dụng công nghệ mới để nâng cao chất
lượng và hạ giá thành sản phẩm chăn nuôi.
Theo dự kiến đến năm 2010 Việt Nam sẽ tiêu thụ khoảng 1,2 triệu
tấn sữa, cung cấp 13,5 lít sữa/người. Việt Nam sẽ phát triển 200 ngàn bò
sữa, tự sản xuất được 300 ngàn tấn vào năm 2010, chiếm 25% thị trường,
sẽ phải tiếp tục nhập khẩu 900 ngàn tấn (chiếm 75%), trị giá 500-550 triệu
USD/năm, tức là gần tương đương với số ngoại tệ xuất khẩu 3 triệu tấn
gạo hiện nay của cả nước.
Với sự cố gắng đó tỷ trọng GDP chăn nuôi trong nông nghiệp (chăn
nuôi đạt 30%, trồng trọt và lâm nghiệp 70% và thay vì hiện nay 18-19%).
4. Một số giải pháp góp phần đẩy mạnh nghiên cứu và phát triển chăn
nuôi
4.1. Chính sách liên quan đến công tác giống vật nuôi
w Nhập khẩu, chọn tạo và phổ biến nhanh các giống gia súc, gia cầm
có năng suất cao, đồng thời vẫn tiến hành nghiên cứu chọn lọc lai tạo cải
tiến các giống nội địa.
w Rà soát, xây dựng lại và ban hành tiêu chuẩn giống quốc gia đối
với một số giống bò sữa, lợn, gia cầm.
Cấp chứng chỉ và thanh tra giống, phân loại giống theo định kỳ và
công bố trên thông tin tạp chí chuyên ngành của Bộ Nông nghiệp và PTNT
để mọi người biết thực hiện.
w Thành lập Hội đồng cải tiến giống quốc gia cho từng đối tượng
giống vật nuôi, bao gồm các nhà khoa học chuyên ngành, đại diện kinh tế
- 12 -
tư nhân và Nhà nước, nông dân có kinh nghiệm, Cục, Vụ, Viện, Hội chăn
nuôi, Thú y.
w Cổ phần hoá các trung tâm giống đang sản xuất có nề nếp, có lãi để

các trung tâm này tiếp tục năng động cải tiến, đầu tư nâng cao tiến bộ di
truyền giống, tạo giống mới, nâng cao năng lực cạnh tranh.
w Một số trại giống thuần, cụ kỵ, ông bà được đánh giá là có chất
lượng tốt, nếu bị lỗ thì cần giải quyết theo 2 hướng:
- Nhà nước trợ giá theo số lượng giống ông bà, bố mẹ thực tế cung
cấp cho các trại phía dưới theo hệ thống giống hình tháp.
- Mặt khác, trại giống gốc này tự nhân cấp bố mẹ để cung cấp cho
sản xuất nhằm giảm lỗ (sản xuất ít giống ông bà hơn). Đồng thời, khuyến
khích các trại giống gốc này sản xuất tinh, sản xuất lợn đực để cung cấp
cho các trạm thụ tinh nhân tạo các địa phương.
4.2. Chính sách liên quan đến sản xuất, chế biến thức ăn chăn nuôi
- Tăng cường kiểm tra, thanh tra chất lượng thức ăn chăn nuôi. Tăng
cường năng lực cho các phòng phân tích để tham gia đánh giá chất lượng
thức ăn chăn nuôi. Đồng thời đưa ra một số tiêu chuẩn ngành, tiêu chuẩn
quốc gia về thức ăn chăn nuôi; chính xác trong đăng ký nhãn hiệu thức ăn.
- Tạo nguồn nguyên liệu thức ăn với giá thành hạ. Tạo điều kiện để
người sản xuất ngô lai trong nước, nâng sản lượng từ 2133 ngàn tấn (trong
đó dành cho chăn nuôi ước 1,2 triệu tấn) tăng lên 5 triệu tấn cho chăn nuôi
vào năm 2010. Nếu sản xuất ngô trong nước không đủ, cho phép nhập
khẩu lúc trái vụ và với mức thuế suất 0%. Mức thuế này là tương đương
với các nước trong khu vực đang áp dụng.
- Hỗ trợ nghiên cứu dinh dưỡng vật nuôi và khuyến nông trong áp
dụng sản xuất, chế biến và sử dụng thức ăn chăn nuôi khoa học và hợp lý.
4.3. Chính sách liên quan đến vệ sinh thú y và chế biến sản phẩm chăn
nuôi
- 13 -
- Tăng cường vác xin phòng bệnh theo quyết định 166 và 167 của
Thủ tướng Chính phủ ngày 26/10/2001 đối với một số bệnh truyền nhiễm
ảnh hưởng đến kinh tế chăn nuôi.
- Đầu tư trang thiết bị cho các trung tâm chẩn đoán thú y vùng và đào

tạo cán bộ cho trung tâm.
- Củng cố mạng lưới thú y xã, hỗ trợ mỗi xã 1 cán bộ thú y với mức
lương tối thiểu từ nguồn kinh phí khuyến nông nhằm nâng cao hiệu quả
dịch vụ thú y tại cơ sở.
- Ưu tiên và khuyến khích vay tín dụng ưu đãi đầu tư cơ sở giết mổ,
chế biến thịt. Thành lập hệ thống thú y thanh tra nghiêm ngặt tại cơ sở giết
mổ và chế biến thịt.
4.4. Chính sách khuyến khích thị trường
- Thành lập một số chợ đầu mối để quy tụ được hàng hoá có quy mô
lớn hơn (do cơ sở chăn nuôi của ta còn bé). Tại đây, gia súc được đấu thầu
nhằm rút ngắn khoảng cách giá cả giữa nhà sản xuất chăn nuôi đến người
chế biến thịt và người tiêu dùng.
- Có chính sách tín dụng để ngay tại chợ đầu mối các cơ sở giết mổ,
chế biến thịt được ưu tiên đầu tư nhằm giảm chi phí vận chuyển và hao hụt
do vận chuyển gia súc.
- Nhà nước tạo điều kiện để thông tin kinh tế, thương mại thị trường
đến được các nhà sản xuất, giết mổ, chế biến sản phẩm chăn nuôi và
người tiêu dùng.
4.5. Về công tác quản lý ngành
- Thành lập Cục Chăn nuôi hoặc Vụ Chăn nuôi để công tác quản lý
Nhà nước của Ngành chăn nuôi nhanh chóng trong xây dựng chiến lược,
cơ chế chính sách, giám sát, thanh tra điều phối ngành chăn nuôi.
- 14 -
4.6. Chính sách về đầu tư
- Cần có chính sách khuyến khích chăn nuôi tập trung, thâm canh
quy mô lớn theo khu vực hoá. Hình thức chăn nuôi tập trung này sẽ giúp
chi phí dịch vụ thức ăn, thú y, kiểm soát vệ sinh môi trường chăn nuôi
được thuận lợi.
- Do quy mô chăn nuôi lớn, đòi hỏi vốn lớn, Nhà nước tạo điều kiện
cho vay vốn tín dụng với lãi suất thấp, thời gian vay phù hợp với chu kỳ

sinh học của vật nuôi và chu kỳ quay vòng vốn đầu tư xây dựng cơ bản và
mua con giống cho hình thức đầu tư chăn nuôi thâm canh tập trung này.
4.7. Chính sách cho công tác nghiên cứu khoa học và khuyến nông
- Tăng cường năng lực cho các phòng thí nghiệm
- Đào tạo cán bộ nghiên cứu và khuyến nông viên
- Ưu tiên cho nghiên cứu theo chương trình dự án trọng điểm, theo
hướng đi thẳng vào công nghệ cao, hiện đại nhưng phù hợp với điều kiện
thực tế Việt Nam như: nghiên cứu giống cao sản, nghiên cứu trang thiết bị
chuồng trại, tiểu khí hậu chuồng nuôi (theo phương pháp làm mát đối với
vật nuôi sinh sản ). Nghiên cứu dinh dưỡng thức ăn theo hướng: cân bằng
acid amin, vitamin, khoáng, năng lượng, nghiên cứu tiêu hoá hấp thu bằng
phương pháp hiện đại.
- Nghiên cứu áp dụng công nghệ thông tin để quản lý giống bò sữa,
bò thịt giống gốc và giống lợn cụ kỵ, ông bà.
- Nghiên cứu chế biến sản phẩm chăn nuôi, đảm bảo an toàn thực
phẩm trên cơ sở phát triển nền nông nghiệp hữu cơ.
- Nghiên cứu hiệu quả kinh tế, hệ thống chăn nuôi, thị trường tiêu thụ
sản phẩm chăn nuôi. Từ đó rút ra cơ sở khoa học đề ra chính sách kinh tế,
thị trường liên quan đến lĩnh vực chăn nuôi.
- 15 -
III. KẾT LUẬN
Ngành chăn nuôi và thú y Việt Nam trong 10 năm qua được đầu tư ít,
chỉ chiếm 4,0% so với tổng đầu tư cho nông nghiệp. Tuy vậy, tốc độ phát
triển chăn nuôi đạt 4,4%/năm, tương đương tốc độ phát triển của trồng trọt
(4,4%/năm) và cao hơn tốc độ phát triển dịch vụ nông nghiệp (3,2%)/năm,
đóng góp 19% giá trị sản xuất nông nghiệp trong nông nghiệp với giá trị
tổng sản phẩm năm 2000 là 24.960 tỷ đồng (tương đương 1,65 tỷ USD).
Các chính sách liên quan đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế Nghị quyết
số 6-NQ/TW ngày 10/11/1998 của Bộ chính trị đưa chăn nuôi thực sự trở
thành ngành sản xuất chính; Quyết định số 225/1999/QĐ-TTg ngày

10/12/1999 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt chương trình giống cây
trồng vật nuôi Nghị quyết 3/2000/QĐ-CP ngày 2/2/2000 của Thủ tướng
Chính phủ về kinh tế trang trại; Quyết định số 02/2001/QĐ-TTg ngày
2/1/2001 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ đầu tư từ quỹ hỗ
trợ phát triển đối với các sự án sản xuất; Quyết định số 133/2001/QĐ-TTg
ngày 10/9/2001 của Thủ tướng Chính phủ về vay vốn tín dụng; Quyết định
số 65/2001/QĐ-BTC ngày 29/6/2001 của Bộ Tài chính danh mục 4 mặt
hàng được thưởng xuất khẩu, trong đó có thịt lợn; Quyết định số
166/2001/QĐ-TTg ngày 26/10/2001 của Thủ tướng Chính phủ về một số
biện pháp phát triển chăn nuôi lợn xuất khẩu thời kỳ 2001-2010; Quyết
- 16 -
định số 167/2001/QĐ-TTg ngày 26/10/2001 về một số giải pháp phát triển
chăn nuôi bò sữa.v.v đã tạo cho ngành chăn nuôi có cơ sở pháp lý để
phát triển bền vững lâu dài và có chiều rộng đa dạng.
Do thu nhập của người dân được nâng cao, nhu cầu thực phẩm tiêu
thụ nội địa sẽ tăng đáng kể.
Cần phải có một số giải pháp chính sách về giống, dinh dưỡng thức
ăn, thú y, chế biến nghiên cứu khoa học, quản lý để giảm giá thành sản
phẩm chăn nuôi, nâng cao chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm.
Cần hình thành những khu chăn nuôi tập trung thâm canh, có quy mô
lớn nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế chăn nuôi.
Đề nghị thành lập cơ quan quản lý Nhà nước ngành chăn nuôi trực
thuộc Bộ Nông nghiệp và PTNT.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1/ Bộ nông nghiệp & PTNT, Viện chăn nuôi
2/ www.vnn.vn/channuoivietnam.
- 17 -

×