Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Vai trò của Hiệu trưởng nhà trường trước yêu cầu làm cho học sinh cảm nhận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (97.01 KB, 15 trang )

Vai trò của Hiệu trưởng nhà trường
trước yêu cầu làm cho học sinh cảm
nhận “Mỗi ngày đến trường là một
ngày vui”

A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài:
Trong xu hướng đổi mới dạy và học hiện nay, thì giáo dục tiểu học đã và đang có
những thay đổi lớn. Thực tế cho thấy, những đổi mới trong dạy và học ở tiểu học đã
góp phần tạo nên một gương mặt mới, sinh động và cởi mở hơn cho nền giáo dục
tiểu học nước nhà. Tuy nhiên, so với các nước trong khu vực và trên thế giới, dạy và
học tiểu học ở nước ta vẫn bị cho là khô cứng hơn, chưa thật hấp dẫn.
Nhìn lại quá trình phát triển giáo dục đào tạo trong nhiều năm qua, chúng ta nhận
thấy rằng, giáo dục phổ thông ở nước ta vẫn còn nhiều hạn chế, thiếu sót, nhất là
đối với cấp tiểu học là chặng đường đầu tiên quan trọng trong giáo dục phổ thông
nên việc học chữ và học làm người luôn là vấn đề được chú trọng. Nhưng trong
thực tế cho thấy nhiều những bất cập, nhất là trong việc giảng dạy người giáo viên
còn nặng về truyền thụ kiến thức mà ít gợi mở, ít quan tâm đến những yếu tố mang
tính nghiệp vụ sư phạm ngoài bài học; phương pháp giáo dục, phương pháp dạy học
tuy có nhiều đổi mới nhưng vẫn còn mang tính áp đặt, chưa thật sự quan tâm đến
tâm tư, nguyện vọng, việc tự học, tự giác của học sinh. Người giáo viên có thể nói là
thần tượng của học sinh nhưng chưa thực sự là người gần gũi để các em có thể bày
tỏ cảm nhận, nghĩ suy của mình. Trong đánh giá, các thầy cô giáo vẫn còn nhiều
khắt khe, có khi còn la mắng, đánh đập, từ đó khiến các em thiếu tự tin, thiếu mạnh
dạn trong việc thể hiện suy nghĩ và việc làm của mình.
Còn rất nhiều địa phương, Trường học là nơi tạo “áp lực” đối với các em khá nặng
nề. Các em đến trường chỉ có mỗi việc là học, học theo yêu cầu của thầy cô chứ
chưa có được những hoạt động giúp các em được vui chơi, thoải mái như “học mà
chơi, chơi mà học”. Mặt khác, kinh phí trang bị cơ sở vật chất, hoạt động giáo dục ở
nhiều nhà trường cũng còn hạn chế nên chưa tạo được cảnh quan thật đẹp mắt, hấp
dẫn các em. Các hoạt động giáo dục chưa được đầu tư đúng mức; khen thưởng thi


đua còn hạn chế nên việc thực hiện mục tiêu giáo dục chỉ ở một chừng mực nào
đó.
Từ thực tế cho thấy chính phong trào thi đua “ Xây dựng trường học thân thiện, học
sinh tích cực” thời gian qua đã góp phần mang lại những thành quả hết sức to lớn
trong việc nâng cao chất lượng giáo dục, môi trường giáo dục, giải quyết phần lớn
những hạn chế nói trên, từng bước đưa giáo dục Việt Nam tiếp cận gần hơn xu thế
giáo dục hiện đại của các nước. Với vai trò lả người quản lý nhà trường tôi mong
muốn tạo một môi trường giáo dục hết sức tốt đẹp, thân thiện để thu hút những lớp
học sinh có động lực đến trường, để các em có cảm nhận tốt đẹp về ngôi trường của
mình. Với suy nghĩ này tôi xin chia sẻ một số việc đã làm để thực hiện “ Vai trò của
hiệu trưởng nhà trường trước yêu cầu làm cho học sinh cảm nhận “Mỗi
ngày đến trường là một ngày vui”.
II. Mục đích và phương pháp nghiên cứu:
1.Mục đích nghiên cứu:
Để xây dựng nhà trường thực sự là điểm đến hấp dẫn của các thế hệ học trò và
niềm tin gửi gắm chăm sóc dạy dỗ con em của các bậc cha mẹ học sinh;
Là một Hiệu trưởng nhà trường tôi luôn trăn trở, cố gắng đổi mới phương pháp quản
lý và đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng môi trường thân thiện, các điều kiện giáo
dục tốt nhất;
Mong muốn các mối quan hệ trong nhà trường phải thật sự thân thiện, mọi
thành viên đều bình đẳng đoàn kết chan hoà, mỗi ngày học sinh đều cảm thấy đến
trường thực sự là một ngày vui.
2. Phương pháp nghiên cứu:
Dựa trên các văn bản về ” Đổi mới giáo dục tiểu học” do Bộ Giáo dục Đào tạo ban
hành.
Thực tiễn áp dụng của một số cơ sở giáo dục.
Hiệu quả của phong trào thi đua ” Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích
cực” của nhà trường trong thời gian qua và thực tế tình hình học sinh tại đơn vị.
III. Giới hạn của đề tài
Áp dụng đối với cấp học tiểu học.

Nhấn mạnh vai trò của người hiệu trưởng nhà trường trước yêu cầu làm cho học
sinh cảm nhận “Mỗi ngày đến trường là một ngày vui”.
IV. Các giả thiết nghiên cứu
Nếu bệnh thành tích trong học tập vẫn còn quá được coi trọng ở các nhà trường, ở
cha mẹ học sinh, suốt ngày các em cứ phải vùi đầu vào học , học trên lớp, học
thêm, học suốt tuần, học cả ngày nghỉ để theo kịp bạn bè, để phải là HS giỏi mà
không có thời gian để thư giản, để hoạt động theo sở thích, sở trường, không có thời
gian tham gia vào các hoạt động của Đội, của lớp, của trường thì các em sẽ ra sao ?
Liệu các em có thấy vui vẻ, thích thú tung tăng đến lớp không?
Nếu ở trường càng tổ chức nhiều phong trào, nhiều cuộc thi, vui chơi khi đó các em
được tiếp xúc nhiều với môi trường sinh hoạt tập thể; Giáo viên biết đổi mới hình
thức, phương pháp dạy học, tỏ thái độ quan tâm, gần gũi, thân thiện với học sinh;
cơ sở vật chất nhà trường ngày một đầy đủ, khang trang, đẹp mắt sẽ thu hút học
sinh ham thích đến trường hơn, học tập tích cực hơn .
Một môi trường giáo dục thiếu thốn, gò bó, chắc chắn sẽ không tạo cho các em sự
tự tin, thoải mái khi đến trường; chắc chắn các em sẽ thiếu thốn rất nhiều kỹ năng
sống cần thiết mà phải qua giao tiếp , qua hoạt động mới có thể hình thành được
như: Kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tự bảo vệ, kỹ năng hợp tác
Nếu hiệu trưởng nhà trường không quan tâm đến việc tạo môi trường giáo dục thân
thiện, tạo điều kiện cho người học, gắn kết giữa các mối quan hệ trong nhà trường,
chỉ có chạy theo chất lượng học và học thì có thực hiện được mục tiêu PCGDTHĐĐT,
thực hiện mục tiêu giáo dục tiểu học.
V. Cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn:
1.Cơ sở lý luận:
Cha ông ta thường nói: “Hạt giống tốt phải được gieo ở mảnh đất tốt thì mới phát
triển được”. Mảnh đất ấy chính là môi trường sống để con người và vạn vật phát
triển. Đối với học sinh, ngoài gia đình, làng xóm, một môi trường không thể thiếu để
các em trưởng thành đó là trường học.
Trường học, là ngôi nhà thứ hai của các em học sinh. Đặc biệt, với mái trường tiểu
học là nơi để lại nhiều dấu ấn đậm sâu trong cuộc đời của mỗi con người, vì cấp tiểu

học là cấp học có thời gian dài nhất của quảng đời học trò. Dưới mái trường này
không chỉ là người bạn mà là nơi cất giấu những kỷ niệm buồn vui của quãng đời
học trò thơ ngây, trong trắng. Trường học là cái nôi đầu tiên cho các em bắt đầu
bước vào cuộc sống học tập và lao động. Trong nhà trường, học sinh cần được tiếp
thu những tri thức khoa học một cách có hệ thống, những kỹ năng, kỹ xảo cần thiết
để hình thành và phát triển những phẩm chất tốt đẹp ban đầu của con người mới
trong một môi trường thuận lợi, đó chính là môi trường giáo dục. Mặt khác, môi
trường giáo dục luôn có tác động rất lớn đến sự hình thành và phát triển nhân cách
của học sinh thông qua các mối quan hệ xã hội đa dạng trong cuộc sống học tập,
sinh hoạt hàng ngày của các em.
Ở lứa tuổi học sinh tiểu học tâm sinh lý các em chưa ổn định, đang hình thành và
phát triển. Nên trong sự học tập, làm việc hàng ngày các em sẽ ít tập trung chú ý
nếu các em không có sự ham thích. Ở các em ý thức học tập chưa có, chưa hiểu rõ
mục đích của việc học nếu các em thiếu sự cần cù, sự cố gắng vượt qua khó khăn để
học tập dễ sinh ra lười biếng, ham chơi, học yếu, kết hợp sự thiếu quan tâm của gia
đình sẽ dẫn đến chán học, bỏ học… Ở lứa tuổi này tính tò mò phát triển, các em
thường ham thích cái mới, cái lạ, dễ nhàm chán trong các hoạt động kéo dài, không
thay đổi hình thức. Nếu chúng ta những người làm công tác giáo dục biết quan tâm
tạo sự ham thích cho các em trong học tập, trong các hoạt động ở trường, lớp thì
mới có động lực thúc đẩy việc học, nâng cao được khả năng tiếp thu và thực hành
các kĩ năng, kĩ xảo mà chúng ta cung cấp và rèn luyện cho các em. Ở lứa tuổi này
tâm sinh lý các em rất hiếu động, hay bắt chước, dễ thích nghi với môi trường sinh
hoạt ở trường, lớp. Đây là điều kiện tốt để giáo viên tạo sự hứng thú cho các em.
Nếu hàng ngày khi đến trường chúng ta cho các em được vui chơi, sinh hoạt, trong
học tập các em được hoạt động nhóm, được làm thí nghiệm, chơi các trò chơi học
tập thì các em sẽ ham học hơn từ đó các em sẽ ham thích đi học hơn.
Trong mỗi chúng ta, ai không mong muốn được sống, học tập, vui chơi trong một
môi trường thật sự xanh, sạch, đẹp, an toàn. Trường học xanh, sạch, đẹp, an toàn
tạo ra môi trường học tập, sinh hoạt và vui chơi, thú vị, hấp dẫn đối với các em học
sinh, làm cho các em càng thêm yêu quý trường lớp, thầy cô, bạn bè; làm cho các

em ham thích đến trường, làm cho các em thấy được: “Mỗi ngày đến trường là một
ngày vui”.
2.Cơ sở thực tiễn:
Thực tế hiện nay, số HS lười, chán học khá đông, tỉ lệ học yếu kém tương đối nhiều;
tình trạng học khó nhớ, mau quên có tính phổ biến; nội dung chương trình, sách
giáo khoa còn khá nặng nề, giáo viên vừa phải thực hiện biện pháp giảm tải vừa
phải tích hợp nhiều nội dung giáo dục như môi trường, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả
năng lượng, biển và hải đảo, kỹ năng sống…
Mặc dù phương pháp dạy học theo hướng tích cực, hướng cá thể hóa hoạt động đã
được đưa vào áp dụng trong giáo dục tiểu học nhưng do từ lâu nay, GV đã quen với
việc dạy học cho số đông, truyền thụ kiến thức một chiều, HS chỉ thụ động tiếp nhận
nên chưa làm chuyển biến tốt chất lượng giáo dục. Tâm lý ngại sử dụng các hình
thức học tập tự khám phá kiến thức theo từng nhóm nhỏ của học sinh sẽ làm mất
thời gian; nhiều giáo viên ít quan tâm đến tâm lý, thái độ, mức độ ham thích của
học sinh nên không kích thích được năng lực riêng của từng cá thể.
Tâm lý chạy theo điểm số ở nhiều phụ huynh đã gây áp lực rất lớn cho học sinh, các
em không chỉ học 2 buổi ở trường mà còn phải học thêm ở nhà giáo viên gây nên
tình trạng vi phạm quy định của nhà nước trong lĩnh vực giáo dục; các em học cả
tuần và học luôn cả thứ bảy, chủ nhật; mặt khác một số sân chơi trí tuệ được mở ra
ngày càng rộng… nên suốt ngày các em chỉ biết học và học không có thời gian vui
đùa hoặc tham gia vào các hoạt động giáo dục bổ ích của nhà trường, Đội hay địa
phương tổ chức.
Nhiều cơ sở giáo dục chỉ quan tâm đến việc dạy chữ mà không xem trọng việc dạy
người.
VI. Kế hoạch thực hiện:
Thông qua tìm hiểu tình hình thực tế của nhà trường trong những năm gần đây.
Trên cơ sở điều kiện sẳn có của nhà trường (về đội ngũ, về các lực lượng giáo dục,
cơ sở vật chất, những đổi mới về phương pháp giáo dục) để xây dựng kế hoạch tổ
chức các hoạt động.
Làm công tác tham mưu, vận động các lực lượng xã hội tạo điều kiện để thực hiện

kế hoạch.
Từng giai đọan đúc rút kinh nghiệm cho bản thân trong công tác quản lý nhà trường
nhằm làm cho học sinh thật sự cảm nhận được niềm vui mỗi ngày đến trường.
B. PHẦN NỘI DUNG
I. Thực trạng và những mâu thuẫn:
Trường tiểu học Huỳnh Minh Thạnh là trường vùng ven của thị trấn, con em
phần đa có hoàn cảnh gia đình, kinh tế khó khăn, cuộc sống không ổn định. Hàng
ngày, ở nhà các em còn phải phụ giúp cha mẹ công việc gia đình, trong lớp trình độ
học sinh không đồng đều nhau, số em giỏi rất ít, em yếu thì nhiều. Việc giáo dục con
cái cha mẹ học sinh thường khoán trắng cho nhà trường hoặc giáo dục không đúng
phương pháp làm ảnh hưởng nhiều đến nhân cách của các em. Trong nhiều năm
qua có rất nhiều em không thích đến trường, tới lớp, xem việc đi học là một sự bó
buộc, không hứng thú; nhiều em rất run sợ khi gặp thầy cô, thụ động trong giờ học,
thiếu sự ham học, làm cho các em không phát huy hết được khả năng học tập của
mình.
Qua tìm hiểu thường thì các em học sinh của trường kém tập trung trong việc học có
rất nhiều nhiên nhân như không xác định mục tiêu học tập, thiếu hứng thú, cảm
thấy bị ép buộc đến trường, không có không gian học tập thích hợp, thiếu dụng cụ
học tập; bản thân thiếu kỹ năng học tập, thiếu kỹ năng tập trung, kỹ năng ghi nhớ.
Mặt khác do môi trường giáo dục chưa có những hình thức phù hợp thu hút các em
đến trường, chưa có khả năng nhận thức vai trò làm chủ trong chính ngôi trường
của mình.
Trường mới được xây dựng từ năm 2001 nhưng tình trạng xuống cấp rất
nhanh chóng; trường được công nhận chuẩn quốc gia mức độ 1 từ năm 2005 và
được công nhận lại vào năm 2011 song về mặt bề nổi như chất lượng học tập, các
phong trào thi đua, tinh thần năng động sáng tạo của đội ngũ thầy và trò, kỹ năng
sống của HS đã có những chuyển biến tốt nhưng vẫn còn những hạn chế nhất định.
II. Các biện pháp giải quyết vấn đề
Vì vậy, làm sao để trẻ đến trường mà không bị một áp lực nặng nề nào, để các em
cảm thấy “mỗi ngày đến trường là một ngày vui”, là điều mà cả nhà trường và xã hội

đều mong muốn. Chính từ những thực trạng trên, với vai trò là người quản lý điều
hành mọi hoạt động trong nhà trường, tôi đã đề ra nhiều giải pháp cùng với đội ngũ
CCVC nhà trường tổ chức thực hiện cụ thể như sau:
1.Xây dựng một môi trường giáo dục tốt đẹp, vì môi trường giáo dục tốt là
yếu tố quan trọng giúp trẻ ham thích đến trường và thích học. Có thể nói
đến những yếu tố chính làm nên một môi trường tốt đẹp đó là:
1.1. Vai trò của thầy cô giáo:
Các thầy cô giáo chính là người trực tiếp tổ chức và thực hiện hiệu quả giáo dục
trong nhà trường. Họ là người trực tiếp gần gũi nhất với các em, là người khơi nguồn
tri thức, cuốn hút các em vào các hoạt động, gắn bó các em trong một tập thể. Họ
cũng là nhịp cầu nối giữa nhà trường với gia đình HS. Thế nên đòi hỏi người thầy
phải là những người có trình độ chuyên môn vững vàng, có lòng yêu nghề, mến trẻ,
am hiểu tâm sinh lý HS; nắm vững nội dung chương trình, phương pháp dạy học để
soạn giáo án, thiết kế giờ dạy khoa học, tươi vui và hiệu quả. Thế nên việc bồi
dưỡng đội ngũ là một nhiệm vụ mà nhà trường hết sức quan tâm.
a.Các biện pháp bồi dưỡng đã được sử dụng trong thời gian qua:
Tổ chức quán triệt trong các buổi họp hội đồng giáo viên, thông tin trên website của
trường, qua các bài kiểm tra năng lực để giáo viên nắm bắt các văn bản quy định
dành cho nhà giáo và cán bộ quản lý nhà trường như Luật giáo dục, Điều lệ nhà
trường, Quy định về đạo đức nhà giáo, Luật giáo dục, chăm sóc, bảo vệ trẻ em, Luật
phòng chống tham nhũng, quy định về dạy thêm học thêm, về giáo dục pháp luật;
chuẩn nghề nghiệp… nhằm giúp cho đội ngũ nhà trường có nhận thức đúng đắn về
quy định của pháp luật, của ngành, ý thức trách nhiệm của bản thân với sự nghiệp
giáo dục trọng đại mà bản thân đang gánh vác để cùng chung tay với nhà trường
tạo hành lang pháp lý an toàn trong công tác giáo dục học sinh.
Tổ chức học tập, bồi dưỡng cho giáo viên vào các buổi sinh hoạt chuyên môn định
kỳ , vào các dịp học sinh nghỉ giữa kỳ với các hình thức như cung cấp lý thuyết, dự
giờ minh họa, hay làm việc theo nhóm để tìm hiểu nội dung theo yêu cầu từng đề tài
hoặc tổ chức rút kinh nghiệm về những chuyên đề đổi mới phương pháp dạy học,
những nội dung dạy theo vùng miền, những bài dạy có nội dung lồng ghép giáo dục,

về công tác chủ nhiệm lớp, về đánh giá học sinh …Mặt khác thường xuyên dự giờ,
thăm lớp để kịp thời ghi nhận những nỗ lực của giáo viên hay điều chỉnh những
thiếu sót, hạn chế để giáo viên dạy có hiệu quả hơn.
Hằng năm đều tổ chức các hội thi như giáo viên dạy giỏi, giáo viên chủ nhiệm giỏi
để vừa bồi dưỡng nâng cao năng lực chuyên môn vừa vinh danh những gương sáng
trong công tác giáo dục. Vì là một giáo viên giỏi, chủ nhiệm giỏi đòi hỏi phải tổ chức
và quản lý giỏi lớp học; tạo điều kiện cho trẻ tham gia vào quá trình dạy học của
mình để giờ học trở lên sinh động hơn, sự tiếp thu kiến thức của trẻ sẽ tốt hơn. Với
quan điểm sư phạm hiện nay là “dạy học lấy HS làm trung tâm”, cho nên GV phải
quan tâm đến tâm sinh lý, hoàn cảnh, sở trường, sở đoản của HS. Từ đó, GV mới có
thể chọn lọc, áp dụng phương pháp dạy học phù hợp, động viên HS hứng thú, ham
thích tìm tòi học tập ở mức độ tốt nhất. Tuy nhiên, phương pháp sư phạm hiện đại
không chỉ “lấy HS làm trung tâm” mà còn phải dạy theo phương pháp dạy học cá
thể. Vì mỗi HS là một cá thể, các em đều có một cuộc sống tinh thần riêng. Do đó,
nếu GV chia sẻ được những điểm riêng ấy, sẽ kích thích niềm hứng thú học tập của
từng HS . Thế nên qua các hội thi sẽ giúp giáo viên phát huy năng lực vốn có và sẽ
là cơ hội để trao đổi, học tập lẫn nhau để tìm ra cách tốt nhất thu hút trẻ ham thích
đến trường, ham thích học tập.
b. Phát động giáo viên đăng ký dạy tiết học tốt:
Mỗi giáo viên đều có trách nhiệm xây dựng các tiết dạy tốt để đăng ký cho
nhà trường tham dự ít nhất 2 lần/năm học. Tiết học tốt là tiết học mà mọi
học sinh đều có hứng thú, tích cực tham gia xây dựng bài;là tiết học phải có
đồ dùng trực quan, ứng dụng công nghệ thông tin để học sinh tìm hiểu bài, các vật
dụng để học sinh thí nghiệm, có như vậy mới gây được sự hứng thú ở học sinh, học
sinh dễ hiểu bài và cảm thấy thích thú học hơn
;
t
ăng cường các hình thức học tập
tạo không khí sôi nổi như dưới dạng
trò chơi, đóng kịch, phỏng vấn vv…. Qua các

tiết học tốt giúp các em có thêm hứng thú, thoải mái khi học, sẽ cảm thấy không có
áp lực trong học tập.
c.

Giáo viên tỏ thái độ gần gũi, ân cần với học sinh:
Đây cũng là một yêu cầu cần đạt trong quy định chuẩn nghề nghiệp của giáo viên
tiểu học.
Hầu như đa số những học sinh tiểu học các em mới bước vào môi trường
học tập thật sự nên các em thường ngại tiếp xúc với bạn bè, thầy cô để thổ lộ tâm
tình hay học hỏi, đặc biệt là những em có tính nhút nhát, rụt rè. Áp dụng phương
pháp đó ngay từ đầu năm học nhà trường thường xuyên yêu cầu giáo viên phải biết
gần gũi tâm sự, trò chuyện với học sinh về chuyện gia đình, về chuyện học hành, để
các em cảm thấy thân thiện với giáo viên hơn và qua đó giáo viên sẽ hiểu được
nhiều về tâm tư tình cảm, hoàn cảnh các em để có biện pháp dục tốt hơn. Muốn các
em mạnh dạn hơn thì chúng ta hãy yêu thương, gần gũi, tạo sự thân tình để các em
dễ hoà đồng vào môi trường tập thể, trường lớp, thầy cô, để từ đó các em có ấn
tượng tốt với trường lớp, thầy cô mà ham thích đến trường.
Điều cần nói đến là không chỉ trong tiết dạy giáo viên
phải thể hiện được tác phong
sư phạm mẫu mực, gần gũi, ân cần với học sinh, tôn trọng và đối xử công bằng với
học sinh; biết sử dụng lời nói, cử chỉ, tổ chức các hoạt động dẫn dắt các em vào bài
học, giữa giáo viên và học sinh luôn có sự ăn ý nhịp nhàng, đừng để học sinh bị chê
trách trước mặt bạn bè; biết động viên, khích lệ học sinh biết sử dụng năng khiếu
của mình làm tiết học thêm sinh động mà còn cả trong giao tiếp, ứng xử hàng ngày,
ở mọi lúc mọi nơi. Việc giáo viên ân cần quan tâm sâu sát đến từng học sinh, động
viên nhắc nhở nhẹ nhàng, chăm sóc các em, cùng các em tham gia các hoạt động
trong nhà trường sẽ làm cho học sinh cảm thấy yên tâm, tin tưởng vào giáo viên,
sẳn sàng chia sẻ tâm tư tình cảm của mình với thầy cô, với bạn bè nhất là thời gian
gần đây khi nhà trường đưa mô hình trường tiểu học mới VNEN vào áp dụng (từ
khâu thành lập hội đồng tự quản, làm bảng theo dõi ngày em đến lớp, hộp thư Điều

em muốn nói…) đã làm cho không khí lớp học khác hẳn lên , các em học tập sôi nổi
hơn, ý thức trách nhiệm cao hơn với bản thân , với công việc của lớp và đặc biệt là
rào cản giữa thầy cô với học sinh đã từng bước được tháo dỡ.
1.2 Vai trò của nhà trường:
Nhà trường chính là không gian, là môi trường giáo dục rất quan trọng, ở đó có các
thầy cô giáo là người tổ chức, học trò là người thực hiện với công cụ là sách giáo
khoa và thiết bị dạy học. Theo các chuyên gia giáo dục, môi trường học tập chính là
người thầy thứ hai trong nhà trường. Điều này có nghĩa là chính không gian, môi
trường cùng điều kiện học tập là những yếu tố quan trọng quyết định, cổ vũ, thúc
đẩy HS hình thành động cơ, thái độ học tập đúng đắn. Thế nên là Hiệu trưởng nhà
trường tôi đã có nhiều băn khoăn, trăn trở tìm biện pháp tổ chức, tạo nên môi
trường giáo dục phù hợp để thật sự mang đến cho các em cảm nhận gắn bó với
trường, với lớp, với thầy cô bạn bè, xem trường là nhà của mình. Những biện pháp
để tạo nên môi trường giáo dục:
a. Cơ sở vật chất, trang thiết bị:
Hàng năm vào đầu năm học trước khi tiếp nhận học sinh, nhà trường đã tổ chức
kiểm tra lại toàn bộ cơ sở vật chất hiện có đảm bảo đủ đáp ứng cho số học sinh sẽ
phát triển trong năm học như bàn ghế, các thiết bị dạy học của giáo viên theo số
lớp, các đồ dùng thực hành của học sinh theo môn học; kiểm tra lại hệ thống chiếu
sáng, quạt mát, hệ thống nhà vệ sinh, công cụ dụng cụ làm vệ sinh… để có biện
pháp tu sửa hay bổ sung kịp thời hoặc có đề nghị được cấp phát thêm. Đây chính là
những điều cơ bản nhất khi bước vào một năm học mới, tâm lý người dạy lẫn người
học đều cảm thấy thoải mái khi được trang bị đầy đủ những phương tiện thiết yếu
để dạy, để học, để làm công tác giáo dục.
b.Khuôn viên trường học, không gian lớp học:
Kế thừa những thành quả của phong trào xây dựng trường học thân thiện học sinh
tích cực là điều kiện tốt để cán bộ quản lý nhà trường phát huy việc xây dựng khuôn
viên trường học, lớp học theo mô hình trường học mới nhằm thu hút học sinh ham
thích đến trường, đến lớp. Thế nên ngay từ những ngày đầu năm học mới, nhà
trường đã tổ chức tổng vệ sinh toàn trường, phát quang bụi rậm, cây cối, làm cỏ;

trồng mới, chăm sóc một số chậu cây kiểng sẳn có; bằng kinh phí nhà trường đã tổ
chức trang trí các lối đi lại, lối lên cầu thang lớp học; làm pa nô với những hình ảnh
đẹp mắt, phù hợp tâm lý học sinh kèm những câu ca dao tục ngữ, châm ngôn hay
lời nhắc nhở gắn trên các cây trồng quanh sân chơi hàng ngày của các em; tu sửa
các đồ chơi ngoài trời như cầu tuột, xích đu, bập bênh để các em vui chơi ngoài giờ
học; ngoài ra còn vận động lòng hảo tâm của các mạnh thường quân để làm 8 bồn
cây có ghế ngồi để học sinh có thể ngồi nghỉ hay đọc truyện, hay ôn bài theo nhóm,
làm mới lại trụ cờ với tổng kinh phí 23 triệu đồng.
Trong lớp học bằng kinh phí nhà trường đã tổ chức trang trí đồng loạt các công cụ
theo mô hình trường tiểu học mới VN như cây nội quy, bảng theo dõi ngày em đến
lớp, sơ đồ hội đồng tự quản, bảng tiến độ, góc sản phẩm của em thêm với sự khéo
léo của giáo viên cùng sự chung tay của các em, sự hỗ trợ của cha mẹ học sinh, các
lớp học đều có cây xanh, hoa kiểng rất đẹp mắt và đồ dùng luôn được sắp xếp gọn
gàng, ngăn nắp, sạch sẽ. Từ những việc làm này giúp học sinh ngày càng ý thức hơn
trách nhiệm đối với trường với lớp khi chính tay các em, cha mẹ các em cùng chung
sức thực hiện.
c.Xây dựng thư viện thân thiện:
Nắm bắt tâm lý ham thích cái mới, cái lạ của trẻ nên nhà trường đã đầu tư vào trang
trí lại phòng Thư viện, nơi mà vào giờ chơi các em thường tìm đến để đọc truyện,
đọc sách với những hình ảnh mới lạ như bản đồ Việt Nam có điểm suyết những hình
ảnh các đình chùa, phong cảnh đẹp nổi tiếng, các hình ảnh đồng baò các dân tộc
của các vùng miền vừa mới lạ vừa tái hiện những kiến thức mà đã được học qua
sách vở đã làm cho học sinh rất thích thú; sử dụng kệ sách để xây dựng góc truyện
theo từng chủ đề; hay làm kệ sách di động được di chuyển bằng hệ thống bánh xe
để đưa sách ra ngoài không gian phòng đọc phục vụ học sinh. Từ những thay đổi
linh hoạt này đã thu hút các các em trở thành những bạn đọc thường xuyên của Thư
viên thân thiện. Thế là các em đã có thêm ngôi nhà thứ hai của mình ở tại trường.
1.3 Vai trò của cha mẹ học sinh:
Những năm gần đây sự quan tâm của hầu hết cha mẹ học sinh đã có
những chuyển biến rất tốt trong việc học hành của con em mình, nhưng

cũng có không ít phụ huynh lại quan tâm một cách thái quá, đến mức đặt quá nhiều
kỳ vọng vào con cái, muốn các em phải trở thành một người toàn diện nên đã bắt ép
các em phải học quá nhiều, học ở trường cả ngày , học thêm ở ngoài, học nhạc, học
vẽ, học múa, học võ thuật, v.v. Các em không còn thời gian và sức lực để vui chơi,
giải trí. Chính những bậc cha mẹ đã làm cho tâm lý ngại học của học sinh hình thành
và lớn dần theo thời gian.
Để giải tỏa được những tâm lý trên, nhà trường đã tổ chức nhiều buổi nói chuyện
với phụ huynh qua các buổi họp định kỳ về nội dung chương trình học tập, về mức
độ kỹ năng cần đạt, về quy định nghiêm cấm dạy thêm học thêm với trường học 2
buổi/ ngày; tổ chức các buổi tư vấn học tập như việc hướng dẫn cách học ở nhà, tạo
điều kiện cho các em có phương tiện học tập qua các môn thi trên internet, trang bị
đủ dụng cụ học tập, cùng vui chơi học tập với con em; tư vấn cho cha mẹ học sinh
cách giáo dục con cái tránh làm cho trẻ bị tổn thương về tinh thần và thể xác gây
tâm lý chán nản hay không còn muốn học.
Phát huy vai trò của của các Ban đại diện lớp, Ban đại diện trường cùng nhà trường
tham gia vào việc giáo dục học sinh như việc quan tâm đến những học sinh hoàn
cảnh gia đình phức tạp có khả năng bỏ học, những học sinh có khó khăn về kinh tế.
Tư vấn cho Ban đại diện động viên khích lệ những học sinh có thành tích trong các
phong trào; Mời họ tham gia vào các hoạt động của con em mình do nhà trường tổ
chức vào các dịp sinh hoạt chủ điểm, tạo sự gắn bó giữa CMHS với nhà trường, sự
cởi mở giữa học sinh với cha mẹ. Sự tham gia của phụ huynh là niềm vui có ảnh
hưởng tốt rất lớn đến trẻ.
2. Tổ chức nhiều phong trào, nhiều hoạt động cho HS tham gia :
Ởlứa tuổi này, các em rất thích các hoạt động vui chơi, giải trí, các hoạt động sinh
hoạt tập thể. Do đó để tạo niềm vui cho học sinh thấy đến trường là một niềm vui
nhà trường đã tổ chức nhiều phong trào, nhiều hoạt động vui chơi để các em tham
gia như thể thao, cắm trại, văn nghệ, trò chơi dân gian, Rung chuông vàng, Đố vui,
thi kể chuyện, cắm hoa, viết chữ đẹp, khéo tay kĩ thuật vv….và bồi dưỡng cho các
em tham gia phong trào do các cấp tổ chức. Tuy nhiên, để thu hút thầy và trò tham
gia, mỗi năm nhà trường đều có những hoạt động mới lạ như phong trào múa hát

tập thể, múa dân vũ với một, hai bài quy định chung được tổ chức trong các sinh
hoạt chủ điểm, các lễ hội và nâng lên cao hơn đó là hội thi giao lưu dân vũ quốc tế
với nhiều bài tự chọn, phong phú đã thu hút 100% HS tham gia. Mỗi chiều, khi đã có
trống ra về, nhưng sân trường cứ như đang mùa hội, nào thầy cô, học sinh và cả
cha mẹ học sinh đều quây quần bên nhau với những bài dân vũ nhộn nhịp, hấp dẫn.
Đồng thời nhà trường cũng thực hiện thường xuyên các hoạt động ngoài giờ
lên lớp. Phối hợp chặt chẻ với hoạt động của chi đoàn thanh niên trong nhà trường,
tổ chức đội thiếu niên để thực hiện các hoạt động như tổ chức cho các em tham gia
các đội nhóm : đội phát thanh măng non, đội sao đỏ, đội trật tự cổng trường để mỗi
em đều có trách nhiệm của mình hoặc ở lớp các em đều tham gia vào một ban để
hoạt động như ban vệ sinh, ban phong trào, … song việc tổ chức các phong trào hay
các hoạt động nhà trường đã phát huy vai trò học sinh là người chủ động, tự quản
còn tổng phụ trách, giáo viên chỉ là người giám sát, hướng dẫn. Vì nếu Tổng phụ
trách hoặc giáo viên chủ nhiệm làm thay sẽ làm mất đi ý thức tự giác của các em, và
các em sẽ không thích tham gia vào các hoạt động mà chỉ làm theo sự chỉ đạo của
người lớn.
3.Phát huy tinh thần trách nhiệm của mỗi học sinh để học sinh cảm thấy
các em luôn được thầy cô tin tưởng, thương yêu, được làm việc có ích cho
trường, lớp.
Nắm được tâm lý của trẻ nên nhà trường thường xuyên nhắc nhở giáo viên phải tìm
những việc nhỏ, thích hợp hàng ngày ở lớp để phân công cho mỗi em mỗi việc. Đặc
biệt những học sinh có tính nhút nhát, rụt rè để các em mạnh dạn, gần gũi thầy cô
hơn. Vì nếu chúng ta không quan tâm đến thì trong các hoạt động các em thường
tách biệt, khó hòa đồng dẫn đến việc thụ động với các hoạt động của trường, lớp
dần dần các em không còn ham thích đến trường lớp.
Kể từ năm học 2013-2014, trường tiểu học Huỳnh Minh Thạnh đã áp dụng các công
cụ của mô hình trường học mới VNEN vào một số hoạt động của trường, nhưng phải
nói hiệu quả được thể hiện rõ nét nhất là tinh thần làm việc của Hội đồng tự quản
các lớp. Hầu hết các em đã điều hành, chủ động các hoạt động học tập của lớp dưới
sự hướng dẫn của thầy cô giáo rất thành thạo; các thành viên trong từng ban cũng

tự giác thực hiện công việc của ban mình. Ý thức tự giác, nhắc nhở nhau làm nhiệm
vụ được giao ngày càng được nâng cao hơn.
Việc tổ chức cho học sinh tự điều khiển chương trình chào cờ đầu tuần cũng được
nhà trường hết sức quan tâm trong nhiều năm học qua, vì đây là một hoạt động
giáo dục kỹ năng sống cho học sinh. Lớp được giao nhiệm vụ trực chào cờ rất có
trách nhiệm đã cùng nhau chuẩn bị từ nội dung (nhận xét đánh giá hoạt động tuần
qua đã được tổng hợp từ buổi họp sao đỏ, của lớp theo dõi công tác trực ; kết quả
theo dõi thi đua của các lớp) đến hình thức ( chuẩn bị sân chào cờ như nhắc nhở các
lớp làm vệ sinh sân cờ, đưa bàn ghế ra sân lễ, tập trung các lớp vào đội hình, chuẩn
bị cờ để trao cho các lớp , sổ trực tuần để bàn giao ), mỗi em mỗi việc để hoàn
thành công việc lớp trực. Trong quá trình điều hành chương trình lễ chào cờ, các em
lớp trực rất chăm chú theo dõi tiến trình thực hiện để kịp thời nhắc nhở bạn khi có
thiếu sót.
4. Vai trò trách nhiệm to lớn của giáo viên làm công tác chủ nhiệm:
Vì GVCN là người quản lý toàn diên lớp học, quản lý học sinh; người có tác động
nhiều nhất đến quá trình giáo dục rèn luyện học sinh. Thế nên là hiêu trưởng nhà
trường tôi đã có các biện pháp để giáo viên thực hiện tốt nhiệm vụ làm cho học sinh
cảm nhận mỗi ngày đến trường là một ngày vui. Cụ thể:
Nắm chắc tình hình đội ngũ của mình để có sự lựa chọn phân công công tác chủ
nhiệm. Với yêu cầu đặt ra là người giáo viên phải nắm nắm vững hoàn cảnh và
những thay đổi, những tác động của gia đình đến học sinh của lớp chủ nhiệm; hiểu
biết những đặc điểm của từng em học sinh (về sức khỏe, sinh lý, trình độ nhận thức,
năng lực hoạt động, năng khiếu, sở thích, nguyện vọng, quan hệ xã hội, bạn bè….);
Nắm vững mục tiêu, chương trình, nội dung giáo dục cấp học, lớp học và khả năng
thực hiện, kết quả của lớp phụ trách so với mục tiêu giáo dục về mọi mặt (học tập,
rèn luyện đạo đức, thể dục thể thao, văn nghệ và các hoạt động khác…). Quản lý
toàn diện đặc điểm học sinh của lớp, nắm vững mục tiêu đào tạo, giáo dục cả về
mặt nhân cách và kết quả học tập của học sinh, đồng thời nắm vững hoàn cảnh của
từng em để kết hợp giáo dục.
Vì người giáo viên chủ nhiệm là cầu nối giữa Ban giám hiệu, giữa các tổ chức trong

trường, giữa các giáo viên bộ môn với tập thể học sinh lớp chủ nhiệm nên Hiệu
trưởng đã quán triệt đến giáo viên chủ nhiệm phải chịu trách nhiệm truyền đạt tới
học sinh của lớp chủ nhiệm tất cả yêu cầu, kế hoạch giáo dục của nhà trường tới tập
thể và từng học sinh của lớp chủ nhiệm; với kinh nghiệm sư phạm và uy tín của
mình, giáo viên chủ nhiệm có khả năng biến những chủ trương, kế hoạch đào tạo
của nhà trường thành chương trình hành động của tập thể lớp và của mỗi học sinh
và nhà trường sẽ lấy kết quả công tác chủ nhiệm để đánh giá mỗi giáo viên và bình
chọn danh hiệu giáo viên chủ nhiệm giỏi hằng năm.
5.Tạo nguồn lực vật chất để tạo thêm niềm vui cho học sinh:
Do đặc điểm học sinh của trường có nhiều hoàn cảnh đặc biệt như khó khăn về kinh
tế, thiếu thốn về tình cảm ( nhiều em không có đủ bố mẹ hay sống xa bố mẹ để ở
với ông bà, người thân hoặc bố mẹ chỉ lo bương chải cái ăn cho cả gia đình) nên sự
chăm sóc tốt cho các em là điều còn rất hạn chế. Thế nên ngoài những động lực về
tinh thần, nhà trường còn rất quan tâm đên nguồn lực vật chất. Trong từng năm học
nhà trường đều thực hiện tốt công tác vận động để kêu gọi sự chung tay góp sức
của xã hội của cộng đồng để mong muốn góp phần lấp đầy khoảng không trong tâm
hồn trẻ và hàng năm với sự kêu gọi của nhà trường học sinh toàn trường đều được
uống sữa miễn phí từ sự tài trợ của Chương trình sữa Milo, được phát quà bánh vào
dịp Tết Trung Thu do cha mẹ học sinh trao tặng; Đối với học sinh nghèo nhà trường
đã tham mưu cho chi hội khuyến học trường cấp phát học bổng mỗi năm học 2 lần
với mỗi suất 200.000đ (dịp khai giảng và dịp Tết Nguyên đán), được sự hỗ trợ của
Báo Thanh niên, hằng năm nhà trường đều vận động được sự tài trợ của Công ty cổ
phần BĐS Hoàng Gia, Công ty Acecook VN, Công ty Nam Bình thành phố Hồ Chí
Minh, Công ty TH True milk từ 140 đến 160 phần quà (gồm bánh Trung thu, lồng
đèn, mì gói, tập vở, đồ dùng học tập, sữa và kể cả tiền mặt) với số tiền từ 60 đến 70
triệu đồng. Đồng thời với chương trình Vòng tay bè bạn do Liên đội tổ chức đã huy
động sự đóng góp của học
III. Hiệu quả áp dụng
Qua việc thực hiện các biện pháp giúp học sinh cảm nhận mỗi ngày đến
trường là môt ngày vui tôi nhận thấy môi trường giáo dục của nhà trường ngày càng

cải thiện rõ nét. Học sinh thật sự ham thích đến trường, ham học hơn, tích cực tham
gia tốt các phong trào, năng động trong học tập cũng như sinh hoạt vui chơi, không
có học sinh bỏ học giữa chừng vì học yếu, vì chán học.
Tình trạng rụt rè, sợ sệt khi giao tiếp với thầy cô hay thái độ thiếu thân thiện với bạn
đã được cải thiện rất nhiều. Trong các phong trào các em luôn tham gia sôi nỗi,
nhiệt tình và đạt kết quả cao, kết quả các kì kiểm tra luôn có tiến bộ. Tự bản thân
các em cảm thấy gần gũi với trường lớp, thầy cô, bạn bè, hoàn thành các công tác
được giao một cách nhiệt tình, tự giác.
Tinh thần trách nhiệm và ý thức nghề nghiệp trong từng cán bộ viên chức nhà
trường ngày một củng cố và nâng cao hơn; nhiều tấm gương tận tụy với công việc,
nhiệt tình với học sinh và tình cảm thầy trò, bạn bè ngày càng được khắc sâu; ý
thức trách nhiệm với bản thân, gia đình, với tập thể, với công việc được giao của các
em học sinh ngày càng được nâng cao hơn .
C. KẾT LUẬN
I. Ý nghĩa của đề tài đối với công tác:
Qua nghiên cứu và áp dụng đề tài này vào lĩnh vực công tác đang đảm nhận tôi thấy
mình đã có nhiều thuận lợi hơn trong nhiệm vụ củng cố , tăng cường nhận thức, bồi
dưỡng thái độ tình cảm giữa những người làm công tác giáo dục và người được giáo
dục; cơ sở vật chất, môi trường cảnh quan nhà trường ngày càng có sự đầu tư và
thay đổi tốt hơn; không khí phấn khởi, cởi mở, thân thiện, gần gũi, gắn bó giữa các
em học sinh mỗi ngày đến trường thể hiện rõ nét hơn.
Đây là cơ hội tốt để để đội ngũ cán bộ quản lý đánh giá được tầm nhìn và năng lực
của bản thân và quan trọng là học tập được những kinh nghiệm quý báu trong công
tác quản lý của mình để có sự đổi mới cho phù hợp.
II. Bài học kinh nghiệm, hướng phát triển
1. Bài học kinh nghiệm:
Hiệu trưởng nhà trường phải làm tốt khâu xây dựng kế hoạch năm học càng cụ thể
càng tốt, phải có tính mới, tính sáng tạo, không nên rập khuôn vì HS tiểu học sẽ rất
dễ nhàm chán và người tổ chức, người tham gia thực hiện cũng không thấy hứng
thú. Hiệu trưởng phải là người luôn năng động, phải mạnh dạn tìm kiếm nguồn kinh

phí một cách chính đáng, hợp pháp, hợp lý để đầu tư cho hoạt động và làm cho học
sinh cảm nhận được sự quan tâm , chăm sóc của nhà trường.
Hiệu trưởng nhà trường cần chú trọng công tác quán triệt, giao nhiệm vụ cụ thể cho
từng giáo viên và làm tốt công tác bồi dưỡng, tự bồi dưỡng giáo viên hàng năm để
thầy cô giáo chủ nhiệm phải biết cách xây dựng điều hành một tập thể tự quản, biết
ứng xử giải quyết đúng các mối quan hệ giữa các em học sinh với nhau, giữa học
sinh với giáo viên, giữa giáo viên bộ môn với giáo viên chủ nhiệm; giữa giáo viên với
cha mẹ học sinh; Mỗi GVCN phải thực sự là người thân thiện, nhất là đối với những
học sinh chưa ngoan. Phải xem các em như chính con em mình để yêu thương và
nhẹ nhàng gần gũi, động viên, chia sẻ với các em mọi vui buồn trong cuộc sống,
khuyến khích các em nói ra những gì mình nghĩ để các em đều thoải mái, vui tươi và
sôi nổi hơn.
Cần phải tạo ra cơ hội, tình huống để trẻ được tham gia, được làm việc thể hiện bản
thân, thể hiện sức mạnh tập thể, vượt qua những khó khăn để làm tốt công việc
được giao nên trong mỗi hoạt động cần huy động tập thể học sinh trong lớp tham
gia hoặc giao cho từng nhóm có năng khiếu thực hiện vì mỗi khi các em càng tham
gia nhiều phong trào thì trong các phong trào đó các em sẽ có được sự hứng thú.
Tuy nhiên, cáchoạt động, phong trào nên đề ra những công việc vừa sức cho các
em, nếu ngay từ đầu các em được giao một việc ngoài khả năng của mình thì các
em sẽ mất hứng ngay và không thích hoạt động đó nữa.
2.
Hướng phát triển:
Đẩy mạnh và thực hiện có hiệu quả tốt hơn nữa, đồng bộ hơn nữa việc áp dụng mô
hình trường học mới VNEN trong nhà trường, tổ chức bồi dưỡng kỹ năng làm việc
của Hội đồng tự quản các lớp để tạo cơ hội giúp các em thể hiện bản thân khi làm
việc cho trường, cho lớp.
Phát huy sức mạnh của tập thể lớp qua việc tổ chức các hoạt động và phong trào để
100% học sinh trong lớp được tham gia giúp các em đòan kết, gắn bó nhau, cùng
học cùng chơi.
Tiếp tục phổ biến tuyên truyền Thông tư 30/2014 và chỉ thị 5105/2014 của Bộ

trưởng Bộ giáo dục Đào tạo về Đánh giá học sinh tiểu học và việc chấn chỉnh tình
trạng dạy thêm học thêm đối với giáo dục tiểu học đến tất cả cha mẹ học sinh để
giải tỏa áp lực về việc học với con em.
III. Đề xuất, kiến nghị:
Huyện Xuyên Mộc là vùng nông thôn, thiếu thốn rất nhiều điều kiện để thu
hút học sinh đến trường thế nên Lãnh đạo ngành cần quan tâm tổ chức những
chuyên đề như các hoạt động giáo dục trong và ngoài giờ lên lớp , chuyên đề các
giải pháp để thu hút học sinh ham thích đến trường nhằm chia sẻ những kinh
nghiệm trong công tác quản lý, giáo dục học sinh giữa các trường tiểu học trong
huyện hay giữa các huyện trong cùng cụm có điều kiện như nhau.

×