Tải bản đầy đủ (.doc) (70 trang)

Chính sách tiền tệ - Thực trạng & Giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách tiền tệ ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (535.28 KB, 70 trang )

Đề án môn học GVHD: ThS.Võ Văn Vang
MỤC LỤC
TRANG
LỜI MỞ ĐẦU.................................................................................................................4
CHƯƠNG I: NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ..................6
1.2 VỊ TRÍ VÀ NHIỆM VỤ CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ...........................................................................7
1.2.1 Vị trí...........................................................................................................7
1.2.2 Nhiệm vụ....................................................................................................7
1.3 MỤC TIÊU CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ QUỐC GIA..................................................................................7
1.3.1 Kiểm soát lạm phát....................................................................................7
1.3.2 Ổn định giá trị đồng bản tệ.......................................................................8
1.3.3 Tạo việc làm và giảm bớt tỷ lệ thất nghiệp..............................................9
1.3.4 Ổn định và tăng trưởng kinh tế..............................................................10
1.3.5 Các mục tiêu trung gian..........................................................................10
1.4 QUAN HỆ GIỮA CÁC MỤC TIÊU CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ.........................................................11
1.5 CÁC CÔNG CỤ CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ...................................................................................11
1.5.2. CÁC CÔNG CỤ TRỰC TIẾP.......................................................................................................18
CHƯƠNG II THỰC TRẠNG ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM21
2.1 KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH KINH TẾ XÃ HỘI VÀ VIỆC THỰC THI CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN TỪ 1999 ĐẾN 2010..............................................................................................................21
2.1.1 Giai đoạn 1999 – 2003.............................................................................21
2.1.2 Giai đoạn 2004-2006................................................................................31
2.1.3. Giai đoạn 2007-2010...............................................................................37
2.2 CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM NHỮNG THÁNG ĐẦU NĂM 2011..........................................50
2.3 ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY......................51
2.3.1 Những mặt đạt được................................................................................51
CHƯƠNG III. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI CHÍNH SÁCH
TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM TRONG XU THẾ HỘI NHẬP.............................................59
3.1 KINH NGHIỆP TỪ NƯỚC BẠN......................................................................................................59
3.2.1.2.Giải pháp cụ thể...............................................................................................................................................63
a)Đối với công cụ thị trưởng mở............................................................................................................................63


b) Đối vơí công cụ dự trữ băt buộc........................................................................................................................64
c) Đối vơí công cụ chiết khấu, tái chiết khấu........................................................................................................64
d) Đối với công cụ tỷ giá........................................................................................................................................65
e) Đối với công cụ lãi suất......................................................................................................................................65
f) Tăng cường sự phối hợp giữa các công cụ.........................................................................................................66
3.2.2. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống ngân hàng...............................................66
3.2.3. Hoàn thiện hệ thống thông tin nhằm hỗ trợ cho công tác phân tích dự
báo ....................................................................................................................67
3.2.4. Hoàn thiện bộ máy hành chính, giảm bớt bất cập của các thủ tục
hành chính........................................................................................................67
1
Đề án môn học GVHD: ThS.Võ Văn Vang
3.2.5 Kết hợp chính sách tiền tệ với các chính sách khác..............................68
KẾT LUẬN...................................................................................................................69
2
Đề án môn học GVHD: ThS.Võ Văn Vang
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CPI Chỉ số giá tiêu dùng
CSTK Chính sách tài khóa
CSTT Chính sách tiền tệ
DTBB Dự trữ bắt buộc
FED Cục dự trữ liên bang Mỹ
GDP Tổng sản phẩm quốc dân
GNP Tổng sản phẩm quốc nội
IMF Tổ chức tiền tệ quốc tế
NHNNVN Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
NHTM Ngân hàng thương mại
NHTƯ Ngân hàng Trung ương
NVTTM Nghiệp vụ thị trường mở
TCTD Tổ chức tín dụng

USD Đồng đô la Mỹ
VND Việt Nam đồng
3
Đề án môn học GVHD: ThS.Võ Văn Vang
LỜI MỞ ĐẦU
Sau 20 năm tiến hành đổi mới chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa quan liêu bao
cấp sang nên kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa (XHCN) dưới sự điều tiết
và quản lý vĩ mô của Nhà nước, nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu đáng
kể.
Trong nền kinh tế thị trường, bản chất là một nền kinh tế tiền tệ, Chính sách tiền tệ
là một chính sách điều tiết nền kinh tế vĩ mô cực kì quan trọng của nhà nước trong nền
kinh tế thị trường vì nó có ảnh hưởng lớn đến các biến số vĩ mô như: công ăn việc làm,
tốc độ tăng trưởng, lạm phát... Mặc dù tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước ta trong
thời gian qua đã đạt mức cao song tỷ lệ lạm phát vẫn ở mức cao, đồng nội tệ ngày càng
mất giá... Điều này đòi hỏi Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phải có một chính sách tiền
tệ đúng đắn, linh hoạt để tạo điều kiện cho nền kinh tế nước ta phát triển nhanh, bền
vững, đồng thời đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước.
Với những nhận định trên, em quyết định lựa chọn đề tài:" Chính sách tiền tệ -
Thực trạng & Giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách tiền tệ ở Việt Nam”
Mục đích nghiên cứu của đề tài này nhằm để hiểu rõ hơn và sâu sắc hơn cơ sở lý
luận về chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, xem xét việc thực thi
chính sách tiền tệ ở nước ta trong giai đoạn 1999-2011 và và từ đó đưa ra một số giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi chính sách tiền tệ của Ngân Hàng Nhà nước
(NHNN) Việt Nam trong xu thế hội nhập
Nội dung của đề án được kết cấu thành 3 phần :
Chương 1 : Những vấn đề lý luận cơ bản về chính sách tiền tệ
Chương 2 : Thực trạng điều hành chính sách tiền tệ ở Việt Nam
Chương 3 : Giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi chính sách tiền tệ ở Việt Nam.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài này, dù đã nỗ lực hết mình nhưng với kiến thức
của một sinh viên và thời gian còn hạn chế thì đề án cũng không thể tránh khỏi những

thiếu sót về lý luận và thực tiễn do đó em rất mong nhận được sự động viên, góp ý của
thầy và các bạn nhằm hoàn thiện tốt hơn nữa đề tài nghiên cứu. Và em xin cám ơn thầy
Ths. Võ Văn Vang đã hướng dẫn em tận tình trong quá trình thực hiện đề tài này.
4
Đề án môn học GVHD: ThS.Võ Văn Vang
Đà Nẵng, ngày 28 tháng 11 năm 2011
5
Đề án môn học GVHD: ThS.Võ Văn Vang
CHƯƠNG I: NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ
CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
1.1 Khái niệm chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ là một chính sách kinh tế vĩ mô do Ngân hàng trung ương
(NHTW) khởi thảo và thực thi, thông qua các công cụ, biện pháp của mình nhằm đạt các
muc tiêu: ổn định giá trị đồng tiền, tạo công ăn việc làm, tăng trưởng kinh tế.
Mức cung tiền là tổng số tiền có khả năng thanh khoản. Nó bao gồm tiền mặt đang lưu
hành và các khoản tiền gửi không kỳ hạn tại các ngân hàng thương mại (NHTM).
Tùy điều kiện các nước, chính sách tiền tệ có thể được xác lập theo hai hướng:
chính sách tiền tệ mở rộng ( tăng cung tiền, giảm lãi suất để thúc đẩy sản suất, giảm thất
nghiệp nhưng lạm phát tăng – chính sách tiền tệ chống thất nghiệp) hay chính sách tiền
tệ thắt chặt( giảm cung tiền, tăng lãi suất làm giảm đầu tư vào sản xuất kinh doanh từ đó
làm giảm lạm phát nhưng thất nghiệp tăng – chính sách tiền tệ ổn định giá trị đồng tiền).
Chính sách tiền tệ thắt chặt tác động để làm giảm lượng tiền cung ứng khi nền
kinh tế quá nóng, tốc độ tăng trưởng quá cao, lạm phát cao. Đây chính là chính sách tiền
tệ để chống lạm phát.
Chính sách tiền tệ nới lỏng: Với chính sách này Ngân hàng nhà nước(NHNN) sẽ
cung thêm tiền cho nền kinh tế, tăng lượng tiền cho luu thông để khuyến khích đầu tư,
gia tăng sản lượng, tạo việc làm cho người lao động và góp phần tạo sự tăng trưởng và
phát triển của nền kinh tế.
Ở mối quốc gia chính sách tiền tệ do NHNN vạch ra và đưa nó vào vận hành trong
thực tế nhằm thực hiện các mục tiêu cơ bản của kinh tế vĩ mô. Trên cơ sở đó tuỳ thuộc

vào từng thời kỳ, tình hình của mỗi quốc gia mà xác định đâu là mục tiêu chính.
Một chính sách tiền tệ hoàn hảo sẽ xây dựng được một “tứ giác thần kỳ” ứng với một
tốc độ lạm phát 1 – 3%, thất nghiệp vào khoảng 4%, tăng trưởng kinh tế phải đạt từ 3 –
6
Đề án môn học GVHD: ThS.Võ Văn Vang
5% và làm sao cho số dư trong cán cân thanh toán quốc tế chiếm từ 2 – 3% trên GNP.
Một quốc gia sẽ cực kỳ ổn định nếu nó đạt được tứ giác thần kỳ này.
1.2 Vị trí và nhiệm vụ của chính sách tiền tệ
1.2.1 Vị trí
Kinh tế thị trường về thực chất là một nền kinh tế tiền tệ. Ở đó bao giờ chính sách
tiền tệ cũng là một trong những công cụ quản lý kinh tế vĩ mô quan trọng nhất của Nhà
nước, bên cạnh chínhớách tài khoá, chính sách phân phối thu nhập, chính sách kinh tế
đối ngoại…
NHNN sử dụng chính sách tiền tệ nhằm gây ra sự mở rộng hay thắt chặt trong việc
cung ứng tiền tệ, để ổn định giá trị đồng bản tệ, đưa sản lượng và việc làm của quốc gia
đến mức mong muốn.
Chính sách tiền tệ là hoạt động cơ bản, chủ yếu nhất của NHNN. Có thể coi chính
sách tiền tệ là linh hồn, xuyên suốt trong mọi hoạt động của NHNN. Các hoạt động khác
của NHNN đều nhằm thực thi chính sách tièn tệ đạt được các mục tiêu của nó.
1.2.2 Nhiệm vụ
Chính sách tiền tệ, một mặt là cung cấp đủ phương tiện thanh toán cho nền kinh tế
(lượng tiền cung ứng), mặt khác phải giữ ổn định giá trị đồng bản tệ. Để thực hiện được
điều đó, thông thường trên thé giới, việc xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ được
giao cho NHNN. Có một số nước, việc xây dựng chính sách tiền tệ có thể do một cơ
quan khác, nhưng thực hiện chính sách tiền tệ vẫn là NHNN. Tuy nhiên trong lĩnh vực
này, NHNN cần được độc lập ở một mức độ nhất định với Chính phủ.
1.3 Mục tiêu chính sách tiền tệ quốc gia
1.3.1 Kiểm soát lạm phát
Lạm phát là sự tăng lên của mức giá chung theo thời gian. Khi lạm phát ở mức độ
cao (lạm phát phi mã, siêu lạm phát) thì sẽ dẫn tới phân phối lại thu nhập và của cải giữa

các tầng lớp giai cấp khác nhau. Khi giá cả tăng lên một cách bất thường thì người mất
7
Đề án môn học GVHD: ThS.Võ Văn Vang
là những người đang nắm giữ các tài sản danh nghĩa, còn người được là những người có
các khoản nợ tính theo các giá trị danh nghĩa. Khi lạm phát tăng lên ở mức độ cao, thu
nhập thực tế của dân cư sẽ giảm, đời sống nhân dân lao động giảm sút, lạm phát cao còn
gây ra hiện tượng đầu tư tích trữ hàng hoá và hiện tuợng chuyển tiền sang các loại hàng
hoá khác, làm cho cầu về hàng hoá tăng (gồm cả cầu giả tạo) dẫn tới mất cân đối cung
cầu và giá cả hàng hoá tăng lên, làm cho lạm phát tăng càng cao và dễ bị rơi vào vòng
xoáy lạm phát nếu tình trạng này diễn ra trong một thời gian dài.
Còn khi lạm phát ở mức độ vừa phải (lạm phát dự tính), thường là dưới 10% thì
nó không có tác động tiêu cực mà còn là liều thuốc bổ cho tăng trưởng kinh tế. Tuy
nhiên thực chất của việc kiểm soát lạm phát là chấp nhận sự biến động với một biên độ
cho phép. Còn khi lạm phát ở mức cao thì NHNN sẽ sử dụng chính sách tiền tệ thắt chặt
đẻ làm giảm mức cung ứng tiền, giảm lạm phát.
Như vậy, nhiệm vụ của NHNN là kiểm soát lạm phát tạo tiền đề cho nền kinh tế
phát triển bình thuờng, đảm bảo đời sống cho người lao động
1.3.2 Ổn định giá trị đồng bản tệ
Kiểm soát lạm phát được biều hiện trước hết ở chỗ ổn định giá trị đối nội, giá trị
đối ngoại của đồng tiền. Giá trị đối nội và giá trị đối ngoại củat đồng tiền có quan hệ
mật thiết với nhau. Muốn ổn định tiền tệ và phát triển kinh tế - xã hội, Nhà nước phải có
biện pháp ổn định giá cả hàng hoá và dịch vụ trong nước và ổn định tỷ giá hối đoái.
Trong nền kinh tế mở, một sự thay đổi của tỷ giá hối đoái ít hay nhiều đều ảnh
hưởng tới hoạt động kinh tế trong nước tuỳ theo mức độ hướng ngoại của nền kinh tế.
Một tỷ giá hối đoái quá thấp (đồng bản tệ có giá trị tăng lên so với ngoại tệ) có tác
dụng khuyến khích nhập khẩu gây bất lợi cho xuất khẩu vì hàng xuất khẩu tương đối đắt
khi bán cho nước ngoài. Như vậy sẽ gây trở ngại trong nước về xuất khẩu, bất lợi cho
những chuyển dịch ngoại tệ từ nuớc ngoài vào trong nước. Khi đó khối lượng dự trũ
ngoại hối dễ bị xói mòn.
8

Đề án môn học GVHD: ThS.Võ Văn Vang
Ngược lại, một tỷ giá hối đoái cao (đồng bản tệ có giá trị thấp so với ngoại tệ) có
tác dụng bất lợi cho nhập khẩu, khuyến khích xuất khẩu vì làm cho hàng nhập khẩu
tương đối đắt, hàng xuất khẩu tương đối rẻ hơn.
Như vậy một tỷ giá hối đoái cao hay thấp đều dẫn tới những tác động kép tích cực
và tiêu cực. Do đó nhiệm vụ của NHNN là sử dụng những công cụ, chính sách của
mình, can thiệp, giữ cho tỷ giá không thăng trầm quá đáng, làm dịu bớt những tình trạng
bất ổn định của nền kinh tế quốc dân trong nuớc.
1.3.3 Tạo việc làm và giảm bớt tỷ lệ thất nghiệp
Những người trong lực lượng lao động khi không có việc làm sẽ trở thành người
thất nghiệp. Nạn thất nghiệp là một thực tế nan giải của mỗi quốc gia có nền kinh tế thị
truờng cho dù quốc gia đó là phát triển, đang phát triển hay kém phát triển.
Khi tỷ lệ thất nghiệp cao, sản xuất sút kém các nguồn lực không được sử dụng hết,
thu nhập của dân cư giảm sút. Khó khăn kinh tế tràn sang lĩnh vực xã hội, nhiều hiện
tượng tiêu cực phát triển, tác hại của thât nghiệp là rất rõ ràng. Thất nghiệp luôn gắn liền
với các tệ nạn xã hội như cờ bạc, trộm cắp, tổn thương về mặt tâm lý và niềm tin của
nhiều người, có thể phá vỡ nhiều mối quan hệ truyền thống, làm xói mòn lối sống lành
mạnh …
Mục tiêu của chính sách tiền tệ là tạo việc làm, giảm bớt thất nghiệp chứ không
phải là làm cho thất nghiệp bằng không mà ở tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên, khi nền kinh tế
toàn dụng nhân công. Trong thực tế có một số người thất nghiệp có lợi cho nền kinh tế.
Đó là khi người lao động quyết định đi tìm một công việc khác tốt hơn, phù hợp hơn, thì
người lao động đó bị thất nghiệp trong thời gian đang tìm việc làm. Hoặc một số nguời
lao động tự nguyện rời bỏ công việc của mình để theo đuổi các hoạt động khác như học
tập hay du lịch … và khi họ quyết định gia nhập trở lại thị truờng lao động, họ phải mất
một thời gian đẻ tìm đúng công việc mà họ mong muốn.
Thông qua chính sách tiền tệ có thể tác động đến công ăn việc làm, tức đến tỷ lệ
thất nghiệp trong nền kinh tế. Nếu chính sách tiền tệ của NHNN nhằm mở rộng cung
ứng tiền tệ, tạo điều kiện mở rộng đầu tư sản xutấ, các doanh nghiệp và nền kinh tế cần
9

Đề án môn học GVHD: ThS.Võ Văn Vang
nhiều lao động hơn, công ăn việc làm cao, tỷ lệ thất nghiệp thấp. Ngược lại, cung ứng
tiền tệ giảm xuống sẽ thu hẹp các hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghọêp và
Nhà nước cần ít lao động hơn, công ăn việc làm giảm, tỷ lệ thất nghiệp tăng.
1.3.4 Ổn định và tăng trưởng kinh tế
Mục tiêu tăng trưởng kinh tế luôn gắn chặt với mục tiêu việc làm cao. Chính sách
tiền tệ có thể tác động đồng thời đến hai mục tiêu này. Khi cung ứng tiền tệ tăng lên,
trong ngắn hạn lãi suất tín dụng giảm sẽ khuyến khích đầu tư, mở rộng sản xuất kinh
doanh, Nhà nước và doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng lao động nhiều hơn, làm tăng sản
lượng và tăng trưởng kinh tế. Ngược lại, khi cung tiền tệ giảm, trong ngắn hạn lãi suất
tăng sẽ hạn chế đầu tư, thu hẹp hoạt động sản xuất kinh doanh, Nhà nước và doanh
nghiệp cần ít lao động hơn, làm cho mức sản lượng giảm, tăng trưởng kinh tế chậm lại.
1.3.5 Các mục tiêu trung gian
Trong nền kinh tế thị trường NHNN phải xác định các mục tiêu trung gian của
chính sách tiền tề, nhằm đạt đến các mục tieu cuối cùng của chính sách này. Bởi lẽ,
NHNN sử dụng các mục tiêu trung gian để có thể xét đoán nhanh chóng tình hình thực
hiện hoạt động của mình phục vụ cho các mục tiêu cuối cùng hơn là chờ cho đến khi
nhìn thấy kết quả cuối cùng của các mục tiêu đó.
Các mục tiêu trung gian của chính sách tiền tệ là các khối tiền tệ M1, M2, M3, L.
Đây là mục tiêu mang tính định hướng, chúng có thể đo lường kiểm soát đuợc và có thể
đoán trước được tác động của chúng với việc thực hiện các mục tiêu cuối cùng của
chính sách tiền tệ.
M1 bao gồm tiền mặt lưu thông ngoài hệ thống ngân hàng và tiền gửi không kỳ
hạn tại ngân hàng
M2: bao gồm M1 cộng với các khoản tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi có kỳ hạn tại
ngân hàng.
M3: bao gồm M2 cộng với các khoản tiền gửi tại các định chế tài chính khác.
Khối tiền tệ L: bao gồm M3 và các loại giấy tờ có giá trong thanh toán.
10
Đề án môn học GVHD: ThS.Võ Văn Vang

Bằng việc tăng giảm các khối lượng tiền tệ NHNN góp phần đến tác đông tăng,
giảm tổng cung và tổng cầu tiền tệ của xã hội. Đồng thơi NHNN cũng có thể sử dụng
công cụ lãi suất để tác động đến sự tăng giảm khối luợng tiền tệ, từ đó tác động đến tổng
cung và tổng cầu của xã hội.
1.4 Quan hệ giữa các mục tiêu của chính sách tiền tệ
Nhìn tổng quát và có chiến lược lâu dài thì các mục tiêu chính sách tiền tệ có quan
hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ và thúc đẩy lẫn nhau. Điều đó cho thấy rằng trong quá trinh
thực hiện chính sách tiền tệ không thể tuyệt đối hoá một mục tiêu nào, không thể giải
quyết các mục tiêu một cách độc lập trên tầm vĩ mô. Tuy nhiên, có nơi có lúc, trong thời
gian ngắn có thể xảy ra sự xung đột, thậm chí triệt tiêu lẫn nhau giữa các mục tiêu. Điều
thường gặp và dễ thấy nhất là sự mâu thuẫn giữa tỷ lệ lạm phát với tỷ lệ thất nghiệp.
Tuy vẫn còn nhiều quan niệm khác nhau, song nhìn chung, mục tiêu cơ bản của chính
sách tiền tệ là ổn định giá trị đồng bản tệ, trên cơ sở để ổn định và phát triển kinh tế xã
hội.
1.5 Các công cụ của chính sách tiền tệ
Để thực hiện các chính sách tiền tệ có hiệu quả thì ngoài xác định rõ ràng mục tiêu
chính sách tiền tệ phù hợp với từng giai đoạn phát triển kinh tế,thì đòi hỏi ngân hàng
Trung ương phải lựa chọn và xây dựng hệ thống công cụ chính sách tiền tệ phù hợp và
điều hành chúng một cách hiệu quả nhằm đạt được mục tiêu cuối cùng của chính sách
tiền tệ.
Các chính sách tiền tệ được chia thành 2 loại chủ yếu: Công cụ tiền tệ gián tiếp và
công cụ tiền tệ trực tiếp.
1.5.1 Các công cụ gián tiếp
1.5.1.1. Nghiệp vụ thị trường mở
Nghiệp vụ thị trường mở là nghiệp vụ trong đó NHTW sử dụng các nghiệp vụ
mua, bán chứng khoán trên thị trường tiền tệ mở (là thị trường tiền tệ mà ngoài các ngân
hàng còn có chính phủ, các chủ thể kinh tế phi ngân hàng tham gia mua bán) để thay đổi
cơ số tiền (MB), từ đó tác động tới lượng tiền cung ứng và mức lãi suất trên thị trường.
11
Đề án môn học GVHD: ThS.Võ Văn Vang

* Cơ chế tác động
Các hoạt động của NHTW trên thị trường mở sẽ gây ra những tác động gián tiếp tới
lượng tiền cung ứng và lãi suất thị trường theo cơ chế:
-
Thứ nhất, khi Ngân hàng trung ương mua (hoặc bán) các chứng khoán, nó sẽ
làm tăng (hoặc
giảm) ngay lập tức dự trữ của các ngân hàng trung gian (dù người bán là
các ngân

hàng trung gian hay khách hàng của các ngân hàng này). Khả năng tạo tiền gửi
thông qua cung ứng tín dụng của hệ thống ngân hàng vì thế bị ảnh hưởng, dẫn đến

làm
tăng (hoặc giảm) lượng tiền cung ứng.
- Thứ hai, khi vốn khả dụng của từng ngân hàng tăng (hoặc giảm) do tác động của
nghiệp vụ thị trường mở, mức cung vốn trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng tăng
lên
(hoặc giảm xuống). Trong điều kiện các yếu tố liên quan không thay đổi, lãi
suất thị
trường liên ngân hàng sẽ giảm xuống (hoặc tăng lên). Thông qua các hoạt động arbit về
lãi suất, ảnh hưởng này được truyền đến các mức lãi suất khác trên thị trường tài chính
nói chung.
- Thứ ba, nghiệp vụ thị trường mở còn ảnh hưởng đến cung cầu và do đó đến giá
cả các chứng khoán mà Ngân hàng trung ương sử dụng trong nghiệp vụ này. Những thay
đổi về giá cả này sẽ tạo ra những thay đổi về mức sinh lời của các chứng khoán (lãi suất
của
chúng sẽ bị tăng lên hoặc giảm xuống), từ đó ảnh hưởng tới lãi suất thị trường.
Chẳng hạn, khi Ngân hàng trung ương bán chứng khoán làm cung chứng khoán
tăng, giá cả của các chứng khoán giảm xuống làm mức sinh lời (hay lãi suất) của chúng
tăng lên.

Điều này buộc các ngân hàng phải tăng lãi suất tiền gửi để hạn chế tình trạng “phi
trung gian hoá”. Đồng thời, lãi suất của các chứng khoán mới phát hành cũng bị kích
thích tăng tương ứng.
* Đặc điểm của việc áp dụng công cụ
-
Các chủ thể có liên quan đến công cụ này bao gồm: các ngân hàng, các tổ chức tài
chính, các công ty và cả những người chuyên buôn bán chứng khoán - những
người
này sau đó sẽ bán lại chúng cho các chủ thể trên.
-
Các chứng khoán mà Ngân hàng trung ương sử dụng trong nghiệp vụ thị trường
12
Đề án môn học GVHD: ThS.Võ Văn Vang
mở thường là các
chứng khoán chính phủ, mà chủ yếu là tín phiếu kho bạc. Lý do là vì
các chứng
khoán này có tính lỏng cao, cho nên Ngân hàng trung ương có thể thực hiện
nghiệp vụ một cách
nhanh chóng và dễ dàng. Hơn nữa, thị trường chứng khoán chính
phủ có khối

lượng giao dịch lớn nên có khả năng tiếp nhận một lượng lớn nghiệp
vụ của
NHTW mà không làm giá trên thị trường biến động quá mạnh, dẫn đến sụp đổ
thị
trường. Ở Việt nam do thị trường chứng khoán chính phủ chưa phát triển nên
NHNN phát hành tín phiếu NHNN để điều tiết việc cung ứng tiền tệ. Tuy nhiên do thị
trường loại tín phiếu này chỉ diễn ra giữa một bên là NHNN và một bên là các NHTG
nên hiệu quả điều tiết không cao, chỉ chủ yếu tác động vào dự trữ của các NHTG.
* Ưu nhược điểm của công cụ

-
Nghiệp vụ thị trường mở được tiến hành theo sáng kiến của NHTW. NHTW có thể
kiểm soát hoàn toàn khối lượng của nghiệp vụ thị trường mở mà không chịu ảnh hưởng
của bất kỳ nhân tố nào khác.
-
Nghiệp vụ thị trường mở rất linh hoạt và chính xác. Điều này thể hiện ở chỗ dù
NHTW muốn thay đổi một mức rất nhỏ hay rất lớn của lượng cung tiền, nghiệp vụ

thị
trường mở đều có thể đáp ứng được. Hơn nữa, nghiệp vụ thị trường mở có thể

dễ dàng
đảo ngược lại khi có một sai lầm xảy ra trong lúc tiến hành nghiệp vụ.
Chẳng hạn NHTW nhận thấy rằng đã mua quá nhiều chứng khoán trên thị
trường
mở khiến cho cung tiền tăng quá nhanh, nó có thể ngay lập tức sửa chữa sai lầm bằng
cách tiến hành nghiệp vụ bán trên thị trường mở.
-
Nghiệp vụ thị trường mở được hoàn thành nhanh chóng mà không vướng phải
những chậm trễ về hành chính và do đó có thể gây tác động tức thì đến lượng cung

tiền
tệ.
-
Nghiệp vụ thị trường mở tác động thông qua cơ chế thị trường nên các đối tượng
chịu sự tác động thường khó chống đỡ hoặc đảo ngược chiều hướng điều chỉnh của
NHTW. Mặc dù nghiệp vụ thị trường mở được thực hiện theo nguyên tắc tự
nguyện, những nhà kinh doanh chứng khoán không bị bắt buộc mua hoặc bán theo mức
giá do NHTW ấn định nhưng NHTW có thể thực hiện được yêu cầu của mình bằng việc
điều chỉnh giá sao cho nó trở nên hấp dẫn đối tác.

13
Đề án môn học GVHD: ThS.Võ Văn Vang
Nhờ những ưu điểm nêu trên mà nghiệp vụ thị trường mở được coi là công cụ hữu
hiệu nhất trong các công cụ của chính sách tiền tệ. Tuy nhiên, việc thực hiện công cụ
này đòi hỏi sự phát triển của thị trường tài chính thứ cấp nói chung và thị trường tiền tệ
nói riêng. Ngoài ra, Ngân hàng trung ương phải có khả năng dự đoán và kiểm soát sự
biến động của lượng vốn khả dụng trong hệ thống ngân hàng.
Tại Việt nam, nghiệp vụ thị trường mở chính thức được Ngân hàng Nhà nước đưa
vào sử dụng từ tháng 7 năm 2000.
1.5.1.2. Chính sách chiết khấu, tái chiết khấu
Chính sách tái chiết khấu bao gồm các qui định về việc cho vay của Ngân hàng
trung ương đối với các ngân hàng trung gian. NHTW thường cho các ngân hàng thương
mại vay dưới hình thức chiết khấu lại các giấy tờ có giá ngắn hạn (chủ yếu là tín phiếu
kho bạc và thương phiếu) do các ngân hàng thương mại đưa đến, bởi
vậy chính sách cho
vay của NHTW đối với các ngân hàng thương mại được gọi là chính sách tái chiết
khấu. Các ngân hàng thương mại vay từ Ngân hàng trung ương chủ yếu là nhằm giải
quyết vấn đề thiếu hụt tiền mặt tạm thời để đáp ứng nhu cầu thanh toán hoặc để bù
đắp thiếu hụt trong quỹ dự trữ bắt
buộc. Những thay đổi trong chính sách tái chiết
khấu của NHTW sẽ tác động đến khối
lượng vay chiết khấu của các ngân hàng thương
mại, từ đó ảnh hưởng tới lượng tiền cung ứng.
* Cơ chế tác động
NHTW thông qua việc thay đổi các qui định về hạn mức tái chiết khấu, lãi suất tái
chiết khấu và các điều kiện tái chiết khấu sẽ ảnh hưởng đến các hoạt động đi vay chiết
khấu từ NHTW của các ngân hàng thương mại trên hai phương diện: khối lượng và giá.
- Khối lượng vốn khả dụng được bổ sung từ NHTW có thể bị giới hạn hoặc nới
rộng căn cứ vào hạn mức tái chiết khấu và các điều kiện tái chiết khấu, từ đó ảnh hưởng
đến khả

năng tạo tiền của hệ thống ngân hàng thương mại, làm cho lượng tiền cung
ứng bị thay đổi. Mặt khác,
khi lượng vốn khả dụng thay đổi, nó làm cho quan hệ cung
cầu vốn và do đó lãi suất trên thị trường liên ngân hàng thay đổi.
- Sự thay đổi mức lãi suất tái chiết khấu tác động trước hết vào chi phí đầu vào
của các
ngân hàng thương mại, vì thế các ngân hàng này dần dần tăng (hoặc giảm) lãi
suất cho vay, từ đó làm giảm (hoặc tăng) nhu cầu tín dụng. Bên cạnh đó, khi lãi suất
14
Đề án môn học GVHD: ThS.Võ Văn Vang
chiết khấu tăng lên (hoặc
giảm), các ngân hàng thương mại không thể vay NHTW một
cách dễ dàng (hoặc là có thể mở rộng khả năng vay). Điều này buộc các ngân hàng
thương mại phải giảm bớt khả năng cung ứng tín dụng để hồi phục dự trữ (hoặc mở rộng
cho vay trong trường hợp ngược lại).
Hai chức năng khác: Ngoài việc sử dụng làm công cụ để ảnh hưởng đến cơ số
tiền, qua đó đến lượng tiền cung ứng, chính sách chiết khấu còn được NHTW sử dụng
với hai chức năng sau:
- Chức năng người cho vay cuối cùng: Trong chức năng này, chính sách chiết khấu
được NHTW sử dụng để thực hiện vai trò người cho vay cuối cùng của mình.
Thông qua công cụ này, NHTW cung cấp thêm dự trữ cho các ngân hàng đang có nguy
cơ phá sản do không có khả năng chi trả, từ đó tránh được một cuộc sụp đổ dây chuyền
trong toàn hệ thống ngân hàng. Ngoài ra, nó còn được các NHTW sử
dụng để chống lại
sự sụp đổ của thị trường tài chính. Sử dụng chính sách chiết

khấu để tránh các vụ sụp
đổ hệ thống ngân hàng hoặc thị trường tài chính là yêu
cầu rất quan trọng để thực hiện
chính sách tiền tệ thành công. Bởi vì nếu để các vụ

sụp đổ ngân hàng xảy ra sẽ gây tổn
hại nghiêm trọng đến nền kinh tế do nó làm
giảm sút nghiêm trọng cung ứng tiền, đồng
thời cản trở khả năng các thị trường tài chính chuyển vốn tới những nơi có cơ hội đầu tư
sinh lời. Tuy nhiên điểm bất lợi
của chức năng này là các ngân hàng lớn có thể vì thế
mà chấp nhận nhiều rủi ro
hơn trong kinh doanh với suy nghĩ đã có NHTW đứng đằng
sau. Điều này khiến
cho các NHTW phải rất thận trọng không sử dụng quá thường
xuyên chức năng
này.
-
Chức năng thông báo: Chính sách chiết khấu còn có một chức năng khác nữa đối
với NHTW, đó là nó có thể được sử dụng để thông báo cho thị trường về ý định
của
NHTW về chính sách tiền tệ trong tương lai. Ví dụ: khi NHTW muốn ngăn ngừa nguy cơ
lạm phát bằng một chính sách lãi suất cao, nó sẽ nâng mức lãi suất tái chiết khấu lên.
Điều này cung cấp dấu hiệu về một chính sách tiền tệ thắt chặt trong tương lai. Điểm bất
lợi của chức năng này là nó có thể bị thị trường giải thích sai lệch đi. Chẳng hạn, nếu
NHTW nhận thấy rằng lãi suất tái chiết khấu đang được áp dụng quá thấp so
với mức
lãi suất thị trường, có thể dẫn đến việc các NHTG lạm dụng các khoản
vay từ NHTW
15
Đề án môn học GVHD: ThS.Võ Văn Vang
để tăng cung tín dụng làm lượng tiền cung ứng tăng mạnh không có
lợi cho nền kinh tế,
nên đã quyết định nâng lãi suất tái chiết khấu lên. Như vậy,
mục đích của việc tăng lãi

suất tái chiết khấu ở đây là giảm bớt các khoản vay từ NHTW nhằm tránh nguy cơ tăng
trưởng quá nhanh của lượng tiền cung ứng. Thế nhưng, việc tăng lãi suất tái chiết khấu
của NHTW có thể bị thị trường hiểu lầm là
dấu hiệu của sự thay đổi trong chính sách
tiền tệ của NHTW, và do vậy gây ra những phản
ứng sai lệch, trái với ý định của
NHTW. Để khắc phục nhược điểm này, cách tốt nhất là NHTW đồng thời với việc tăng
hoặc giảm lãi suất tái chiết khấu, công bố công khai mục đích của mình.
*Ưu nhược điểm của công cụ
- Ưu điểm của công cụ này là các khoản cho vay của NHTW đều được đảm bảo
bằng các giấy tờ có giá. Do đó các khoản cho vay sẽ chắc chắn được thu hồi khi

đến
hạn.
- Tuy nhiên tác dụng của chính sách này chỉ có thể phát huy khi các ngân hàng
thương mại có nhu cầu
vay từ NHTW. Với sự phát triển của thị trường tài chính, các
ngân hàng thương mại có thể tìm
kiếm được các nguồn vay khác ngoài NHTW làm cho
sự phụ thuộc của chúng vào Ngân hàng trung ương giảm đi, do đó làm giảm mức độ phát
huy hiệu quả của công cụ này.
- Thêm vào đó, NHTW khó kiểm soát được hoàn toàn những tác động của công cụ
này bởi NHTW chỉ có thể thay đổi mức lãi suất tái chiết khấu và các điều kiện
chiết
khấu mà không thể bắt các NHTG vay từ mình.
-Cuối cùng, công cụ này cũng không dễ đảo ngược như nghiệp vụ thị trường mở.
1.5.1.3. Dự trữ bắt buộc
Dự trữ bắt buộc là số tiền mà các ngân hàng thương mại buộc phải duy trì trên
một tài khoản tiền gửi
không hưởng lãi tại NHTW. Nó được xác định bằng một tỷ lệ

phần trăm nhất định trên
tổng số dư tiền gửi trong một khoảng thời gian nào đó. Mức
dự trữ bắt buộc được qui
định khác nhau căn cứ vào thời hạn tiền gửi, vào quy mô
và tính chất hoạt động của
ngân hàng thương mại .
* Cơ chế tác động
16
Đề án môn học GVHD: ThS.Võ Văn Vang
Việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc và do đó mức dự trữ bắt buộc ảnh
hưởng đến
lượng tiền cung ứng theo ba cách:
- Thứ nhất, khi NHTW quyết định tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, bộ phận dự trữ dư
thừa trước đây của các ngân hàng chuyển thành dự trữ bắt buộc, làm giảm khả năng cho
vay của hệ thống ngân hàng.
- Thứ hai, tỷ lệ dự trữ bắt buộc là một thành phần trong mẫu số của hệ số mở rộng
tiền gửi. Vì thế sự tăng lên của tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ làm giảm hệ số mở rộng
tiền
gửi và do đó là khả năng mở rộng tiền gửi của hệ thống ngân hàng.
- Thứ ba, tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng lên làm giảm mức cung vốn của các ngân hàng
thương mại trên thị trường liên ngân hàng. Trong điều kiện nhu cầu vốn khả dụng không
thay đổi,
sự giảm sút này làm tăng lãi suất liên ngân hàng, từ đó dẫn đến tăng các mức
lãi
suất dài hạn và giảm khối lượng tiền cung ứng. Quyết định giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc
sẽ gây nên những ảnh hưởng ngược lại.
* Ưu nhược điểm của công cụ
- Lợi thế chủ yếu của công cụ dự trữ bắt buộc trong việc kiểm soát lượng tiền cung
ứng là sự thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ ảnh hưởng một cách bình đẳng đến tất cả các
ngân hàng.

- Ngoài ra đây là công cụ có quyền lực ảnh hưởng rất mạnh đến lượng tiền cung
ứng. Chỉ cần một thay đổi nhỏ tỷ lệ dự trữ bắt buộc cũng sẽ dẫn đến sự thay đổi

đáng
kể khối lượng tiền cung ứng.
- Tuy nhiên, đây cũng chính là điều làm cho công cụ dự trữ bắt buộc thiếu linh hoạt.
NHTW rất khó có thể thực hiện được những thay đổi nhỏ trong cung ứng tiền tệ
bằng
cách thay đổi dự trữ bắt buộc.
- Một bất lợi khác là việc tăng dự trữ bắt buộc có thể gây nên vấn đề mất “khả
năng thanh toán ngay” đối với những ngân hàng có dự trữ vượt mức quá thấp.
- Cuối cùng, việc thay đổi liên tục dự trữ bắt buộc sẽ gây ra tình trạng không
ổn
định cho hoạt động của các ngân hàng và làm cho việc quản lý khả năng thanh
khoản của các ngân hàng khó khăn và tốn kém hơn.
17
Đề án môn học GVHD: ThS.Võ Văn Vang
Chính do những nhược điểm này mà ngày nay công cụ này ít được NHTW các
nước sử dụng. Nếu sử dụng thì thường kết hợp với một vài công cụ khác để làm giảm bớt
mức độ ảnh hưởng của nó. Chẳng hạn, cùng với việc nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, NHTW
tiến hành các nghiệp vụ mua vào chứng khoán trên thị trường mở hoặc nới rộng các điều
kiện vay chiết khấu nhằm giúp cho các ngân hàng có thể nhanh chóng nâng mức dự trữ
bắt buộc với chi phí thấp, tránh khỏi bị sốc.
1.5.2. Các công cụ trực tiếp
1.5.2.1. Tỷ giá hối đoái
Trong điều kiện mở cửa kinh tế, các hoạt động kinh tế đối ngoại với những luồng
hàng
hoá và vốn vào ra một quốc gia có ảnh hưởng to lớn tới các biến số kinh tế vĩ mô
của
quốc gia đó. Sự di chuyển của các luồng hàng hoá và vốn này luôn gắn liền với

sự di
chuyển của các luồng tiền tệ của các nước khác nhau. Với ý nghĩa là tỷ lệ trao đổi
giữa
đồng tiền quốc gia này với đồng tiền quốc gia khác, tỷ giá hối đoái có ảnh hưởng
quan
trọng, có thể kìm hãm hoặc thúc đẩy sự di chuyển của các luồng tiền nói
trên.Chính vì vậy, việc xác lập một tỷ giá hối đoái hợp lý nhằm khuyến khích các hoạt
động kinh tế đối ngoại phát triển phục vụ cho nền kinh tế quốc gia là một nhiệm vụ quan
trọng của CSTT. Sự can thiệp nhằm tác động tới tỷ giá hối đoái được thực hiện thông
qua các hoạt động mua vào hoặc bán ra ngoại tệ của NHTW trên thị trường ngoại hối.
Mức độ can thiệp của NHTW vào sự hình thành tỷ giá hối đoái trên thị trường phụ thuộc
vào chế độ tỷ giá hối đoái (Exchange rate regime) mà quốc gia đó áp dụng. Có ba chế độ
tỷ giá hối đoái mà các nước đã và đang áp dụng:
+ Chế độ tỷ giá cố định - A fixed (hay pegged) exchange rate regime: là chế độ tỷ
giá hối đoái, trong đó NHTW buộc phải can thiệp trên thị trường ngoại hối để duy
trì tỷ
giá biến động xung quanh một mức tỷ giá cố định (gọi là tỷ giá trung tâm)
trong một
biên độ hẹp đã được định trước. Như vậy, trong chế độ tỷ giá cố định, NHTW buộc phải
mua vào hay bán ra đồng nội tệ nhằm giới hạn sự biến động của tỷ giá trong biên độ đã
định. Chế độ tỷ giá này giảm bớt rủi ro của việc chuyển đổi từ đồng tiền này sang đồng
tiền khác do tỷ giá được cố định. Tuy nhiên ngày nay
nó ít được các nước sử dụng do
gây ra vấn đề phụ thuộc của CSTT vào các biến
động của bên ngoài và cán cân thanh
toán không thể tự động cân bằng. Hơn nữa,

để tiến hành can thiệp trên thị trường ngoại
18
Đề án môn học GVHD: ThS.Võ Văn Vang

hối đòi hỏi NHTW phải có sẵn nguồn

dự trữ ngoại hối dồi dào.
+ Chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn - A freely flexible (hay freely floating)
exchange rate regime: là chế độ tỷ giá hối đoái, trong đó tỷ giá được xác định hoàn
toàn tự do theo quy luật cung cầu trên thị trường ngoai hối mà không có bất cứ sự can
thiệp nào của Ngân hàng trung ương. Chế độ tỷ giá này được đánh giá là giúp cho chính
sách tiền tệ được độc lập, ít chịu ảnh hưởng của những biến động thị trường và cán cân
thanh toán quốc tế được tự động điều chỉnh cân bằng.
+ Chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết - A managed (hay contronlled) floating
exchange rate regime: là chế độ tỷ giá hối đoái, trong đó NHTW tiến hành can thiệp
trên thị trường ngoại hối nhằm ảnh hưởng lên tỷ giá, nhưng NHTW không cam kết duy
trì
một tỷ giá cố định hay biên độ dao động nào xung quanh tỷ giá trung tâm. Nói
cách
khác, NHTW thực hiện các nghiệp vụ mua bán ngoại tệ để điều tiết thị trường ngoại hối,
song can thiệp của NHTW không nhằm mục đích để cố định tỷ giá như đối với chế độ tỷ
giá cố định.
1.5.2.2. Lãi suất tín dụng
Với những nước mà tín dụng ngân hàng là nguồn tín dụng chủ yếu của đất nước,
việc qui định giới hạn dao động của các mức lãi suất của ngân hàng bằng cách định ra
một khung
lãi suất sẽ có ảnh hưởng trực tiếp tới mức lãi suất thị trường. Khung lãi
suất bao gồm
mức lãi suất trần (là mức lãi suất tối đa mà các ngân hàng được phép ấn
định khi đi vay
hoặc cho vay) và lãi suất sàn (là mức lãi suất tối thiểu mà các ngân
hàng được phép ấn
định khi cho vay hoặc đi vay). Thông thường NHTW sẽ qui định mức
lãi suất trần đối với lãi suất cho vay và mức lãi suất sàn với lãi suất đi vay của các ngân

hàng.
Thực tế áp dụng ở hầu hết các nước đều cho thấy đây là một công cụ cứng nhắc, dễ
gây tác động xấu tới hoạt động tiết kiệm và đầu tư. Vì vậy, nó thường chỉ được sử dụng
trong
điều kiện sự ổn định kinh tế vĩ mô chưa được thiết lập, hay các yếu tố thị trường
chưa
phát triển hoàn chỉnh.
1.5.2.3. Kiểm soát hạn mức tín dụng
Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà NHTW buộc các tổ chức tín dụng
19
Đề án môn học GVHD: ThS.Võ Văn Vang
phải tuân
thủ khi cấp tín dụng cho nền kinh tế. Mức dư nợ được qui định cho từng ngân
hàng căn cứ vào đặc điểm kinh doanh của từng ngân hàng (cơ cấu khách hàng, mức rủi
ro), định hướng cơ cấu kinh tế tổng thể, nhu cầu tài trợ các đối tượng chính sách và nó
phải nằm trong giới hạn của tổng dư nợ tín dụng dự tính của toàn bộ nền kinh tế trong
một khoảng thời gian nhất định.
Công cụ này được áp dụng phổ biến ở các nước trong thời kỳ hoạt động tài chính
được điều tiết chặt chẽ. Ví dụ trong trường hợp lạm phát cao, hạn mức tín dụng được sử
dụng nhằm khống chế trực tiếp và ngay lập tức lượng tín dụng cung ứng trong trường hợp
khi các công cụ gián tiếp không phát huy hiệu quả do thị trường
20
Đề án môn học GVHD: ThS.Võ Văn Vang
Chương II THỰC TRẠNG ĐIỀU HÀNH CHÍNH
SÁCH TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM
2.1 Khái quát tình hình kinh tế xã hội và việc thực thi chính sách tiền tệ ở Việt
Nam giai đoạn từ 1999 đến 2010
Giai đoạn 1991-2010 đã diễn ra những biến đổi quan trọng trong quá trình chuyển
đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. Đây là
giai đoạn thực hiện chiến lược 10 năm 2001-2010, thời kỳ nước ta tham gia ngày càng

sâu vọng vào quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Vì vậy, mỗi diễn biến trong
tiến trình phát triển kinh tế toàn cầu đều tác động mạnh mẽ đến khả năng phát triển kinh
tế của đất nước nói chung, tạo ra nhiều cơ hội và đan xen những thách thức không nhỏ.
2.1.1 Giai đoạn 1999 – 2003
- Tình hình kinh tế xã hội giai đoạn 1999 – 2003:
Biểu đồ tốc độ tăng trưởng GDP giai đoạn 1999-2003
Nguồn: Niên giám thống kê
Trong 2 năm 1999 - 2000 nền kinh tế nước ta gặp nhiều khó khăn: xu hướng giảm
sút tốc độ tăng trưởng của các ngành sản xuất từ các năm trước chưa được khắc phục,
thiên tai liên tiếp, đầu năm hạn hán, cuối năm diễn ra trận lụt thế kỷ ở miền Trung gây
21
Đề án môn học GVHD: ThS.Võ Văn Vang
thiệt hại hết sức nặng nề về người và tài sản, thêm vào đó là tác động bất lợi của khùng
hoảng tài chính tiền tệ khu vực vẫn còn rất lớn. Song với sự quan tâm cao và tinh thần tự
lực tự cường, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều quyết sách đúng đắn, các giải pháp tích
cực, vượt qua khó khăn và đã giành được nhiều thành tựu to lớn. Kết thúc năm 1999,
nền kinh tế nước ta vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng khá cao, không để xảy ra những
biến động lớn trong môi trường kinh tế vĩ mô. Tốc độ tăng trưởng GDP đạt 4,8% so với
năm 1998. Tuy nó có kém năm trước 0,8% và chỉ đạt xấp xỉ kế hoạch (kế hoạch 5 - 6%)
nhưng đã xuất hiện xu hướng nhích dần lên, quý sau cao hơn quý trước. Năm 2000 tốc
độ tăng GDP đạt 6,79%.
Về xuất khẩu thì dấu hiệu đáng mừng năm 1999 cơ cấu mặt hàng bước đầu đã
chuyển dịch theo hướng tích cực, tỷ trọng nhóm hàng xuất khẩu qua chế biến đã tăng từ
53% lên 59%, hàng nguyên liệu giảm từ 47% xuống 41%. Có thêm một số mặt hàng
mới như điện tử, máy tính, linh kiện.
Nhập khẩu giảm trong năm 1999 và tăng trong năm 2000. Năm 1999 ước đạt 11,2
tỷ USD, thâm hụt cán cân thương mại chỉ còn khoảng 200 triệu USD. Nhưng sang năm
2000 thì ta nhập siêu gần 1 tỷ USD do phục vụ sản xuất.
Tình hình giá cả năm 1999 chưa thoát khỏi đà giảm sút liên tục, chỉ số giá chỉ tăng
0,1%, trong khi giá vàng giảm và giá USD tăng. Thị trường giá cả năm 2000 có phần sôi

động hơn do những biện pháp kích cầu của Chính phủ. Nhưng nó cũng không tăng nhiều
năm so với năm 1999.
Giai đoạn 2001-2003 là giai đoạn mở đầu thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần
thứ IX, kế hoạch 5 năm (2001-2005) đầu tiên, thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã
hội 10 năm 2001-2010. Khi triển khai thực hiện kế hoạch 5 năm này, thuận lợi cơ bản là
sau 15 năm đổi mới và hội nhập quốc tế, thế và lực của nước ta cũng như kinh nghiệm
tổ chức quản lý và điều hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã tăng
lên đáng kể. Tuy nhiên khó khăn cũng không phải ít. Trong khi nền kinh tế nước ta còn
nhiều mặt yếu kém, kinh tế thế giới chưa ra khỏi trì trệ thì lại phải đối phó với những tác
động tiêu cực của khủng bố quốc tế liên tiếp xảy ra ở nhiều quốc gia trên thế giới và
trong khu vực...
22
Đề án môn học GVHD: ThS.Võ Văn Vang
Giai đoạn này kinh tế tăng trưởng với tốc độ tương đối cao và cơ cấu kinh tế tiếp
tục chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực xảy ra cuối năm 1997 đã tác
động tiêu cực đến nền kinh tế nước ta. Tổng sản phẩm trong nước trong những năm
1992 - 1997 thường đạt mức tăng trưởng hàng năm 8 - 9%, đã đột ngột giảm xuống còn
5,8% vào năm 1998 và 4,8% vào năm 1999. Năm 2000 chúng ta chặn được sự giảm sút
về tốc độ tăng trưởng và năm 2001 đã đưa tổng sản phẩm trong nước tăng 6,89% và
mức lạm phát 0,8%; năm 2003 đạt tốc độ tăng 7,34%. Tính trong 3 năm 2001 - 2003
bình quân mỗi năm tổng sản phẩm trong nước tăng 7,06%.
Đời sống của các tầng lớp dân cư tiếp tục được cải thiện và xoá đói giảm nghèo
đạt kết quả quan trọng. Tiền lương tối thiều được điều chỉnh từ 180 nghìn đồng cuối
năm 2000 lên 210000 đồng đầu năm 2001 và 290000 dầu năm 2003, cùng với việc triển
khai nhiều chương trình xoá đói giảm nghèo nên đời sống của các tầng lớp dân cư được
cải thiện. Thu nhập bình quân đầu người theo giá trị thực tế là 356,8 nghìn
đồng/người/tháng, tăng 21% so với năm 1999 trong đó khu vực thành thị đạt 625,9
nghìn đồng, tăng 21,1%; khu vực nông thôn đạt 274,9 nghìn đồng, tăng 22,2%.
- Tình hình thực hiện chính sách tiền tệ giai đoạn 1999 - 2003

+ Nghiệp vụ thị trường mở
Nhằm chuyển hướng điều hành tiền tệ từ các cơ cấu trực tiếp sang sử dụng các cơ
cấu gián tiếp trong năm 1999, NHNN đã gấp rút chuẩn bị mọi điều kiện về pháp lý cũng
như công cụ cho hoạt động thị trường mở: như tạo hàng hoá, cơ chế mua bán và các
điều kiện để xác định khối lượng hàng hoá một cách phù hợp cụ thể:
Mỗi lĩnh vực tạo dựng hàng hoá: các loại hàng hoá như tín phiếu kho bạc Nhà
nước, tín phiếu NHNN, các giấy tờ có giá trị thuộc sở hữu của các tổ chức tín dụng đã
được quy đinh cụ thể.
Cơ chế phát hành tín phiếu NHNN đối với các tổ chức tín dụng theo phương thức
đấu thầu lãi suất (kể từ 25/4/2000)
23
Đề án môn học GVHD: ThS.Võ Văn Vang
Cơ chế phát hành tín phiếu kho bạc qua Ngân hàng Nhà nước dưới hình thức đấu
thầu lãi suất
Cơ chế xác định các giấy tờ có giá trị ngắn hạn thuộc quyền sở hữu của các tổ
chức tín dụng được đăng ký tham gia nghiệp vụ thị trưởng mở.
Sau quá trình chuẩn bị khá kỹ càng thì đến đầu tháng 7/2000 NHNN đã chính thức
đưa nghiệp vụ thị trường mở vào hoạt động. Đây là một bước tiến trong điều hành chính
sách tiền tệ theo hướng từ sử dụng các công cụ trực tiếp sang các công cụ gián tiếp của
ngân hàng trung ương để phù hợp với thông lệ quốc tế và xu hướng phát triển chung của
nền kinh tế đất nước. Thông qua nghiệp vụ thị trường mở, NHNN đã hút được một
lượng tương đối lớn vốn khả dụng dư thừa của các TCTD, đồng thời vẫn điều tiết kịp
thời sự thiếu hụt vốn mang tính thời điểm của một số TCTD, đảm bảo duy trì ổn định
tiền tệ, ổn định lãi suất thị trường.
Sau hơn 4 năm hoạt động, tính đến cuối năm 2003 thị trưởng mở dã có hơn 22
thành viên, trong đó có 4 NHTM quốc doanh, 10 NHTM cổ phần, 5 chi nhánh ngân
hàng nước ngoài, 1 ngân hàng liên doanh, quỹ tín dụng Trung ương và một công ty tài
chính.
Quy mô và doanh số trong hoạt động của thị trường ngày càng tăng thể hiện sự
phát triển ổn định và bền vững của nghiệp vụ mới này, thể hiện cụ thể qua bảng số liệu

sau:
Đơn vị: triệu VNĐ
Chỉ tiêu
6 tháng cuối
năm 2000
Năm
2001
Năm
2002
102 phiên 2003 (đến
16/12/2003)
Tổng
cộng
Doanh số
hoạt động
1.903,5 3.933,8 9.145,53 16.740 31.722,83
NHNN mua 1.353,5 3.313,8 7245,53 9.500 21.412,83
NHNN bán 550 620 1.900 7.240 10.310
Số phiên
giao dịch
17 48 85 102 252
24
Đề án môn học GVHD: ThS.Võ Văn Vang
Nguồn: NHNNVN
Trong năm 2002 bằng cách tiếp tục duy trì 2 phương thức giao dịch mua có kỳ hạn
và bán hẳn, NHNN đã tổ chức được 85 phiên thị trường mở, với tổng khối lượng giao
dịch 9145,53 tỷ đồng, bằng 232,48% so với năm 2001. Thông qua đó NHNN cung ứng
thêm vốn cho nền kinh tế hoặc rút bớt tiền từ lưu thông về, tạo điều kiện cho các
NHTM tham gia có hiệu quả trên thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc. Cụ thể: thông
qua 57 phiên giao dịch theo phuơng thức mua có kỳ hạn NHNN đã cung ứng 7.254,53 tỷ

đồng vốn cho NHTM. Thông qua 28 phiên giao dịch theo phương thức bán hẳn thu về
1.900 tỷ đồng vốn. Lãi suất trúng thầu trên thị trường mở bình quân mua vào là
4,9%/năm và lãi suất trúng thầu bán ra là 4,7%/năm. Tạo điều kiện giảm lãi suất cho vay
của các NHTM đối với doanh nghiệp và khách hàng.
Trong năm 2003 bằng cách tiếp tục duy trì 2 phương thức giao dịch mua có kỳ hạn
và bán hẳn, tính đến ngày 16/12/2003 NHNN đã tổ chức được 102 phiên giao dịch thị
trường mở, với tổng khối lượng trúng thầu ước tính là 16.740 tỷ đồng cho các NHTM,
trong đó khối lượng giấy tờ có giá là 9.500 tỷ đồng, bán hẳn là 7.240 tỷ đồng. Tức là
thông qua thị trường này trong năm 2003 NHNN đã cung ứng gần 8.000 tỷ đồng cho các
NHTM tăng đáng kể so với năm 2001 và năm 2002...
Qua 4 năm hoạt đông từ năm 2000 đến năm 2003, thị trường mở vẫn tồn tại một số
hạn chế, đó là hầu như chỉ có NHTM Nhà nước tham gia, các NHTM cổ phần, chi
nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng liên doanh chưa có cơ hội tham gia hay tham
gia chưa có hiệu quả.
+ Lãi suất tái cấp vốn và chiết khấu
Chương trình cho vay tái cấp vốn được thực hiện đối với các NHTM quốc doanh.
NHNN Việt Nam đã kịp thời bổ sung vốn điều lệ và từng bước có giải pháp nhằm làm
lành mạnh hoá tình hình tài chính của NHTM trên cơ sở tiếp tục xử lý các khoản nợ quá
hạn, nợ đọng. NHNN cho vay tái cấp vốn NHTM quốc doanh với số tiền là 3350 tỷ
25

×