Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Tiểu Luận Nhật Bản trong giai đoạn 1952 - 1973

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.46 KB, 14 trang )

BỘ NGOẠI GIAO
HỌC VIỆN NGOẠI GIAO
**************************

TIỂU LUẬN
LỊCH SỬ KINH TẾ THẾ GIỚI

Đề tài :
NHẬT BẢN TRONG GIAI ĐOẠN 1952- 1973
Sinh viên thực hiện : Đỗ Thị Thảo
Lớp :
Khoa : Kinh tế quốc tế
:
Hà Nội 2010
Mục lục
Lời mở đầu
Chương I: Những đặc điểm của nền kinh tế Nhật Bản thời kỳ 1952- 1973
Chương II: Những nguyên nhân dẫn đến sự phát triển thần kỳ của nền kinh tế Nhật Bản
I. Nguyên nhân khách quan
A. Bối cảnh quốc tế thuận lợi
1. Môi trường quốc tế hòa bình tạo điều kiện cho thương mại phát triển
2. Các tiến bộ khoa học kỹ thuật tiên tiến
B. Được sự hỗ trợ thuận lợi của Mỹ
1. Tiết kiệm được chi phí quốc phòng do được Mỹ đảm bảo an ninh
2. Thu được nguồn ngoại tệ lớn từ các đơn đặt hàng đặc biệt của Mỹ
C. Thu hút được nhiều vốn đầu tư từ nước ngoài
II. Nguyên nhân chủ quan: “ Chiến lược đuổi kịp”
A. Phát huy vai trò nhân tố con người
1. Nhật Bản có nguồn lao động dồi dào
2. Phần lớn lao động ở Nhật Bản có trình độ giáo dục cao và được đào tạo về kỹ
năng lao động.


3. Giới lãnh đạo của Nhật Bản được cho là tài ba
B. Duy trì mức tích lũy cao thường xuyên, sử dụng vốn đầu tư có hiệu quả cao
1. Tích lũy vốn
2. Sử dụng vốn
C. Chiến lược phát triển khoa học công nghệ
D. Vai trò điều tiết kinh tế của Chính phủ thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô
1. Chính sách tài khóa
2. Chính sách tiền tệ
3. Chính sách ngoại thương và đầu tư ra nước ngoài
E. Kết hợp khéo léo cấu trúc kinh tế hai tầng
Chương III: Một số bài học rút ra
I. Những đặc điểm của Việt Nam
2
II. Những biện pháp khắc phục khó khăn
LỜI MỞ ĐẦU
Nhật Bản là nước rất nghèo nàn về tài nguyên ngoại trừ gỗ và hải sản, trong khi
dân số thì quá đông, phần lớn nguyên nhiên liệu phải nhập khẩu, kinh tế bị tàn phá kiệt
quệ trong chiến tranh, nhưng với các chính sách phù hợp, kinh tế Nhật Bản đã nhanh
chóng phục hồi (1945-1954) phát triển cao độ (1952-1973). Đặc biệt trong khoảng 20
năm sau chiến tranh (1952- 1973), nền kinh tế Nhật Bản phát triển với nhịp độ rất
nhanh chóng. Nhiều nhà kinh tế thế giới coi đây là giai đoạn phát triển “thần kỳ” của
nền kinh tế Nhật Bản. Từ một nước đứng dậy từ trong đống tro tàn của chiến tranh ,
Nhật Bản đã vươn lên để trở thành cường quốc kinh tế thứ hai trong thế giới tư bản.
Sự thành công của Nhật Bản không phải chỉ ở chỗ điều hòa thu nhập giữa khu
vực kinh tế nhà nước và khu vực kinh tế tự nhiên, mà còn ở khía cạnh điều hòa phúc
lợi xã hội, từ đó kích thích sản xuất và tạo ra tăng trưởng mới. Những thành quả tăng
trưởng kinh tế đã được “chia lại” tương đối đều cho các tầng lớp xã hội khiến cho
nhiều người dân nước này lại có thêm vốn đầu tư, và để phát triển giáo dục và đào tạo
tay nghề.
Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở Nhật Bản giai đoạn “thần kỳ” đã trở

thành mô hình nghiên cứu với nhiều nước đang phát triển.
Trong bài tiểu luận này em xin đưa ra một số nét dẫn đến sự phát triển thần kỳ
của kinh tế Nhật Bản và rút ra một vài bài học có thể sẽ có ích cho sự phát triển kinh tế
Việt Nam.
3
CHƯƠNG I
NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA NỀN KINH TẾ NHẬT BẢN
THỜI KỲ 1952 - 1973
Nhật Bản bị thất bại trong chiến tranh, kinh tế bị tàn phá nặng nề: 34% máy móc,
25% công trình xây dựng, 81% tàu biển bị phá hủy nước Nhật chìm trong tình trạng
khủng hoảng trầm trọng về nhiều mặt.
Tuy nhiên do những cố gắng tích lũy của toàn thể nhân dân Nhật Bản, được sự
phát triển của công ngiệp kích thích, các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế đều tăng
trưởng nhanh, nhờ vậy tổng sản quốc dân, chỉ tiêu tổng quát cho mức hoạt động của
nền kinh tế đã tăng mạnh.
Từ năm 1952 đến 1958, GDP đã tăng với tốc độ 6,9% bình quân hàng năm. Năm
1959, khi tốc độ tăng trưởng vượt 10%, thế giới bắt đầu ngạc nhiên về sự phát triển
của Nhật Bản và gọi đó là “sự thần kỳ về kinh tế”.
Tốc độ cao này được duy trì suốt từ những năm 1960, GDP tăng xấp xỉ 10%.
Sang những năm 1970 – 1973 tốc độ tăng trưởng có hơi giảm xuống còn 7,8% nhưng
vẫn cao hơn tiêu chuẩn quốc tế về giá trị tuyệt đối.
Năm 1950, GDP của Nhật Bản mới đạt 20 tỷ USD bằng 1/17 GDP của Mỹ, nhỏ
hơn GDP của bất kỳ một nước phương Tây nào. Nhưng năm 1973 GDP đạt khoảng
402 tỷ USD, tuy vẫn còn nhỏ so với Mỹ song sự chênh lệch giữa Mỹ và Nhật đã thu
hẹp lại còn 3/1 và trở thành cường quốc kinh tế thứ 2 trong thế giới tư bản sau Mỹ.
Biểu đồ: so sánh về mức tăng tổng sản phẩm quốc dân thực tế giữa các nước
tư bản phát triển (%)
4
Nguồn: Tại sao Nhật Bản thành công. NXB Khoa học Xã hội, 1991
Nhân tố hàng đầu trong tăng trưởng kinh tế của thời kỳ này là sự phát triển nhanh

chóng các ngành công nghiệp chế tạo. Tốc độ phát triển công nghiệp trung bình giai
đoạn 1960 – 1969 là 13,5%, giá trị tổng sản lượng công nghiệp tăng 14 lần từ năm
1950 đến năm 1969: từ 4,1 tỷ USD lên 56,4 USD. Trong đó các ngành công nghiệp
nặng và hóa chất chiếm tới 57% trong tổng sản lượng của công nghiệp chế tạo (năm
1970), cao hơn phần tương ứng ở Tây Đức hoặc ở Mỹ. Năm 1969 Nhật Bản trở thành
nước dẫn đầu trong các nước tư bản về số lượng tàu biển, xe máy, máy khâu, máy ảnh,
tivi và đứng thứ hai về sản lượng thép, ô tô, xi măng, hóa chất, hàng dệt
Nông nghiệp cũng tăng trưởng nhan, năm 1969 tổng giá trị sản lượng nông
nghiệp là 9 tỷ USD. Tuy nhiên số lao động trong ngành nông nghiệp đã giảm mạnh từ
14,5 triệu năm 1960 xuống 8,9 triệu năm 1969.
Qúa trình tăng trưởng này không phải là sự nhẹ nhàng, không gấp khúc. Trong
thời gian này, nền kinh tế Nhật Bản đã trải qua những thăng trầm khá rõ rệt, chia ra
thành những chu kỳ dài khoảng hơn 3 năm đôi khi 2 năm hoặc 5 năm. Những sự lên
xuống này diễn biến có hệ thống. Tính từ năm 1951 đến năm 1973 có tất cả 7 thời kỳ
phồn thịnh và 8 lần suy thoái. Những lần suy thoái chu kỳ này chỉ biểu hiện ở tốc độ
tăng trưởng chậm lại chứ không phải là giảm sút tuyệt đối. Những nhà kinh tế phân
tích theo quan điểm chu kỳ công nghiệp của Các Mác cho rằng chu kỳ tái sản xuất tư
bản ngắn lại rất tiêu biểu ở Nhật Bản gắn chặt với sự rút ngắn chu kỳ đổi mới kinh tế
nhờ tiến bộ khoa học kỹ thuật sau chiến tranh. Còn một số nhà kinh tế Nhật Bản gọi
đây là “chu kỳ hàng hóa tồn kho”. Việc tái diễn chu kỳ hàng tồn kho gắn với những
thiếu hụt trong cán cân ngân sách quốc tế. Thời kỳ phồn thịnh: sản xuất mở rộng, tiêu
dùng sản xuất và cá nhân đều tăng đã làm tăng nhập khẩu, do vậy cán cân thanh toán
bị thiếu hụt. Khi xuất hiện sự tăng hàng tồn kho và giảm dự trữ ngoại tệ, chính phủ
thực hiện chính sách thắt chặt tài chính tiền tệ. Khi hàng tồn kho giảm do giảm đầu tư,
cán cân thanh toán quốc tế trở lại thuận lợi do giảm nhập khẩu và khi đó chính phủ lại
nới lỏng chính sách tài chính, tiền tệ, chu kỳ tồn kho mới lại bắt đầu. Việc thắt chặt
tiền tệ được áp dụng vào đỉnh điểm của các thời kỳ phồn thịnh năm 1954, 1957 –
1958, 1961-1962, 1964 - 1967, 1969 – 1970, và 1973. Chính sách hạn chế tiền tệ của
Nhật tỏ ra tác dụng nhanh với hiệu quả cao.
5

CHƯƠNG II
NHỮNG NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN
THẦN KỲ CỦA NỀN KINH TẾ NHẬT BẢN NHỮNG NĂM
1952 – 1973.
I, Nguyên nhân khách quan:
A _ Bối cảnh quốc tế thuận lợi:
1. Môi trường quốc tế hòa bình, tạo điều kiện cho thương mại phát triển.
Sau chiến tranh thế giới thứ II trên thế giới đã nổ ra những cuộc chiến tranh khu
vực, cục bộ, nhưng không có những cuộc chiến tranh lớn trên quy mô toàn thế giới.
Trong khuôn khổ IMF và GATT, thể chế mậu dịch tư do được duy trì là điều may mắn
đối với Nhật Bản. Thương mại được tự do hoạy động nên Nhật Bản có thể khắc phục
được khó khăn không có tài nguyên của nước mình. Nhật Bản có thể mua than đá, dầu
hỏa và các nguyên liệu dưới dạng quặng từ những khu vực có giá rẻ nhất trên thế giới
nên có lợi thế cạnh tranh quốc tế hơn Anh và Đức, phải dùng than trong nước có giá
thành cao.
2. Các tiến bộ khoa học kỹ thuật tiên tiến nhanh chóng được đưa vào Nhật Bản.
Nguồn gốc của cuộc cách mạng kỹ thuật là nước Mỹ. Các công nghệ tiên tiến
nhanh chóng được đưa vào Nhật Bản. Những mặt hàng lần đầu xuất hiện ở Nhật Bản
như nilon, sợi polieste, nguyên tử năng, vô tuyến truyền hình, máy tính, có những mặt
hàng xưa cũng đã sản xuất. Nhưng nay nhờ có kỹ thật mới mà phương pháp sản xuất
biến đổi hẳn. Nhật Bản đã du nhập phương thức sắt thép liên hoàn, lò quay, phương
pháp phân giải dầu mỏ, đóng tàu theo khối lớn, phương thức sản xuất xe hơi hàng
loạt Nhờ những kỹ thuật tiên tiến này mà tốc độ tiến bộ kỹ thuật ở Nhật Bản cũng
nhanh đến mức chưa từng có trong lịch sử Nhật Bản.
Năm lĩnh vực lớn của cách mạng kỹ thuật:
1. lượng Lĩnh vực điện tử, sự phát triển này gắn liền với sự phát triển của kỹ
thuật sản xuất, máy móc và phương tiện thông tin.
2. Lĩnh vực vật liệu: tạo những vật liệu mới
3. Lĩnh vực thông tin
4. Lĩnh vực sinh học: người ta có thể tạo ra dược phẩm và loại thực vật mới

bằng phương pháp cấy ghép gen di truyền.
6
5. Lĩnh vực năng lượng mới: sử dụng năng mặt trời.
B _ Được sự hỗ trợ rất thuận lợi của Mỹ:
Sau khi chiến tranh lạnh giữa Liên Xô và Mỹ nổ ra. Mỹ đã thay đổi kế hoạch ban
đầu phi quân sự hóa Nhật Bản sang xây dựng nước Nhật Bản tự lập.
1. Tiết kiệm được chi phí quốc phòng do được Mỹ đảm bảo về an ninh.
Năm 1946 Nhật tuyên bố từ bỏ chiến tranh. Việc từ bỏ chiến tranh đã hạn chế
đên mức thấp nhất cho chi tiêu phòng thủ của Nhật, sử dụng quốc lực vào mục đích
phát triển kinh tế. Tỷ lệ chi cho ngân sách phòng thủ trong tổng sản phẩm quốc dân từ
3,3 % năm 1950 xuống còn 1% năm 1960.
2. Thu được nguồn ngoại tệ lớn từ các đơn đặt hàng đặc biệt của Mỹ ttrong hai
cuộc chiến tranh Triều Tiên năm 1950 và chiến tranh với Việt Nam năm 1965 – 1968.
Trong các cuộc chiến tranh ở CHDCND Triều Tiên vầ Việt Nam, chính phủ Mỹ
đã có hàng loạt đơn đặt hàng với các công ty của Nhật Bản về vũ khí, khí tài và các đồ
quân dụng khác. Trong khoảng thời gian từ năm 1950 đến 1969, Nhật Bản đã thu được
10,2 tỷ USD do đơn đặt hàng của Mỹ. Có thể nói nhu cầu về hàng hóa của Mỹ cho các
cuộc chiến tranh ở CHDCND Triều Tiên và Việt Nam là “hai ngọn gió thần” đối với
nền kinh tế Nhật Bản, giúp Nhật cân bằng được cán cân thanh toán quốc tế và thoát ra
khỏi tình trạng khó khăn sau chiến tranh.
C _ Thu hút được rất nhiều vốn đầu tư từ nước ngoài
Có thể khẳng định Nhật Bản đã rất thành công trong việc huy động nguồn vốn
nội bộ. Tuy nhiên nguồn vốn từ bên ngoài cũng đóng vai trò khá quan trọng đối với
nền kinh tế Nhật. Trong thời kỳ từ 1944 đến 1955, số vốn của bên ngoài vào Nhật Bản
là 230 triệu USD và đã tăng rất nhanh trong thời kỳ 1956 – 1973 với 24 tỷ USD, trong
đó vay trực tiếp và tiếp nhận đầu tư cổ phiếu nước ngoài chiếm 8,9%. Trong các
nguồn tín dụng của nước ngoài, tín dụng Mỹ giữ vai trọng thông qua các tổ chức ngân
hàng Xuất – nhập khẩu Mỹ, ngân hàng phát triển Quốc tế, Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF)
II, NGUYÊN NHÂN CHỦ QUAN: “CHIẾN LƯỢC ĐUỔI KỊP” (CATCH
UP)

A _ Phát huy vai trò nhân tố con người
Người Nhật Bản từ xa xưa đã có tính cần cù, tận tâm, tiết kiệm, kỷ luật cao, kiên
trì, lòng trung thành,tính phục tùng, nền tảng giáo dục tốt, có khả năng cải tiến nhanh
7
những phát minh kỹ thuật của thế giới. Trong giai đoạn hiện đại những đức tính đó vẫn
được đề cao.
1. Nhật Bản có một nguồn lao động dồi dào.
Sau chiến tranh một lực lượng lớn người rút ra từ các thuộc địa cửa Nhật Bản về
giải ngũ, rút ra từ quân đội. Nguồn cung cấp lao động lúc đó là quá thừa và họ sẵn
sàng làm việc với đồng lương rẻ mạt . Theo quan điểm của Các Mác thì lao động tạo
ra giá trị thặng dư và có khả năng tích lũy tư bản.
2. Phần lớn lao động ở Nhật Bản có trình độ giáo dục cao và được đào tạo về kỹ
năng lao động
Chế độ giáo dục ở Nhật Bản khá phát triển và hoàn thiện. Kế thừa nền giáo dục ở
thời kỳ trước, từ chiến tranh thế giới thứ II, Nhật Bản đã phổ cập giáo dục hệ 9 năm.
Trên cơ sở trình độ văn hóa chung khá cao đó, người Nhật Bản rất chú trọng đào tạo
đội ngũ công nhân lành nghề, có đủ khả năng nắm bắt và sử dụng những kỹ thuật,
công nghệ mới. Công nhân dược đào tạo không chỉ ở các trường dạy nghề mà có thể
đào tạo ngay tại các xí nghiệp.
Đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật của Nhật Bản khá đông đảo và có chất lượng
cao đã góp phần đắc lực vào bước phát triển nhảy vọt về kỹ thuật và công nghệ của đất
nước.
3. Giới lãnh đạo của Nhật bản được cho là tài ba
Giới quản lí và kinh doanh của Nhật Bản được đánh giá là những người sắc xảo,
nhạy bén trong việc nắm bắt thị trường, đổi mới phương pháp kinh doanh, đã đem lại
thắng lợi cho các công ty Nhật Bản trên trường quốc tế.
Giới quản lí của Nhật Bản đặc biệt thành công trong việc củng cố kỷ luật lao
động, lợi dụng và khai thác triệt để bản chất tận tụy và trung thành của người lao động
Nhật Bản. Các công ty của Nhật Bản thường được bao trùm bởi một bầu không khí
thấm đậm tính “gia tộc”, “gia đình”. Không ít nhà nghiên cứu cho rằng sự thành công

của kinh tế Nhật Bản là kết quả của sự kết hợp khéo léo giữa “công nghệ phương
Tây” và “tính cách Nhật Bản”.
B_Duy trì mức tích lũy cao thường xuyên, sử dụng vốn đầu tư có hiệu quả
cao
1. Tích lũy vốn
8
Nhật Bản thời gian này được coi là một nước có tỷ lệ tích lũy vốn cao nhất trong
các nước tư bản phát triển. Tỷ lệ tích lũy vốn thường xuyên của thời kỳ 1952 – 1973
vào khoảng từ 30 đến 35% thu nhập quốc dân,gấp hơn hai lần so với Mỹ, Anh.
Những giải pháp duy trì mức tích lũy của Nhật:
• Tận dụng triệt để nguồn lao động trong nước, áp dụng chế độ tiền lương
thấp
Tiền lương công nhân Nhật Bản những năm 50, 60 rất thấp so với các
nước tư bản phát triển, chỉ bằng 1/3 lương công nhân Anh và 1/7 lương
công nhân Mỹ.
• Để tạo vốn cho phát triển kinh tế, Nhật Bản đã chú khai thác sử dụng tốt
nguồn tiết kiệm cá nhân. Từ năm 1961 – 1967, tỷ lệ tiết kiệm trong thhu
nhập quốc dân là 18,6%, cao gấp hơn hai lần của Mỹ (6,2%) và Anh
(7,7%). Năm 1968 – 1969, tổng số tiền tiết kiệm lên tới 157,5 tỷ USD.
Tính trung bình mỗi người dân Nhật Bản có số tiền tiết kiệm là 1550
USD.
Ngoài ra, mức tích lũy cao ở Nhật Bản còn là kết quả của việc giảm chi phí quân
sự xuông mức 1% tổng sản phẩm quốc dân.
Nguồn vốn từ bên ngoài cũng đóng vai trò quan trọng đối với nền kinh tế Nhật,
nhất là nguồn viện trợ phát triển chính thức (ODA) chủ yếu được dành cho việc cải
tạo, hiện đại hóa cơ sở hạ tầng và phát triển công nghiệp nặng. Thời kỳ sau chiến tranh
Nhật Bản không phụ thuộc nhiều vào nguồn vốn bên ngoài. Chính phủ giao cho bộ tài
chính quản lí và kiểm soát rất chặt chẽ việc sử dụng các nguồn vốn đó. Đầu te trực tiếp
chỉ được khuyến khích cho mục tiêu tìm kiếm công nghệ và bí quyết sản xuất.
2. Sử dụng vốn

Nhật bản được coi là một nước sử dụng vốn một cách táo bạo và hiệu quả
Ở Nhật Bản nhiều ngân hàng thương mại chấp nhận cho vay tới 95% tổng số
vốn. Biện pháp mạo hiểm này đã tạo điều kiện tăng nhanh số vốn chuyển vào sản xuất
kinh doanh.
Trong sử dụng vốn, Nhật bản trước hết tập trung vào những ngành sản xuất lớn,
hiện đại và có hiệu quả cao. Quá trình tích tụ và tập trung sản xuất diễn ra rất nhanh
chóng, đạt trình độ và quy mô quốc tế. Năm 1969, ở Nhật đã có hơn 10 công ty độc
9
quyền với doanh số trên 1 tỷ USD, một số công ty như Mitsubisi, Mitsui có doanh số
khoảng 10 tỷ USD.
Về đầu tư trong nước, phần lớn số vốn được tập trung vào các ngành then chốt
như luyện kim, đóng tàu, chế tạo máy, hóa chất, điện tử và vi điện tử Vốn đầu tư
cũng được tập trung vào đổi mới thiết bị sản suất. Sau 20 năm Nhật bản hầu như đã
đổi mới toàn bộ tư bản cố định. Trong một số ngành như chế tạo máy, luyện kim, đóng
tàu trình độ trang bị kỹ thuật đã vào loại nhất trên thế giới.
Một số công ty Nhật Bản thời kỳ này đã chú tới đầu tư nước ngoài. Ở giai đoạn
thập kỷ 50 và nửa đầu thập kỷ 60, Nhật Bản chủ yếu đầu tư ở khu vực đông Nam Á.
Từ nửa cuối thập kỷ 60, Nhật Bản đã chú nhiều hơn vào khai thác đầu tư.
C _ Chiến lược phát triển khoa học công nghệ
Khi chiến tranh thế giới thứ II kết thúc, Nhật là một nước tụt hậu so với các nước
tư bản khác. Nhưng cũng ngay trong những năm tháng khó khăn đó, Nhật Bản đã dành
một số vốn lớn cho việc nghiên cứu phát triển khoa học kỹ thuật.
Chi phí nghiên cứu phát triển năm 1955 còn ở mức 0,84% thu nhập quốc dân đã
tăng lên nhanh chóng đặt gần 1,96% thu nhập quốc dân vào năm 1970.
Nhật Bản đã chú trọng ứng dụng thành tựu khoa học – kỹ thuật mới của Âu – Mỹ
bằng cách nhập khẩu công nghệ, kỹ thuật, mua các phát minh sáng chế. Từ năm 1950
đến 1971 tổng số vụ nhập khẩu kỹ thuật của Nhật là 15289 vụ, gần 70% là của Mỹ,
hơn 10% của Tây Đức. Nhờ đó đã cải tạo căn bản tài sản cố định và góp phần nâng
cao năng suất lao động xã hội. Tốc độ tăng năng suất lao động trung bình hàng năm
của Nhật Bản thời kỳ 1955 – 1965 là 9,4%. Tính đến năm 1968, tổng giá trị những

phát minh mà Nhật mua của nước ngoài vào khoảng 6 tỷ USD.
Bằng cách đi khôn ngoan, chỉ hơn 20 năm sau chiến tranh, nền khoa học – kỹ
thuật của Nhật Bản có bước phát triển nhảy vọt. Đến đàu những năm 1970, Nhật Bản
đã đạt trình độ cao về tự động hóa, trình độ sử dụng máy vi tính trong một số ngành
sản xuất
D _ Vai trò điều tiết kinh tế của chính phủ thông qua các chính sách kinh tế
vĩ mô
Ngay sau khi chiến tranh thế giới thứ II kết thúc, chính phủ Nhật Bản đã thực
hiện hàng loạt biện pháp để đẩy mạnh tự do hóa nền kinh tế, kích thích kinh tế phát
triển theo cơ chế thị trường kết hợp với sự điều tiết của nhà nước thông qua các chính
10
sách kinh tế vĩ mô. Nhà nước đã tạo ra môi trường kinh tế thuận lợi cho tăng trưởng
bằng hệ thống pháp luật và khả năng duy trì trật tự xã hội bằng pháp luật và sự đầu tư
trực tiếp vào kinh tế.
Từ năm 1955 đến 1873, Nhà nước đã thông qua 7 kế hoạch, đa số là kế hoạch 5
năm, nhưng thời gian thực hiện trung bình là hai năm rưỡi vì các dự kiến kế hoạnh
ban đầu đều thấp hơn mức tăng trưởng thực tế. Kế hoạch đầu tiên là kế hoạch 5 năm
xây dựng nền kinh tế tự lập được soạn thảo dưới thời nội các Hatoyama vào năm 1955.
Kế hoạch quan trọng nhất là kế hoạch tăng gấp đôi thu nhập quốc dân được nội các
Ikeda đề ra. Bộ công nghiệp và thương mại quốc tế (MITI) và Ngân hàng Nhật Bản
(BJO) có vị trí quan trọng trong việc phát huy vai trò của chính phủ đối với phát triển
kinh tế. Tông qua các hệ thống này, các chính sách về tài chính, tiền tệ, đối ngoại
của Nhà nước được thực thi có hiệu quả.
1. Chính sách tài khóa:
Vai trò nổi bật của Nhà nước thời kỳ này là cải cách hệ thống thuế để thúc đẩy
tích lũy vốn, thúc đẩy nhập khẩu kỹ thuật mới và khuyến khích xuất khẩu. Để khuyến
khích tích lũy cá nhân, Chính phủ đã không đánh thuế thu nhập có tính thuế lũy tiến
cao như ở một số nước. Thuế công ty ở mức thấp, các loại trực thu tăng nhưng thuế
gián thu lại giảm. Do vậy thuế trong thu nhập quốc dân ở Nhật Bản thời kỳ này nhìn
chung thấp hơn các nước tư bản khác.

Đầu tư của Nhà nước thường tập trung vào cơ cấu hạ tầng, xây dựng các ngành
công nghiệp mới và nghiên cứu khoa học.
2. Chính sách tiền tệ:
Chính phủ tạo điều kiện và đứng ra bảo lãnh cho tư nhân vay vốn với lãi suất
thấp. Nhiều ngân hàng thương mại cho vay tới hơn 90% tổng số tiền gửi.
3. Chính sách ngoại thương và đầu tư ra nước ngoài:
Nhật Bản là một nước nghèo tài nguyên thiên nhiên, nên Nhật Bản phải phụ
thuộc vào thị trường cung cấp vật tư, nguyên liệu, năng lượng và thị trường tiêu thụ
hàng hóa, do đó thị trường nước ngoài được coi là điều kiện sống còn của nền kinh tế
Nhật Bản.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật Bản dùng mọi cách để xâm nhập vào thị
trường thế giới như tăng khả năng cạnh tranh hàng hóa nhờ giảm chi phí sản xuất và
chú trọng chất lượng sản phẩm, xây dựng đội ngũ thương nhân có năng lực
11
Đối với các nước đang phát triển, Nhật Bản dùng cách lôi kéo về chính trị với
thâm nhập kinh tế, viện trợ, tăng cường quan hệ mậu dịch thương mại được sử dụng
một cách rộng rãi. Từ những năm 70, Nhật Bản đã dẫn đầu các nước tư bản về đầu tư
và quan hệ mậu dịch với nhiều nước và lãnh thổ Đông và Nam Á.
Năm 1965 trở đi, Nhật Bản thường xuyên là nước xuất siêu trong quan hệ thương
mại với thế giới bên ngoài.
Một trong những nhân tố có tác động mạnh mẽ đến phát triển kinh tế Nhật Bản
thời kỳ này như xu thế hội nhập quốc tế, hợp tác và nhất thể hóa kinh tế tư bản chủ
nghĩa, xu thế hòa hoãn và hợp tác của các công ty độc quyền quốc tế Năm 1955 Nhật
Bản ra nhập GATT, tháng 4/1964 trở thành thành viên của IMF và OECD.
E _ Kết hợp khéo léo cấu trúc kinh tế hai tầng
Cấu trúc kinh tế hai tầng là đặc điểm nổi bật của Nhật Bản thời kỳ sau chiến
tranh thế giới thứ hai. Đó là sự liên kết, hỗ trợ lẫn nhau giữa khu vực kinh tế hiện đại
và khu vực truyền thống. Khu vực kinh tế hiện đại bao gồm các công ty lớn với kỹ
thuật công nhệ tiên tiến, lượng đầu tư lớn, sử dụng lao động suốt đời, tiền lương cao
theo thâm niên, điều kiện làm việc tốt. Khu vực nhỏ là những doanh nghiệp nhỏ, kỹ

thuật lạc hậu, lao động hợp đồng theo thời vụ, vốn ít, tiền lương và điều kiện làm việc
không hiệu quả. Các doanh nghiệp này thường là cơ sở ra công phụ tùng máy móc
hoặc nhận thầu cho các công ty lớn, đồng thời nhận sự giúp đỡ về vốn, kỹ thuật công
nghệ từ các công ty lớn. Nhờ có cấu trúc kinh tế này mà nguồn lao động dư thừa và
công nghệ lạc hậu thời kỳ sau chiến tranh được sử dụng hợp l và có hiệu quả.
12
CHƯƠNG III
MỘT SỐ BÀI HỌC RÚT RA
I, Những đặc điểm của Việt Nam
Tiềm năng chủ yếu của Việt Nam là nguồn lao động trẻ, dồi dào và giá nhân
công trẻ.Việt Nam có đông dân số nên là một thị trường tiêu thụ hành hóa khá lớn.
Tuy nhiên, Việt Nam có nhiều khó khăn trong việc pháy triển kinh tế. Tài nguyên
thiên nhiên khá đa dạng nhưng trữ lượng lại quá ít nên không đủ để xây dựng cơ cấu
nông nghiệp đồng bộ, thậm chí không đủ để phát triển một ngành công nghiệp khai
thác đóng vai trò chủ đạo.
Thêm vào đó, Việt Nam đã trải qua một thời kỳ dài là nước thuộc địa. Trình độ
phát triển thấp, nghèo nàn lạc hậu là phổ biến, bị chiến tranh khốc liệt tàn phá nặng nề.
Nền kinh tế Việt Nam mang tính chất nông nghiệp là chủ yếu, lại ở trình độ thô
sơ về phương tiện sản xuất, dân số đông song diện tích đất canh tác trên đầu người lại
quá nhỏ Trong khi đó các ngành công nghiệp địa phương chỉ thỏa mãn nhu cầu nội
địa nên ít có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới
II, Những biện pháp khắc phục khó khăn:
- Mở cửa hội nhập quốc tế, tranh thủ điều kiện thuận lợi của quốc tế để phát
triển đất nước thông qua các chính sách thương mại và đầu tư.
- Xóa bỏ cơ chế kinh tế tập trung, chống độc quyền trong kinh doanh.
- Thực hiện giao đất cho nông dân trực tiếp canh tác, kích thích sản xuất,
đầu tư, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật trong nông nghiệp để nâng
cao hiệu quả sản xuất.
- Tập trung phát triển công nghiệp. Đầu tư lớn vào các ngành công nghiệp
nặng và các ngành sử dụng cường độ lao động cao.

- Xây dựng mô hình quản lí xí nghiệp tương đối hoàn chỉnh, hiện đại, chi
phí ít, năng suất lao động cao, chất lượng tốt để tăng sức cạnh tranh hàng
hóa của Việt Nam trên thị trường quốc tế.
- Chính sách của Việt Nam vừa hướng về xuất khẩu, vừa thay thế nhập
khẩu nhằm khai thác lợi thế so sánh.
- Nhanh chóng hoàn thành thời kỳ tự do thương mại và đầu tư.
- Tạo ra nhiều việc làm cho người lao động.
- Đổi mới và đơn giản hóa các thủ tục đầu tư.
13
- Giảm thuế thu nhập, giảm hoặc bỏ thuế nhập khẩu nguyên vật liệu và thiết
bị chuyên dùng dành cho sản xuất và xuất khẩu.
- Mở rộng thị trường vốn thông qua các hình thức huy động vốn như liên
doanh, liên kết phát triển thị trường vốn vay ngắn hạn, xúc tiến việc
thành lập và phát triển thị trường vốn trung và dài hạn.
14

×