Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Phân tích khái niệm cán bộ, công chức theo Luật cán bộ, công chức và chỉ ra những điểm mới so với khái niệm cán bộ, công chức theo Pháp lệnh cán bộ, công chức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (238.93 KB, 9 trang )

Đề 5
Phân tích khái niệm cán bộ, công chức theo Luật cán bộ, công chức và chỉ ra
những điểm mới so với khái niệm cán bộ, công chức theo Pháp lệnh cán bộ, công
chức.
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
I. Khái quát quá trình phát triển pháp luật về cán bộ công chức
II. Khái niệm cán bộ công chức theo Luật Cán bộ công chức năm 2008
III. Những những điểm mới so với khái niệm cán bộ, công chức theo Pháp lệnh
cán bộ, công chức.
1. Sơ lược về khái niệm cán bộ, công chức theo Pháp lệnh cán bộ công
chức.
2. Những điểm mới.
1
LỜI NÓI ĐẦU
Theo PGS.TS Nguyễn Trọng Điều, Thứ trưởng Bộ Nội Vụ thì: “Hiện nay,
chúng ta có khoảng 1.600.000 cán bộ, công chức, viên chức (không kể lực lượng
vũ trang), trong đó có khoảng 200.000 người làm việc trong các cơ quan hành
chính nhà nước; 83.000 người thuộc cơ quan Đảng, đoàn thể; chiếm khoảng 2%
dân số cả nước…”. Có thể thấy được rằng trong toàn bộ hệ thống chính trị của
nước ta thì số lượng cán bộ, công chức và viên chức là vô cùng lớn.
Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập đòi hỏi gay gắt
sự đổi mới nền hành chính nhà nước để kịp thích nghi và đồng điệu với xu thế
quốc tế hóa. Trong ba nội dung cơ bản của sự đổi mới (gồm: các định chế pháp lý,
cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước và vấn đề con người (tức đội ngũ cán bộ, công
chức) thì vấn đề thứ ba trở nên cấp thiết và mang tính quyết định. Việc có cái nhìn
chính xác thế nào là cán bộ, thế nào là công chức thực sự có ý nghĩa quan trọng.
I. Khái quát quá trình phát triển về pháp luật cán bộ, công chức
Ngay từ ngày đầu thành lập nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng, Nhà nước ta
đã quan tâm sâu sắc đến hoạt động công vụ và đội ngũ cán bộ, công chức. Trải qua
nhiều thời kỳ khác nhau, đội ngũ cán bộ, công chức đã từng bước trưởng thành,


công tác quản lý đã dần đi vào nền nếp, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc.
Văn bản đầu tiên quy định chế độ công chức là Sắc lệnh số 76/SL được Chủ
tịch Hồ Chí Minh kí ngày 20/05/1950. Theo sắc lệnh này thì phạm vi công chức rất
hẹp, chỉ là những người được tuyển dụng giữ một chức vụ thường xuyên trong các
cơ quan Chính phủ, không bao gồm người làm trong các cơ quan, đơn vị sự
nghiệp, các cơ quan Tòa án, Viện kiểm sát,…
2
Sau đó một thời gian dài (từ đầu thập kỷ 60 đến đầu thập kỉ 80 thế ký XX), ở
nước ta gần như “không tồn tại khái niệm công chức” mà thay vào đó là khái niệm
“cán bộ, công nhân viên chức nhà nước” chung chung, không phân biệt công chức,
viên chức. Chuyển sang thời kỳ đổi mới (năm 1986), trước yêu cầu khách quan cần
cải cách nền hành chính và đòi hỏi phải chuẩn hoá đội ngũ cán bộ, công chức nhà
nước, khái niệm công chức được sử dụng trở lại trong Nghị định 169/HĐBT ngày
25/5/1991.
Do những hạn chế của Nghị định 1991, ngày 26/02/1998 Ủy ban thường vụ
Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh cán bộ, công chức đánh dấu một bước phát
triển mới trong quá trình xây dựng pháp luật về cán bộ, công chức. Pháp lệnh
được sửa đổi, bổ sung vào năm 2003.
Tuy vậy, trước đòi hỏi của thực tiễn khách quan vốn không ngừng vận động,
phát triển, ngày 13/11/2008, kỳ họp thứ 4 Quốc hội khoá XII thông qua Luật Cán
bộ, công chức (CBCC) thay thế cho Pháp lệnh CBCC. Do vậy, Luật Cán bộ, công
chức vừa có kế thừa những nội dung của Pháp lệnh CBCC vừa bổ sung những
điểm mới phù hợp với thực tế. Luật CBCC 2008 gồm 10 Chương, 87 Điều, có hiệu
lực thi hành từ ngày 01/01/2010.
II. Khái niệm cán bộ công chức theo Luật Cán bộ công chức năm 2008
Luật cán bộ, công chức 2008 là một văn bản có giá trị pháp lý cao nhất từ trước
đến nay (luật) và cắt nghĩa được rõ ràng hơn về các khái niệm cán bộ, công chức.
Tại Điều 4 về Cán bộ, công chức đã nêu rất cụ thể như sau:
Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ,

chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước,
tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
(sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau
3
đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà
nước. Cán bộ xã, phường, thị trấn là công dân Việt Nam, được bầu cử giữ chức
vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư,
Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội;
Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức
vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức
chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện;…;, trong biên chế và hưởng
lương từ ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý
của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị
sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật. Công chức cấp xã là công dân
Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy
ban nhân dân cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Trước hết, có thể thấy rằng Luật CBCC 2008 đã chỉ ra rõ ràng như thế nào thì
là “cán bộ”, là “công chức” và thế nào là “cán bộ xa, phường, thị trấn”, “công
chức cấp xã”. Đây là một ưu điểm quan trọng của Luật CBCC, bởi thực tế cũng
cho thấy rõ ràng địa vị pháp lý của những người này có sự khác biệt nhất định.
Một người để có thể trở thành cán bộ, công chức ở bất kỳ cơ quan nào trong
toàn bộ hệ thống cơ quan nhà nước dù là trung ương hay địa phương thì trước hết
người đó phải là công dân Việt Nam. Theo quy định tại Điều 49 Hiến pháp 1992
thì công dân Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam. Việc xác định thế nào là
người có quốc tịch Việt Nam là căn cứ vào quy định của Luật Quốc tịch hiện
hành, cụ thể là theo quy định tại Điều 13, Điều 14 của Luật Quốc tịch 2008.
Đối với khái niệm về cán bộ có thể thấy một điểm chung nhất là làm việc theo
nhiệm kỳ. Làm việc theo nhiệm kỳ tức là làm việc trong một khoảng thời gian nhất
định, nhiệm kỳ đối với mỗi vị trí công tác là không giống nhau và đều đã được
4

pháp luật quy định rất cụ thể. Như tại Điều 40 Luật tổ chức Quốc hội đã nêu rõ
“Nhiệm kỳ của đại biểu mỗi khóa Quốc hội bắt đầu từ kỳ họp thứ nhất của khóa
Quốc hội đó đến kỳ họp thứ nhất của khóa Quốc hội sau”. Hay nhiệm kỳ của Thủ
tướng theo nhiệm kỳ của Quốc hội tức là 4 năm (Điều 4 Luật tổ chức Chính phủ).
Còn đối với công chức thì không đặt ra vấn đề nhiệm kỳ làm việc, điều này có
nghĩa là thông thường họ làm việc cho đến khi về hưu (nam 60 tuổi, nữ 55 tuổi).
Thứ hai là về cách thức hình thành: của cán bộ là bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm
giữ chức vụ, chức danh; còn đối với công chức thì là được tuyển dụng, bổ nhiệm
vào ngạch, chức vụ, chức danh – nghĩa là do thi tuyển, bổ nhiệm, có quyết định
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Riêng đối với cán bộ ở cấp địa phương (tức
là ở xã, phường, thị trấn) thì chỉ là do bầu cử mà được giữ chức vụ. Tương tự với
công chức cấp xã cũng chỉ theo một hình thức là tuyển dụng để giữ một chức danh
chuyên môn, nghiệp vụ và thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã.
Nơi làm việc của cán bộ là trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà
nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện. Còn cán bộ cấp
xã là trong Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư
Đảng ủy, và còn là người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội (CT- XH). Các tổ
chức chính trị - xã hội ở nước ta gồm có: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Công Đoàn,
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội
nông dân Việt Nam và Hội cựu chiến binh Việt Nam.
Còn công chức thì làm việc trong các cơ quan hành chính nhà nước ở cấp tỉnh,
cấp huyện; Trong các cơ quan, đơn vị Quân đội nhân dân (mà không phải là sĩ
quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp như chuyên viên vi tính, kế toán...);
Trong các cơ quan, đơn vị công an nhân dân (mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan
chuyên nghiệp); Trong các cơ quan Đảng; Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng
Quốc hội, Kiểm toán Nhà nước; Trong các bộ và cơ quan ngang bộ; Tòa án nhân
dân (TAND) các cấp (Phó chánh án TAND tối cao; chánh án, phó chánh án các tòa
5

×