Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

“Một số giải pháp giúp giáo viên chủ nhiệm giáo dục học sinh cá biệt tại trường THPT An Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.29 KB, 17 trang )

gười viết: Nguyễn Văn Hùng
Chức vụ: Phó Hiệu trưởng
A. MỞ ĐẦU
I. Bối cảnh chung
Trong tất cả các lĩnh vực, nhân tố con người sẽ quyết định cho mọi sự thành công hay
thất bại. Trong xu thế hội nhập quốc tế, giao lưu văn hóa ngày nay mỗi con người chúng
ta cần ra sức phấn đấu học tập để trở thành chủ nhân tương lai của đất nước như Đảng ta
đã xác định con người là tài sản quý giá và quan trọng nhất, là nguồn lực lớn và cần thiết
đối với quốc gia dân tộc. Trên cơ sở đó ngành giáo dục – đào tạo đóng vai trò then chốt
trong mọi hoạt động và người thầy đóng vai trò quyết định cho sự nghiệp đào tạo thế hệ
trẻ cho tương lai.
Ngày nay trong công cuộc đổi mới đất nước, tiếp cận với những tiến bộ về khoa học –
công nghệ đòi hỏi những người phục vụ trong công tác giáo dục phải xác định rõ vai trò,
trách nhiệm của mình là sự nghiệp trồng người. Những sản phẩm của mình tạo ra nó sẽ
quyết định cho cả một thế hệ. Do đó vai trò của người thầy là nhân tố quan trọng để quyết
định cho những sản phẩm mà mình tạo ra. Người thầy là những người phục vụ trực tiếp
trong lĩnh vực giáo dục để đào tạo, rèn luyện cho thế hệ trẻ, trong đó giáo viên chủ nhiệm
(GVCN) đóng vai trò quan trọng đối với các cấp học nhất là cấp học phổ thông.
Giáo viên là những người được đào tạo về kiến thức, về nghiệp vụ chuyên môn đồng thời
còn được trang bị đầy đủ kỹ năng trong việc giáo dục nhân cách học sinh nhất là thông
qua công tác chủ nhiệm nhằm giúp học sinh phát triển một cách toàn diện. Mặt dù đã
được đào tạo kỹ lưỡng, nhưng mỗi giáo viên có năng khiếu, sở trường riêng, về chuyên
môn phần lớn đáp ứng nhu cầu giảng dạy, nhưng về kỹ năng quản lý, giáo dục học sinh
trong công tác chủ nhiệm thì chắc không phải ai cũng làm tốt.
Thực tế nhà trường trong những năm qua, nhiều giáo viên còn gặp khó khăn trong công
tác chủ nhiệm. Do đặc thù của địa phương nên học sinh không được thi tuyển đầu vào,
nên lượng học sinh vào học tại trường có một số đối tượng không ngang bằng nhau về
học lực lẫn hạnh kiểm.
Việc xếp lớp, với hình thức đại trà, ở mỗi lớp đều có học sinh giỏi; khá; trung bình. Đặc
biệt là đối với học sinh khối lớp 10 sau một thời gian học từ một đến hai tháng mới nỗi
trội lên những học sinh yếu, kém về học lực. Từ đó những học sinh này có những biểu


hiện sa sút về học lực lẫn hạnh kiểm do nhiều nguyên nhân tác động đã dẫn đến tình
trạng như thường xuyên không thuộc bài, không làm bài tập, bỏ học, cúp tiết, mê chơi
game, không chấp hành nội quy nề nếp trường lớp, gọi chung là học sinh cá biệt… từ đó
dẫn đến các tiêu cực khác…
Những đối tượng nêu trên mặt dù số lượng không nhiều, trung bình chỉ chiếm khoảng
5%/lớp. Nhưng đối với vai trò của GVCN đây là vấn đề không ít khó khăn trong công tác
quản lý lớp không khéo sẽ làm ảnh hưởng đến những học sinh khác, nhất là đối với
những giáo viên mới ra trường chưa có nhiều kinh nghiệm, đã làm ảnh hưởng không nhỏ
đến chất lượng chung của nhà trường. Từ đó mà đối với mỗi giáo viên ngoài kiến thức
chuyên môn giỏi đòi hỏi phải có kỹ năng trong công tác chủ nhiệm nhằm kịp thời giáo
dục những học sinh cá biệt trở thành những học sinh ngoan. Giúp các em có được nhận
thức đúng đắn về vai trò, trách nhiệm của một người học sinh, đồng thời giúp cho người
thầy có được niềm tin đam mê nghề nghiệp, tạo một môi trường giáo dục thân thiện, tích
cực đầy ý nghĩa. Đây là vấn đề quan trọng trong công tác chủ nhiệm ở trường THPT hiện
nay.
II. Lý do chọn đề tài
Từ thực tiễn của nhà trường, trong những năm qua bản thân tôi đã từng làm công tác chủ
nhiệm, làm Bí thư đoàn trường hàng năm đã tiếp xúc với nhiều đối tượng nêu trên nên ít
nhiều cũng đã tích lũy được kinh nghiệm cho bản thân. Trong năm học qua nhà trường có
một số học sinh rơi vào trường hợp “học sinh cá biệt”, trong đó đáng nói nhất là có cả
học sinh bị đưa ra Hội đồng kỷ luật nhà trường, kết quả có học sinh phải đình chỉ học tập
một năm do hình thức vi phạm nặng.
Đứng trước tình hình đó, bản thân là một trong những cán bộ quản lý của nhà trường cần
phát huy tinh thần trách nhiệm của mình nhiều hơn đối với những thầy cô làm công tác
chủ nhiệm lớp. Trong khi ngày nay Nhà nước ta rất quan tâm và đầu tư cho giáo dục,
bằng nhiều giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục. Trong toàn ngành
giáo dục đang thực hiện cuộc vận động “Hai không với bốn nội dung”; phong trào thi
đua “Mỗi thầy cô giáo là tấm gương đạo đức, tự học, sáng tạo”, phong trào thi đua “Xây
dựng trường học thân thiện học sinh tích cực”.
Vì vậy vai trò của GVCN không thể xem nhẹ, nhất là trong việc giáo dục học sinh cá

biệt. Mỗi thầy cô giáo với tinh thần trách nhiệm và lương tâm nghề nghiệp của mình bằng
mọi cách phải giúp các em có được nhận thức đúng đắn trong lao động, học tập, phải uốn
nắn các em từ người “xấu” trở thành người “tốt”. Nếu không khéo sẽ làm hỏng cả một
thế hệ của các em, đồng thời cũng là một gánh nặng cho gia đình và xã hội.
Với những lý do trên, bằng những kinh nghiệm tích lũy của bản thân, tôi viết sáng kiến
kinh nghiệm với đề tài “Một số giải pháp giúp giáo viên chủ nhiệm giáo dục học sinh cá
biệt tại trường THPT An Minh”, với đề tài này hy vọng ít nhiều sẽ góp phần thêm cho
các thầy cô làm công tác chủ nhiệm trong những năm học tới.
III. Phạm vi và đối tượng của đề tài
Trong đề tài này tôi chỉ nghiên cứu về thực trạng của trường THPT An Minh trong những
năm qua, đặc biệt là năm học 2011 – 2012 để áp dụng cho năm học tới.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài chỉ đề cập đến học sinh cá biệt.
III. Mục đích của đề tài
Với đề tài nêu trên, bản thân tôi muốn làm thế nào để giúp cho những học sinh cá biệt
từng bước thay đổi thái độ của mình trong học tập theo hướng tích cực. Giúp các em biết
tự tôn trọng bản thân mình và xác định được việc học sẽ phục vụ chính bản thân các em
và tạo điều kiện để giúp đỡ gia đình, góp phần xây dựng quê hương, đất nước. Giúp các
em thấy được công lao to lớn của các bậc làm cha, làm mẹ nuôi con ăn học; sự vất vả của
các thầy cô trong việc truyền đạt tri thức và giáo dục nhân cách, kỹ năng sống cho các
em. Từ đó các em biết mình sẽ làm gì để thay những lời tri ân đầy ý nghĩa.
Bên cạnh phần nào giúp cho các thầy cô quan tâm hơn về vai trò, trách nhiệm của mình
đối với nghề nghiệp, đặc biệt là trong công tác chủ nhiệm. Nghề dạy học là một nghề
thiêng liêng cao cả, không phải ai cũng làm được như cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã
nói “Nghề dạy học là nghề cao cả nhất trong những nghề cao cả”. Đồng thời giúp cho
một số ít thầy cô xóa đi tư tưởng kỳ thị, phân biệt đối với những học sinh không ngoan
mà phải xác định “tất cả vì đàn em thân yêu” để góp phần xây dựng môi trường học tập
“Trường học thân thiện, học sinh tích cực”.
B. NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận
Đối với học sinh THPT, hầu hết các em bước sang giai đoạn phát triển toàn diện về thể

chất. Nên đặc điểm tâm lý của các em rất dễ bị kích động do những yếu tố xã hội bên
ngoài, các em thường tự khẳng định mình là người lớn chứ không phải là học sinh THCS
nữa, cho nên các em thấy mình có quyền giải quyết các vấn đề theo kiểu người lớn, tự
quyết định cho bản thân mà không nghe theo sự giáo dục của người khác kể cả cha mẹ.
Một số em nghĩ rằng thầy cô sẽ không làm gì được mình ngoài việc nhắc nhỡ, hâm dọa,
mời phụ huynh … từ đó mà các biểu hiện cá biệt dần dần xuất hiện.
Đối với thầy cô làm công tác chủ nhiệm trước hết phải hiểu biết về tâm lý lứa tuổi của
các em để có các giải pháp xử lý tình huống cho thích hợp. Trong lớp học có rất nhiều
đối tượng học sinh: học sinh giỏi, học sinh khá, học sinh yếu kém. Đối với học sinh khá,
giỏi thường các em rất có ý thức, nghe lời thầy cô, các em sẽ thấy hối hận khi mình lỡ vi
phạm và các em sửa đổi những khuyết điểm của mình một cách tự giác rất nhanh. Những
đối với học sinh yếu, kém (học sinh chậm tiến) khi vi phạm các em sửa đổi rất chậm,
thậm chí không hề sửa đổi mà vi phạm ngày càng tăng lên dẫn đến học lực ngày càng sa
sút và kết quả phải lưu ban hoặc bỏ học giữa chừng. Do đó giáo viên khi làm công tác
chủ nhiệm phải nắm rõ các đối tượng của lớp mình để có hướng giáo dục cho phù hợp.
Làm thay đổi thái độ học tập của học sinh từ “xấu” chuyển sang “tốt” góp phần nâng
cao chất lượng giáo dục của nhà trường và giảm tỷ lệ bỏ học hàng năm.
II. Thưc trạng vấn đề
Từ thực tiễn của nhà trường, hiện nay học sinh cá biệt, chưa ngoan không phải là phổ
biến nhưng ở trường nào cũng chịu ảnh hưởng bởi đối tượng học sinh này đối với phong
trào chung của lớp, chúng gây ảnh hưởng thường xuyên đến kết quả thi đua của bạn bè
toàn lớp. Nhìn chung những biểu hiện của các em là chưa có sự kết hợp chặt chẽ giữa gia
đình – nhà trường – xã hội. Bên cạnh còn có nhiều nguyên nhân khác gây ra:
*Nguyên nhân dẫn đến học sinh cá biệt:
- Các em đi học do gia đình ép buộc.
- Do tác động của xã hội, bị bè bạn không tốt lôi kéo.
- Sự kích động của phim ảnh, các trò trơi bạo lực từ game.
- Chưa có sự quan tâm của cha mẹ đến việc học của con cái.
- Do gia đình khá giả, chỉ biết cung cấp tiền cho con mà không quan tâm đến kết quả học
tập của con mình, dẫn đến tính ỷ lại.

- Do hoàn cảnh gia đình khó khăn, phải làm thêm giúp gia đình nên thường xuyên bỏ
học, học lực sa sút.
- Do cho mẹ ly hôn, dẫn đến buồn chán.
- Do lớp học có quá nhiều học sinh yếu, kém…
Bên cạnh cũng có thể một số nguyên nhân xuất phát từ giáo viên như:
*Đối với giáo viên bộ môn:
- Do học yếu kém nên giáo viên bộ môn phân biệt trong cư xử.
- Thường xuyên gọi trả bài.
- Cho nhiều điểm kém.
- So sánh giữa học sinh này với học sinh khác.
- Hâm dọa sẽ ở lại lớp … làm cho học sinh mất đi niềm tin dẫn đến bi oan, chán chường,
không muốn học những môn đó…
*Đối với giáo viên chủ nhiệm:
-Trong quá trình giáo dục học sinh cá biệt còn sử dụng tùy tiện các phương pháp không
phù hợp và chưa khoa học.
- Xử lý học sinh trong lớp không công bằng
- Không xây dựng được quy định riêng cho lớp.
- Xử lý không đến nơi, đến chốn.
- Chỉ nhắc nhỡ mà không có biện pháp cưỡng chế.
- Học sinh vi phạm lỗi nhẹ cũng mời phụ huynh.
- Chưa kết hợp với phụ huynh, chưa thông báo kịp thời với phụ huynh.
- Có thái độ kỳ thị đối với học sinh yếu, kém (cá biệt).
- Không thường xuyên theo dõi lớp mà chỉ giao cho lớp trưởng quản lý.
- Bầu Ban cán sự lớp không đủ năng lực.
- Phạt học sinh vi phạm quá nặng.
- Chỉ nói mà không thực hiện…
*Đối với học sinh cá biệt thường có các biểu hiện sau:
- Bỏ học, cúp tiết, thường đi học trễ.
- Không đồng phục, phù hiệu.
- Đầu tóc, tác phong.

- Mất trật tự trong giờ học.
- Không chú ý nghe thầy cô giảng dạy.
- Thiếu văn hóa (nói tục, chưỡi thề).
- Đùa giỡn, chọc gẹo người khác quá mức.
- Sách vỡ không đầy đủ, thường xuyên không chép bài.
- Mê chơi game, lôi kéo, rủ rê bè bạn.
- Đia học về nhà không đúng giờ.
- Thường nói dối.
- Không giữ vệ sinh trường lớp …
III. Một số giải pháp cụ thể
1. Vai trò của GVCN đối với công tác tổ chức lớp.
Trong công tác chủ nhiệm, nếu làm đúng vai trò trách nhiệm thì người thầy phải bỏ ra
nhiều thời gian, rất vất cả trong việc theo dõi, quản lý lớp. Nếu rơi vào những lớp đa số là
học sinh khá giỏi (như lớp cơ bản A, cơ bản C) thì các em có ý thức học tập rất tốt, hạn
chế tối thiểu học sinh cá biệt giúp cho GVCN bớt đi phần gánh nặng. Nhưng đối với
những lớp phần lớn là học sinh trung bình, học sinh lưu ban thì đòi hỏi người GVCN phải
tốn nhiều thời gian công sức mới làm tốt nhiệm vụ được giao, vì học sinh cá biệt xuất
phát từ những lớp đó. Do đó người giáo viên muốn làm tốt công tác của mình trước hết
phải làm tốt công tác tổ chức lớp, thực hiện một số công việc sau:
*Xếp chỗ ngồi:
GVCN phải xem trước học bạ của từng học sinh trong năm học trước để nắm được học
lực, hạnh kiểm của từng học sinh. Khi sắp chỗ ngồi nên chia đều những học sinh có học
lực khá, giỏi ngồi xen lẫn với những học sinh có học lực trung bình. Nếu thấy trong lớp
có những học sinh bị ghi trong học bạ là hạnh kiểm chưa tốt hoặc học sinh lưu ban nên
xếp chỗ ngồi cho các em ở những dãy bàn đầu để tiện quan sát, theo dõi. Sau khi xếp chỗ
ngồi xong GVCN lập sơ đồ lớp và dán tại bàn giáo viên để giáo viên bộ môn tiện theo
dõi.
Lưu ý: Nếu trong lớp đã có học sinh cá biệt thì không nên cho các em ngồi gần nhau.
Không nên cho các em tùy tiện chọn chỗ ngồi, vì những học sinh ham chơi, hay đùa giỡn
thường thích ngồi gần nhau.

*Bầu Ban cán sự (BCS) lớp:
Khi GVCN đã nắm được học lực, hạnh kiểm của học sinh sẽ lựa chọn những học sinh có
đủ phẩm chất đạo đức để bầu làm lớp trưởng, các lớp phó và các tổ trưởng, tổ phó. Đây là
vấn đề rất cần thiết để giao trách nhiệm cho BCS lớp thay mặt GVCN điều hành, quản lý
lớp. Trong quá trình giao nhiệm vụ, nếu thấy trong BCS những học sinh nào không làm
tốt sẽ thay bằng học sinh khác để tiếp tục quản lý lớp.
Lưu ý: Tránh trường hợp học sinh không đủ năng lực nhưng GVCN vẫn bắt buộc phải
làm lớp trưởng hoặc lớp phó, từ đó làm ảnh hưởng đến tinh thần học tập của các em và
tạo điều kiện cho những mầm móng học sinh cá biệt xuất hiện.
*GVCN xây dựng nội quy lớp:
Ngoài việc GVCN phổ biến cho học sinh biết về Nội quy nhà trường bắt buộc học sinh
phải thực hiện bên cạnh GVCN cần xây dựng Nội quy riêng cho lớp để các em thực hiện.
Có thể ở mỗi lớp GVCN xây dựng nội quy lớp khác nhau tùy thuộc vào đặc điểm, tình
hình của lớp.
VD:
TRƯỜNG THPT AN MINH CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT
NAM
LỚP 10 B… Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NỘI QUY LỚP
1. Đến lớp phải đúng giờ quy định.
2. Phải học bài, làm bài đầy đủ trước khi đến lớp
3. Tổ trực phải vệ sinh phòng học sạch sẽ trước khi vào học.
4.Tác phong: quần …, áo …., đầu tóc …, giày dép …., phù hiệu.
5. Không mang thức ăn đóng hộp, thức uống bằng chai, lon, bọc nylon vào phòng học.
6. Giữ gìn vệ sinh phòng học. Không được nhả kẹo cao su xuống nền gạch.
7. Không được viết, vẽ trên tường, bàn ghế.
8. Không được đùa giỡn, chọc ghẹo, làm mất trật tự trong giờ học.
9. Nếu nghỉ học, ngày sau đi học phải báo cáo với GVCN (bất cứ lý do gì).
10. Đi học phải mang theo nội quy lớp.
GVCN

Trần Văn A
Sau khi xây dựng xong nội quy lớp, GVCN phổ biến trước lớp cho tất cả học sinh đều
biết và thống nhất thực hiện. Sau đó GVCN phát cho mỗi học sinh một bảng Nội quy và
bắt buộc các em phải giữ bảng Nội quy này và thường xuyên mang theo trong suốt năm
học để làm cơ sở xử lý học sinh vi phạm, nếu học sinh vi phạm nhẹ có thể bắt học sinh
đọc lại bảng Nội quy trước lớp hoặc học thuộc bảng Nội quy
Nội quy lớp là một công cụ hỗ trợ GVCN xử lý học sinh vi phạm. Bên cạnh GVCN phải
xây dựng thang điểm thi đua của lớp hàng tuần ứng với nội quy của lớp, trong đó có hình
thức biểu dương, khen thưởng và kỹ luật cụ thể từng trường hợp và được công khai vào
buổi sinh hoạt chủ nhiệm cuối tuần.
Lưu ý: GVCN đóng vai trò hết sức quan trong trọng việc rèn luyện, giáo dục học sinh,
nên trong các buổi 15 phút đầu giờ GVCN phải thường xuyên đến lớp để theo dõi tình
hình. Bên cạnh tác phong của GVCN cũng rất cần thiết như: đầu tóc, trang phục, lên lớp
đúng giờ, những gì nói với học sinh thì phải thực hiện bằng được tránh tình trạng dễ dãi
qua loa, phải xử lý học sinh đúng quy định đã đặt ra dù cho học sinh đó vô tình hay cố ý
vi phạm. Từ đó giúp học sinh học hỏi được phong cách, tác phong trước tiên từ người
GVCN lớp, làm các em càng kính trọng hơn.
*GVCN khảo sát học sinh:
Sau khi làm xong công tác tổ chức lớp, GVCN tiến hành khảo sát để nắm được những
thông tin có liên quan đến hoàn cảnh, đời sống gia đình của các em. Qua đó giúp GVCN
biết được hoàn cảnh từng đối tượng học sinh, trong số đó dễ dàng nhận ra được những
học sinh sẽ rơi vào trường hợp học sinh cá biệt để kịp thời ngăn chặn, uốn nắn, biết được
những học sinh nào có hoàn cảnh khó khăn dẫn đến nguy cơ bỏ học cao để báo lên Hội
khuyến học nhà trường kịp thời giúp đỡ.
PHIẾU KHẢO SÁT
1. Họ và tên học sinh: …………………………………………
2. Chổ ở hiện nay: …………………………………………….
3. Họ tên cha: …………………… , tuổi…………., nghề nghiệp: …………
4. Họ tên mẹ: …………………… , tuổi…………., nghề nghiệp: ………….
5. Gia đình có bao nhiêu anh, chị em; nghề nghiệp của anh, chị ……………

…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
6. Hoàn cảnh sống hiện tại của gia đình em thế nào, ………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
7. Ước mơ của em sau này làm gì: ……………………………………………
8. Ngòai giờ học em thường làm gì để giúp đỡ gia đình: ……………………
………………………………………………………………………………….
9. Trong học tập và trong cuộc sống em gặp phải khó khăn gì: ……………….
…………………………………………………………………………………
10. Những người bạn thân của em tên gì, học lớp nào: ………………………
………………………………………………………………………………….

Sau khi nắm được những thông tin của học sinh, GVCN sẽ phân luồng đối tượng, xem
những học sinh nào có thể dẫn đến sa sút về học tập và sẽ trở thành học sinh cá biệt sau
đó lập sổ để theo dõi dành riêng cho những đối tượng học sinh này.
Mẫu: SỔ THEO DÕI HỌC SINH CÁ BIỆT



Ảnh học sinh
-Họ và tên học sinh: ……………………………., lớp ……
-Học lực, hạnh kiểm năm học trước: ……………………….
-Hòan cảnh gia đình: ………………………………………
………………………………………………………………
-Những biểu hiện của học sinh: …………………………….
……………………………………………………………….
………………………………………………………………
………………………………………………………………
PHẦN THEO DÕI

Tuần
Các hành vi vi phạm
(Đối chiếu với nội quy lớp)
Hình thức xử lý
(Ghi hình thức xử lý)
Thái độ sửa chữa
(Có chấp hành kỹ luật hay
không, khắc phục khuyết
điểm không)
1
2
3
4
5

Tổng hợp của GVCN
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
2. Tiếp xúc với cha mẹ học sinh
Trong cuộc họp cha mẹ học sinh đầu năm GVCN phải cố gắng nắm được số điện thoại
liên lạc của gia đình, đây là điều kiện thuận lợi giúp GVCN trao đổi gián tiếp với cha mẹ
học sinh khi cần thiết. Ngoài ra GVCN cần phải tiếp xúc riêng để trao đổi thông tin với
cha mẹ của những học sinh cá biệt, đây là điều rất cần thiết, không thể thiếu đối với giáo
viên làm công tác chủ nhiệm. Thông qua công việc này giúp giáo viên biết được các thói
quen, sở thích, thái độ của học sinh thường biểu hiện ở gia đình. Qua đó giúp cha mẹ học
sinh biết được tình hình học tập, những dấu hiệu sa sút của các em đồng thời giúp cha mẹ
học sinh thấy được sự quan tâm của nhà trường đối với gia đình từ đó tạo được niềm tin
đối với phụ huynh trong việc giáo dục con cái của họ. Mối quan hệ có tác động hai chiều
này nhằm hạn chế bớt mặc cảm, tự ti ở các em, giúp các em giảm bớt tâm lý lo sợ khi tiếp
xúc với GVCN.

3. Tìm hiểu mối quan hệ bè bạn của học sinh
Ngoài những thông tin mà GVCN tìm hiểu về học sinh cá biệt, bên cạnh cần phải tìm
hiểu mối quan hệ bè bạn của học sinh đó để biết những đối tượng mà học sinh này đang
chơi chung họ như thế nào. Có thể GVCN tìm hiểu thông qua lớp trưởng, các học sinh
khác trong lớp, thông qua phiếu khảo sát… Có những học sinh ít giao tiếp với bạn bè chỉ
thích chơi game mà học tập giảm sút, nên khuyến khích các học sinh khác trong lớp
thường xuyên tiếp xúc để có biện pháp giúp đỡ bạn, giúp các em sống trong môi trường
đoàn kết, gắn bó giúp đỡ lẫn nhau trong bất kỳ trường hợp nào. GVCN có thể giáo dục
các em bằng cách nêu gương, điểm hình giúp các em tự nhận thấy những khuyết điểm
của mình để từng bước sửa chữa. GVCN nên gặp riêng từng học sinh để trao đổi, giải
thích cho các em hiểu những sai trái của mình để các em có hướng khắc phục, không nên
làm các em cảm thấy mặc cảm trước lớp.
4. Tạo sự gần gũi, quan tâm với học sinh
Tạo mối quan hệ gần gũi là thể hiện sự quan tâm đối với các em, nhưng người thầy vẫn
luôn giữ chuẩn mực, nghiêm khắc. Tiếp xúc tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của các em,
nhằm để động viên, khích lệ tạo cho các em có được chỗ dựa tinh thần vững chắc. Để các
em thấy sự quan tâm của người thầy như người cha, người mẹ của các em luôn dìu dắt,
nâng đỡ các em khi vấp phải những khó khăn trong học tập cũng như trong cuộc sống.
Khi học sinh nghỉ học, dù có phép hay không phép, dù bất cứ lý do gì những buổi học sau
phải tiếp xúc để thăm hỏi các em, đôi khi cũng có những lý do khá đặc biệt người thầy có
thể chia sẽ với các em, làm cho các em cảm thấy vui hơn khi được thầy cô quan tâm đến
mình, từ đó những biểu hiện cá biệt dần dần biến mất.
5. Công tác phối hợp.
Để giáo dục được những học sinh cá biệt, bản thân của mỗi GVCN cần phải biết phối hợp
kịp thời, linh hoạt với các bộ phận trong nhà trường. Như phối hợp với Tổ tự quản, cung
cấp cho Tổ tự quan danh sách những học sinh cá biệt để kịp thời hỗ trợ trong việc theo
dõi, nhắc nhỡ và xử lý những vi phạm của các em. Phối hợp với giáo viên bộ môn, thông
qua đó giáo viên có thể theo dõi thái độ học tập của các em ở từng môn học để có hướng
bồi dưỡng, rèn luyện thêm cho các em về kiến thức.
6. Giao nhiệm vụ cho học sinh:

Thường GVCN không giao nhiệm vụ cho những học sinh cá biệt, vì cho rằng những học
sinh này sẽ không làm được gì, coi thường các em mà chỉ luôn la gầy, nêu tên là chính.
Điều đó không khéo dễ làm hỏng các em hơn.
Cho nên đối với những đối tượng này, GVCN nên tạo cho các em một cơ hội để các em
thấy được vai trò của mình trong tập thể, đồng thời phát huy tính làm chủ của các em và
nhận thấy rằng mình không bị lạc lỏng, không bị bỏ rơi. Như tham gia các hoạt động văn
hóa văn nghệ, tham gia các trò chơi dân gian, các hoạt động thể thao, tham gia làm báo
tường, cắm trại nhân các ngày lễ hội của trường tổ chức…Khi hoàn thành nhiệm vụ
GVCN phải đánh giá kết quả bằng cách nêu gương trước tập thể lớp
7. Rèn luyện học sinh tính trung thực
Phải rèn luyện cho học sinh tính trung thực, tự lập, vượt qua mọi khó khăn thử thách,
không nên ỷ lại. Có được tính trung thực điều đó khẳng định là các em đã trưởng thành,
phải chịu trách nhiệm trước công việc của mình làm, nếu có sai phạm phải tự nhận lấy,
không đổ lỗi cho người khác. Từ đó giúp các em tự khẳng định được mình và các em sẽ
đắn đo trước những công việc mà mình sắp làm nhằm hạn chế bớt những sai phạm.
8. Sinh hoạt chủ nhiệm
Trong buổi sinh hoạt cuối tuần, GVCN đóng vai trò cố vấn, hướng dẫn các em từng bước
tiến hành. Sau đó GVCN sẽ là người kết luận cuối cùng. Đối với những trường hợp vi
phạm cho các em tự báo cáo về mình dựa theo nội quy của lớp. (từng học sinh báo báo)
Nội dung báo cáo
Ngày
vi phạm
Số lần
vi phạm
1. Đến lớp phải đúng giờ quy định.
2. Phải học bài, làm bài đầy đủ trước khi đến lớp
3. Tổ trực phải vệ sinh phòng học sạch sẽ trước khi vào học.
4.Tác phong: quần …, áo …., đầu tóc …, giày dép …., phù
hiệu.


5. Không mang thức ăn đóng hộp, thức uống bằng chai, lon, bọc
nylon vào phòng.

6. Giữ gìn vệ sinh phòng học. Không được nhả kẹo cao su
xuống nền gạch.

7. Không được viết, vẽ trên tường, bàn ghế.
8. Không được đùa giỡn, chọc ghẹo, làm mất trật tự trong giờ
học.

9. Nếu nghỉ học, ngày sau đi học phải báo cáo với GVCN…
10. Đi học phải mang theo nội quy lớp.
Sau đó lớp trưởng nhận xét xem còn ai chưa báo cáo, hoặc báo cáo không chính xác để
GVCN xử lý. Trong việc xử lý những học sinh vi phạm phải đúng người, đúng tội theo
Nội quy đã đề ra. Tránh trường hợp vị nễ, xử học sinh này nặng, xử học sinh kia nhẹ làm
mất đi tính nghiêm khắc, công minh của người thầy. Những học sinh vi phạm phải chấp
nhận hành vi vi phạm của mình. Điều này thông qua sự báo cáo của BCS lớp phải thật sự
chính xác công bằng. Những hình thức kỹ luật đã đưa ra bắt buộc học sinh đó phải thực
hiện, GVCN không bỏ qua với bất cứ trường hợp nào. Làm được điều đó sẽ giúp cho nề
nếp lớp học đi vào khuôn khổ nhất định, rèn luyện cho các em chấp hành tốt Nội quy
trường, lớp như vậy sẽ hạn chế tối đa trường hợp học sinh có biểu hiện cá biệt tái phạm.
Ngoài việc xử lý học sinh vi phạm, GVCN cần phải có hình thức biểu dương, khen
thưởng. Đây là hình thức rất có ý nghĩa, học sinh cá biệt thông thường vốn khó tính, khó
dạy nếu GVCN thiên vị lập tức sẽ có sự phản ứng ngược lại. Mỗi khi học sinh cá biệt làm
được một việc tốt, đạt điểm tốt thì phải động viên khuyến khích các em nên tiếp tục phát
huy. Nếu các em sai phạm thì cứ nhẹ nhàng xử lý như những học sinh khác, tránh nóng
vội, kỳ thị để các em tự nhận lỗi và sửa chữa.
IV. Kết quả, kiểm chứng
Sau khi thực hiện các giải pháp nêu trên, GVCN có thể kiểm chứng kết quả xem các giải
pháp có thể làm thay đổi thái độ học tập của học sinh cá biệt hay không. Có thể tổng hợp

kết quả theo học kỳ và cuối năm học:
Họ tên HS
Các biểu hiện
đầu năm
Số lần vi phạm từng tháng
Số lần khắc
phục sửa chữa
Kết quả
cuối năm
Tháng 1 Tháng 2 Tháng …
Học sinh A
Học sinh B
Học sinh C
C. KẾT LUẬN
Một giáo viên nhận nhiệm vụ làm công tác chủ nhiệm, quản lý một lớp học với ngần 45
học sinh quả là không dễ dàng, muốn được số học sinh đó đều trở thành học sinh ngoan,
kết quả học tập tốt lại càng không dễ. Năm học nào cũng vậy, lớp học nào cũng vậy, thầy
cô chủ nhiệm là những người luôn đối mặt với biết bao khó khăn, thử thách và mong
muối duy nhất là làm thế nào cho học sinh mình thành đạt, sự nghiệp trồng người là tiếng
vang suốt cuộc đời đối với các thầy giáo, cô giáo, làm tốt được học sinh nhớ. Lỡ làm điều
gì sai thì học sinh cũng không quên…Hạn chế tối đa những trường hợp học sinh phải đưa
ra Hội đồng kỷ luật, vì nếu học sinh bị đình chỉ học tập hay bị ghi vào học bạ hạnh kiểm
xấu nó sẽ đeo đuổi suốt đời đối với các em mà bản thân thầy cô chủ nhiệm cũng thấy đau
lòng trước những trường hợp như thế.
Chính vì những điều đó mà những người thầy đang phục vụ trong ngành giáo dục phải ra
sức nghiêm cứu học tập hơn nữa, làm thế nào để sản phẩm của mình tạo ra sẽ có ích cho
xã hội. Thầy cô làm công tác chủ nhiệm, xem lớp chủ nhiệm như là một mái ấm gia đình
thì sẽ cảm thấy có được niềm vui trong công tác. Tuy nhiên thầy cô cũng đừng tập trung
nhiều vào đối tượng học sinh cá biệt mà hãy nghĩ đến cả một tập thể với tình yêu thương
nghề nghiệp thì nhất định sẽ thành công.

Giáo dục thế hệ trẻ để trở thành chủ nhân tương lai của đất nước là nhiệm vụ hàng đầu.
Để giáo dục học sinh nói chung, học sinh cá biệt nói riêng đòi hỏi các ngành, các cấp
cùng tuyên truyền cho cả xã hội quan tâm hơn đối với thế hệ trẻ. Đặc biệt quan tâm nhiều
hơn đối với những học sinh được coi là cá biệt nhằm xây dựng môi trường sống có văn
hóa, lành mạnh, bổ ích.
Với những kinh nghiêm tích lũy được, qua đề tài này tôi hy vọng sẽ đóng góp phần nào
cho công tác chủ nhiệm của thầy, cô trong những năm học tới.
*Đề xuất, kiến nghị
Đối với nhà trường:
Cần tổ chức nhiều hơn các hoạt động vui chơi, giải trí cho học sinh để các em có được
sân chơi lành mạnh, bổ ích.
Cần tăng cường công tác giáo dục kỹ năng sống cho các em, để các em hiểu thêm về vai
trò, trách nhiệm của lứa tuổi học đường.
Chỉ đạo cho GVCN tăng cường công tác phối hợp với cha mẹ học sinh để kịp thời giáo
dục những học sinh cá biệt có hiệu quả.
Đối với Sở GD&ĐT:
Cần mở những lớp tập huấn kỹ năng giáo dục học sinh cá biệt cho GVCN cấp THPT.
Trên đây là sáng kiến kinh nghiệm của bản thân tôi, trong quá trình thực hiện vẫn còn
nhiều thiếu sót và một số nội dung chưa phù hợp. Rất mong được sự đóng góp của đồng
nghiệp để nội dung đề tài hoàn thiện hơn./
Nguyễn Văn Hùng (THPT An Minh)
10 LỜI KHUYÊN ĐỂ CÓ MỘT GIỜ HỌC TỐT
Dưới đây là 10 lời khuyên giúp giáo viên điều khiển một giờ học thành công.
Những lời khuyên có thể giúp giáo viên giảm được những tình huống sư phạm
và không bị gián đoạn tiết học bởi những học sinh gây rối.
1. Đặt nội quy ngay từ đầu
Nhiều giáo viên thường mắc lỗi bắt đầu một năm học mới với kế hoạch cho các quy tắc
rất lỏng lẻo. HS nhanh chóng nắm bắt được các tình huống trong mỗi giờ học và nhận ra
những gì chúng sẽ được cho phép, những lỗi nào được bỏ qua. Một khi GV “lờ” đi những
sự quậy phá hoặc những nguyên tắc trong lớp học không đủ mạnh để chấn chỉnh, dập tắt

các trò nghịch ngợm thì rất khó để bắt đầu hay tiếp tục điều khiển lớp tốt hơn. Vì vậy
ngay từ đầu, GV phải đề ra nội quy rõ ràng và tuân thủ nó.
HS hoàn toàn có thể phân biệt điều gì là công bằng và điều gì thì không. Vì thế, GV phải
đối xử bình đẳng đối với tất cả HS nếu mong được HS tôn trọng. Nếu GV không đối xử
với tất cả HS một cách công bằng, những HS bị đối xử không công bằng sẽ không thích
thú làm theo những quy tắc trong lớp học. Hãy chắc chắn rằng ngay cả HS xuất sắc nhất
trong lớp cũng có khả năng phạm lỗi, và học trò đó cũng đáng bị phạt về lỗi của mình.
Nếu có một vài HS đang nói chuyện riêng và bạn đang đưa ra câu hỏi trong phần giới
thiệu bài mới, gọi một trong các HS đó đứng dậy trả lời câu hỏi của bạn để thu hút HS
quay trở lại bài học. Nếu bạn phải dừng mạch bài học để giải quyết rắc rối thì bạn đang
"đánh cắp" thời gian quý báu học tại lớp của những HS hiếu học.
Bất cứ khi nào có đánh nhau, cãi vã giận dữ trong lớp học thì sẽ có một người thắng và
một người thua. Dĩ nhiên với vai trò là một GV, bạn cần phải giữ trật tự và quy tắc trong
lớp học. Tuy nhiên, nên giải quyết những vấn đề vi phạm kỉ luật mang tính cá nhân riêng
tư (bên ngoài lớp học) tốt hơn là làm HS "mất mặt" trước bạn bè. Cũng không phải là ý
kiến hay nếu bêu riếu, trách móc, phê phán, HS đó như một ví dụ điển hình về vi phạm
nội quy lớp học. Mặc dù HS khác sẽ thắng nhưng có thể bạn sẽ đánh mất cơ hội thực sự
dạy HS kia bất cứ điều gì nữa.
Đôi khi những tiếng cười lại giúp "kéo" mạch lớp học trở lại như cũ. Tuy nhiên, nhiều
GV nhầm lẫn giữa những câu hỏi hài hước với lời châm chọc. Trong khi sự hóm hỉnh có
thể nhanh chóng "hoá giải" tình huống sư phạm thì lời mỉa mai có thể làm tổn thường
mối quan hệ của bạn với học trò tham gia vào. Hãy dùng việc đánh giá tối ưu nhất nhưng
hãy nhận ra rằng có những điều học trò này nghĩ là trò vui, học trò kia lại nhận thấy bị
xúc phạm.
Hãy tin tưởng rằng HS là những trẻ ngoan ngoãn, chứ không phải là quậy phá. Tăng
cường điều đó thông qua cách bạn nói với học trò. Khi bạn bắt đầu một ngày học mới,
bạn hãy nói những mong muốn của bạn với học trò. Ví dụ, bạn có thể nói "Sau khi thảo
luận nhóm, cô (thầy) muốn các con giơ tay và được gọi lên trước khi bắt đầu phát biểu ý
kiến. Cô cũng hi vọng các con sẽ tôn trọng ý kiến của bạn mình và lắng nghe những gì
bạn các con nói".

Giáo viên nên tránh thời gian "chết" trong giờ học. Nếu trong thời gian rảnh rỗi đó, bạn
cho phép học sinh nói và nói mỗi ngày, tự bạn tạo cho các em một thói quen xấu - nói
chuyện. Để tránh điều này, hãy lên kế hoạch dự trù, đưa thêm các hoạt động vào phần
cuối của giáo án. Khi bạn có nhiều hoạt động đa dạng, phong phú, bạn sẽ khai thác sâu
thêm nội dung bài học và tránh được thời gian nhàn rỗi trong tiết học.
Một trong những điều tệ nhất mà người giáo viên mắc phải là không nhất quán trong việc
thực thi nội quy lớp học. Nếu một ngày bạn "lơ" đi một trò quậy phá trong lớp, một thái
độ học tập thiếu nghiêm túc, và ngày hôm sau bạn chì chiết một HS vì một lỗi nhỏ, HS
của bạn sẽ nhanh chóng mất đi sự kính trọng đối với bạn. Học trò có quyền mong bạn đối
xử nhất quán hàng ngày. Tính khí thất thường không được có trong lớp học. Một khi bạn
đánh mất sự kính trọng của HS, bạn sẽ đánh mất luôn sự chăm chú vào bài giảng.
Bạn cần chọn ra nguyên tắc của bạn. Bạn cũng cần làm cho các nguyên tắc thật rõ ràng.
HS cần hiểu cái gì được và cái gì không được chấp nhận. Hơn nữa, bạn nên lường trước
hậu quả nếu bạn phá bỏ nguyên tắc.
Mẹo này không có nghĩa là bạn không đếm, hay đếm sai tất cả các lỗi vi phạm trước đó,
ví dụ, nếu HS có ba sự hối hận muộn mặn thì hôm nay nghĩa là các em có bốn. Điều đó
có nghĩa rằng bạn nên bắt đầu buổi dạy mỗi ngày với sự tin tưởng HS sẽ ngoan. Không
nên có định kiến rằng HS này luôn quậy phá giờ học hàng ngày trong tuần, thì hôm nay
em lại sẽ nghịch ngợm. Do đó, bạn sẽ không đối xử với HS ấy một cách khác biệt làm em
đó gây mất trật tự thêm.

10. Bắt đầu mỗi ngày học sảng khoái

9. Hãy đặt ra các nội quy có thể hiểu được

8. Luôn luôn nhất quán

7. Kế hoạch dự trù

6. Giữ niềm tin tưởng lớn trong lớp


5. Ngừng sự phá rối với một chút hài hước

4. Tránh các vụ gây lộn trong lớp học

3. Giải quyết những rắc rối với càng ít sự gián đoạn càng tốt

2. Công bằng là chìa khoá
Những quy định về xử phạt học sinh
Học sinh vi phạm nội quy nhà trường, tùy theo mức độ nghiệm trọng và tần suất vi phạm
sẽ bị xử lý theo những quy định như sau, hoặc đưa ra Hội Đồng Kỷ Luật

• Lần 1:
Nhắc nhở, cảnh cáo bằng miệng

• Lần 2:
Học sinh viết bản kiểm điểm và cam kết (có điều khoản tự vào phòng tự kiểm để tu thân)

• Lần 3:
- Mời phụ huynh, kỷ luật, phê học bạ,
- Đình chỉ học, hoặc giữ học sinh ở phòng tự kiểm từ 1 ngày đến 1 tuần, tùy theo mức độ
nghiêm trọng

Đối với vi phạm về điện thoại di động và các thiết bị điện tử, nếu vi phạm:
• Lần 1: Giáo viên bộ môn được quyền thu điện thoại giao cho giám thị hoặc ban giám
hiệu sau đó trả lại cho học sinh vào cuối ngày và yêu cầu học sinh viết cam kết.
• Lần 2: Giáo viên bộ môn được quyền thu điện thoại giao cho giám thị hoặc ban giám
hiệu sau đó trả lại cho học sinh sau 1 tuần.
• Lần 3: Nhà trường sẽ giữ lại, thông báo cho phụ huynh và trả lại vào cuối học kỳ

×