Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188.54 KB, 21 trang )

A. MỞ ĐẦU
Trong thực tế, có những sự vật như máy móc, phương tiện, hệ thống tải
điện, dây chuyền sản xuất trong nhà máy ... mà bản thân hoạt động của
chúng luôn tiềm ẩn khả năng gây thiệt hại cho môi trường xung quanh. Mặc
dù chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ đã tìm
mọi cách phòng ngừa, vận hành chúng an toàn nhưng thực tế vẫn có những
thiệt hại khách quan bất ngờ xảy ra nằm ngoài sự kiểm soát đó. Vậy, nguồn
nguy hiểm cao độ là gì ? Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy
hiểm cao độ gây ra được xác định như thế nào ? Và trên thực tế, việc áp
dụng các quy định của pháp luật có liên quan đến vấn đề này còn những
điểm gì đáng quan tâm ?
1
B. NỘI DUNG
I. Một số vấn đề lý luận về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn
nguy hiểm cao độ gây ra :
1. Khái niệm nguồn nguy hiểm cao độ và trách nhiệm bồi thường thiệt hại
do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra :
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại được đề cập đến từ rất sớm trong hệ
thống pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, phải đến khi BLDS 1995 ra đời, thì
các quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại mới được quy định một
cách chi tiết. Trên cơ sở đó, BLDS 2005 đã kế thừa và phát triển, tiếp tục
hoàn thiện hơn nữa các quy phạm liên quan đến vấn đề bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng, trong đó có trường hợp bồi thường thiệt hại do nguồn nguy
hiểm cao độ gây ra.
“ Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một loại trách
nhiệm pháp lý được phát sinh dựa trên các điều kiện do pháp luật quy định
khi một chủ thể có hành vi gây thiệt hại cho các lợi ích được pháp luật bảo
vệ.”
1
Theo quy định tại Điều 604 BLDS 2005, trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng phát sinh khi người có hành vi trái pháp luật có lỗi gây


thiệt hại cho các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ; đồng thời trong một
số trường hợp đặc biệt được pháp luật quy định, trách nhiệm này phát sinh
cả khi không có lỗi của người gây thiệt hại.
Từ khái niệm tổng quát về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, căn cứ
theo khoản 2, khoản 3 Điều 623 BLDS 2005, có thể hiểu : “ Bồi thường thiệt
hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra được hiểu là trách nhiệm của chủ sở
hữu hoặc người chiếm hữu, sử dụng hợp pháp của nguồn nguy hiểm cao độ
và do sự hoạt động tự thân của nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại cho
người khác, phải bồi thường thiệt hại kể cả trong trường hợp chủ sở hữu
hoặc người chiếm hữu hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ không có lỗi.”
2
1
(1) : Theo TS. Lê Đình Nghị (chủ biên), Giáo trình Luật dân sự Việt Nam tập 2, Nxb. Giáo dục, Hà
Nội, 2010, tr 191.
2
(2) : Theo TS. Phùng Trung Tập, Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về tài sản, sức khỏe và tính
mạng, Nxb. Hà Nội, Hà Nội, 2009, tr 259.
2
Như vậy, có thể thấy, để áp dụng quy định bồi thường thiệt hại do
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra tại Điều 623 BLDS 2005, cần làm rõ khái
niệm nguồn nguy hiểm cao độ. Khái niệm nguồn nguy hiểm cao độ được ghi
nhận tại đoạn 1 khoản 1 Điều 623 BLDS 2005; trên cơ sở này, Tòa án nhân
dân tối cao ban hành Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006
hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS 2005 về bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng trong đó có hướng dẫn về bồi thường thiệt hại do
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra đã xác định: “ Nguồn nguy hiểm cao độ bao
gồm phương giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công
nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ,
thú dữ và các nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy định.”
3

Như vậy, pháp luật không đưa ra khái niệm tổng quát về nguồn nguy
hiểm cao độ mà chỉ định nghĩa dưới dạng liệt kê các đối tượng được coi là
nguồn nguy hiểm cao độ. Tuy nhiên, nếu căn cứ vào tính chất của sự vật như
mức độ nguy hiểm cũng như khả năng kiểm soát của con người đối với sự
vật đó, có thể hiểu: “ Nguồn nguy hiểm cao độ là những vật chất nhất nhất
định do pháp luật quy định luôn tiềm ẩn nguy cơ gây thiệt hại cho con người,
con người không thể kiểm soát được một cách tuyệt đối.”
4
Ví dụ phương tiện
giao thông vận tải cơ giới bao gồm phương tiện giao thông cơ giới đường
bộ, đường sắt, đường thủy, đường hàng không như xe ô tô, xe gắn máy, tàu
thủy, tàu hỏa, máy bay,... là nguồn nguy hiểm cao độ. Tuy nhiên để xác định
những phương tiện giao thông cơ giới nào là nguồn nguy hiểm cao độ cần
dựa trên các quy định cụ thể tại các văn bản pháp luật có liên quan khác như
Luật Giao thông đường bộ 2008, Luật Hàng hải 2005, Luật Đường sắt
2005,... Hệ thống tải điện cũng được xác định là nguồn nguy hiểm cao độ.
Căn cứ theo khoản 10 Điều 3 Luật Điện lực 2004: “ Hệ thống tải điện Quốc
gia là hệ thống các trang thiết bị phát điện, lưới điện, các trang thiết bị phụ
3
(3) : Trích khoản 1 Điều 623 BLDS 2005, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2009, tr 263.
4
(4) : Theo TS. Lê Đình Nghị (chủ biên), Giáo trình Luật dân sự Việt Nam tập 2, Nxb. Giáo dục, Hà
Nội, 2010, tr 208.
3
trợ được liên kết với nhau và được chỉ huy thống nhất trong phạm vi cả
nước.”
5
, có thể hiểu khái quát thế nào là hệ thống tải điện để từ đó xác định
những trang thiết bị điện như: máy biến áp, đường dây tải điện, đèn cao
áp, ... cũng nằm trong danh mục nguồn nguy hiểm cao độ theo quy định tại

khoản 1 Điều 623 BLDS 2005. Ngoài ra, cũng theo quy định tại điều luật
này, thú dữ như hổ, báo, sư tử,... các loại vũ khí quân dụng, vũ khí thể thao;
nhà máy công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ; thuốc nổ, pháo, thuốc súng;
chất độc bảng A, chất phóng xạ;... đang trong quá trình vận hành cũng được
liệt kê vào danh sách nguồn nguy hiểm cao độ.
2. Đặc điểm và điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra :
Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra cũng là một
loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Tuy nhiên, để xác định
trường hợp nào áp dụng nguyên tắc bồi thường thiệt hại nói chung theo Điều
604 BLDS 2005, trường hợp nào áp dụng quy định về bồi thường thiệt hại
do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra cần căn cứ vào đặc điểm riêng, sự khác
biệt cũng như điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn
nguy hiểm cao độ gây ra.
2.1. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy
hiểm cao độ gây ra :
Trên thực tế, việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn
nguy hiểm cao độ gây ra là một trong những vấn đề hết sức khó khăn, phức
tạp. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra chỉ
được áp dụng khi thỏa mãn các điều kiện sau :
Một là, những sự vật được coi là nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt
hại phải đang trong tình trạng vận hành, hoạt động như: phương tiện giao
thông đang tham gia giao thông trên đường; cháy, chập hệ thống tải điện;
5
(5) : Theo khoản 10 Điều 3 Luật Điện lực 2004.
4
nhà máy công nghiệp đang hoạt động; ... bởi chỉ trong tình trạng vận hành,
hoạt động, những đối tượng được coi là nguồn nguy hiểm cao độ mới thực
sự tiềm ẩn mối đe dọa gây nguy hiểm lớn cho người, vật và môi trường xung
quanh và khi đó, con người mới không thể hoàn toàn điều khiển, chế ngự

được chúng, sự cố xảy ra gây thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ đang ở
trạng thái hoạt động nằm ngoài khả năng kiểm soát của con người. Nếu thiệt
hại xảy ra khi nguồn nguy hiểm cao độ đang ở trạng thái không hoạt động
( trạng thái tĩnh ) ví dụ: xe ô tô dừng đỗ trên đỉnh dốc nhưng theo quán tính
trượt xuống chân dốc gây thiệt hại; cột điện bị đổ trong lúc đang thi công,
chưa có điện; thú dữ chết thối rữa gây dịch bệnh thì không thể coi đó là thiệt
hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
Hai là, có thiệt hại thực sự xảy ra do chính sự tác động của bản thân
nguồn nguy hiểm cao độ hoặc do hoạt động nội tại của nguồn nguy hiểm
cao độ mà không phải là do sự tác động bới hành vi có dấu hiệu lỗi của con
người. Nghĩa là mối quan hệ giữa sự hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ
với thiệt hại xảy ra phải là mối quan hệ phổ biến, biện chứng. Đây là trường
hợp hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ hoàn toàn độc lập với ý chí, nằm
ngoài sự kiểm soát, chế ngự của con người. Ví dụ : xe máy đang chạy với
tốc độ cao đột nhiên mất phanh, mất lái hoặc nổ lốp gây ra thiệt hại; cháy,
chập đường dây tải điện; cháy nổ trong nhà máy do trục trặc kỹ thuật… sẽ
áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
tại Điều 623 BLDS 2005. Điều kiện này đòi hỏi hoạt động nội tại của nguồn
nguy hiểm cao độ phải là nguyên nhân tất yếu, có ý nghĩa quyết định dẫn
đến thiệt hại. Khi xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại, điểm mấu chốt
quan trọng là xác định thiệt hại đó do nguyên nhân nào gây ra. Những
trường hợp thiệt hại có liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ nhưng do tác
động của con người, do hành vi của con người gây ra thì chỉ cần áp dụng
nguyên tắc chung của trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
5
Ba là, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ
chỉ được đặt ra khi nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại cho những
“người xung quanh” - là những người bị thiệt hại mà không có quan hệ lao
động hoặc sở hữu liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ nhằm để bảo vệ
quyền được bồi thường cho những người này. Đối với chủ sở hữu, họ phải

tự chịu mọi rủi ro đối với thiệt hại do tài sản của mình gây ra. Đối với người
bị thiệt hại trong khi sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo nghĩa vụ lao
động, họ sẽ được hưởng bồi thường theo chế độ bảo hiểm tai nạn lao động.
2.2. Đặc điểm của trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm
cao độ gây ra :
Xuất phát từ hai điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại
do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, có thể khẳng định, về đặc điểm, trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là một loại
trách nhiệm dân sự về tài sản và trách nhiệm dân sự này không cần điều
kiện lỗi.
Thứ nhất, cũng giống như điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra chỉ được xác định khi có thiệt hại xảy ra trên
thực tế. Thiệt hại theo khái niệm chung được hiểu là sự giảm bớt những lợi
ích vật chất của cá nhân, pháp nhân, tổ chức hoặc Nhà nước về sức khỏe,
tính mạng, tài sản, uy tín, danh dự, nhân phẩm, thi thể, mồ mả... được xác
định bằng một khoản tiền và những chi phí hợp lí, phù hợp nhằm khắc phục
những tổn thất về vật chất, tinh thần cho chủ thể bị thiệt hại. Tuy nhiên, thiệt
hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra chỉ mang tính chất thiệt hại về tài sản,
tính mạng, sức khỏe chứ không bao gồm thiệt hại về danh dự, nhân phẩm,
uy tín hay thi thể, mồ mả... Bởi xuất phát từ chính đối tượng gây thiệt hại là
nguồn nguy hiểm cao độ được xác định theo khoản 1 Điều 623 BLDS 2005
như: phương tiện giao thông cơ giới, hệ thống tải điện, thú dữ, vũ khí,...
đồng thời thiệt hại xảy ra do bản thân nội tại nguồn nguy hiểm cao độ đang
6
trong tình trạng hoạt động chứ không phải bởi hành vi trái pháp luật có yếu
tố lỗi của con người nên rõ ràng, nguồn nguy hiểm cao độ chỉ có thể gây ra
thiệt hại về tính mạng, sức khỏe và tài sản chứ không thể dẫn tới thiệt hại về
uy tín, danh dự, nhân phẩm.
Thứ hai, nếu lỗi là một trong các điều kiện cơ bản làm phát sinh trách

nhiệm trường hợp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung thì trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra lại dựa trên sự
suy đoán trách nhiệm của chủ sở hữu hay người quản lý nguồn nguy hiểm
cao độ. Xuất phát từ việc trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy
hiểm cao độ gây ra chỉ phát sinh khi thiệt hại xảy ra do nội tại nguồn nguy
hiểm cao độ đang trong tình trạng vận hành, nằm ngoài khả năng kiểm soát,
điều khiển của con người và đó là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến thiệt hại thì
theo khoản 3 Điều 623 BLDS 2005: “Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu
giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại
cả khi không có lỗi, trừ các trường hợp sau đây: a) Thiệt hại xảy ra hoàn
toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại; b) Thiệt hại xảy ra trong trường hợp
bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”
6
Như vậy, chủ sở hữu, người đang chiếm hữu nguồn nguy hiểm cao độ không
được miễn trừ trách nhiệm bồi thường kể cả trong trường hợp chứng minh
được họ không có lỗi trong việc trông giữ, bảo quản, vận hành nguồn nguy
hiểm cao độ.
Tuy nhiên, quy định này của pháp luật cũng không loại trừ khả năng
thiệt hại xảy ra do một phần lỗi của chủ sở hữu, người quản lý, trông giữ,
bảo quản, vận hành nguồn nguy hiểm cao độ; nhưng hành vi để xảy ra thiệt
hại này của người trông giữ, vận hành nguồn nguy hiểm cao độ không phải
nguyên nhân có tính quyết định đến việc xảy ra thiệt hại. Ví dụ : trước khi
xuống dốc, lái xe không kiểm tra lại phanh; lốp mòn nhưng chưa thay do chủ
quan nghĩ rằng xe vẫn vận hành tốt… Hoạt động gây thiệt hại của nguồn
6
(6) : Theo khoản 3 Điều 623 BLDS 2005, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2009, tr 263.
7
nguy hiểm cao độ có thể hoàn toàn không có lỗi của con người như xe đang
chạy trên đường bất ngờ nổ lốp dẫn đến đổi hưởng đột ngột gây thiệt hại...
Từ những lập luận trên, có thể thấy, nếu căn cứ vào yếu tố lỗi và cho

nó là điều kiện bắt buộc để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra và nếu trong mọi trường hợp xảy ra thiệt hại
đều buộc người bị hại dẫn chứng lỗi từ phía gây thiệt hại thì thực sự là việc
quá khó khăn, gần như không thực hiện được. Từ đó không thể đảm bảo
quyền lợi hợp pháp cho chủ thể bị thiệt hại về tài sản, tính mạng, sức khỏe
do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Do đó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại
do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra sẽ phát sinh mà không cần điều kiện lỗi.
Như vậy, bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là một
trong những trường hợp đặc biệt, theo đó, trách nhiệm bồi thường phát sinh
là trách nhiệm pháp lý nâng cao không nhất thiết đòi hỏi phải chứng minh
yếu tố lỗi của chủ thể gây thiệt hại.
3. Xác định chủ thể phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn
nguy hiểm cao độ gây ra :
3.1. Chủ thể phải chịu trách nhiệm bồi thường là chủ sở hữu, người được
chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ:
“ Chủ sở hữu được thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình đối với tài
sản nhưng không được gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích nhà
nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác”
7
đó là
nguyên tắc thực hiện quyền sở hữu được ghi nhận tại Điều 165 BLDS 2005.
Đồng thời, với ý nghĩa luôn tiềm ẩn nguy cơ, khả năng gây thiệt hại cho con
người và thế giới xung quanh của nguồn nguy hiểm cao độ nên đoạn 2
khoản 1 Điều 623 BLDS 2005 cũng đưa ra quy định: “ Chủ sở hữu nguồn
nguy hiểm cao độ phải tuân thủ các quy định bảo quản, trông giữ, vận
chuyển, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng các quy định của pháp
luật.”
8
. Do đó, khi có thiệt hại xảy ra do nguồn nguy hiểm cao độ, trước tiên
7

(7) : Theo Điều 165 BLDS 2005, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2009, tr 77.
8
(8) : Trích khoản 1 Điều 623 BLDS 2005, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2009, tr 263.
8

×