VỢ CHỒNG A PHỦ
I/ Kiến thức cơ bản cần nắm vững:
1/ Vài nét về nhà văn Tơ Hòai:
- Là một nhà văn có bút lực dồi dào, có vốn sống phong phú, có khả năng quan sát và năng
lực nắm bắt tinh nhạy , diễn tả chính xác những đặc điểm của chân dung nhân vật, của phong
cảnh thiên nhiên và của những phong tục tập qn trong những vùng cư dân khác nhau.
2/ Nêu xuất xứ và hòan cảnh sáng tác truyện ngắn “Vợ chồng Aphủ”:
- “Vợ chồng Aphủ” in chung trong tập Truyện Tây Bắc - tập truyện được giải nhất về
truyện, ký của Hội Văn nghệ Việt Nam 1954- 1955.
- Truyện Tây Bắc là kết quả của chuyến thâm nhập thực tế của Tơ Hồi cùng bộ đội vào
giải phóng Tây Bắc năm 1952. Trong chuyến đi này, Tơ Hồi đã sống và gắn bó nghĩa tình
với đồng bào các dân tộc Tây Bắc. Và chính cuộc sống của đồng bào miền núi đã khơi
nguồn cảm hứng sáng tạo để Tơ Hồi hồn thành 3 truyện ngắn Cứu đất cứu mường; Mường
Giơn giải phóng ; Vợ chồng Aphủ.
3/Tóm tắt cốt truyện và nêu chủ đề tác phẩm:
* Tóm tắt cốt truyện: Khi tóm tắt theo nhân vật chính là Mỵ và APhủ,cần đảm bảo một số ý
chính:
+ Mị là cơ gái trẻ đẹp,u đời, có khát vọng tự do, hạnh phúc.Chỉ vì món nợ cha mẹ Mỵ
vay nặng lãi của thống lý Ptra mà Mỵ bị bắt về làm dâu để trừ nợ cho nhà thống lý.
+ Lúc đầu, Mỵ phản kháng lại cuộc sống bất cơng ở nhà Ptra, nhưng dần dần cơ đành rơi
vào câm lặng, chỉ “lùi lũi như con rùa ni trong xó cửa”.
+ Đêm tình xn đến, Mỵ muốn đi chơi nhưng đã bị ASử trói đứng vào cột nhà.
+ A Phủ là một thanh niên khỏe mạnh, lao động giỏi, nhưng A Phủ khơng lấy được vợ vì
mồ cơi. Vào một đêm mùa xn, vì bất bình với hành động bạo ngược của ASử, nên APhủ
đã đánh nhau với A Sử. A Phủ bị bắt, bị phạt vạ và trở thành kẻ đi ở trừ nợ cho nhà thống lí.
+ Vì để mất một con bò, A Phủ bị Pá Tra bắt trói đứng mấy ngày đêm. Mị cảm thơng,
cởi trói cho A Phủ. Với khát vọng sống mãnh liệt, Mị chạy theo A Phủ.
+ Hai người đến Phiềng Sa thành vợ thành chồng. Họ được giác ngộ cách mạng, cùng
dân làng chống thực dân Pháp và tay sai.
* Chủ đề :
- Phản ánh số phận nơ lệ và sức sống tiềm tàng, khát vọng tự do của những dân lao động
nghèo miền núi dưới sự áp bức của bọn phong kiến chúa đất và bọn thực dân.Từ đó, nhà
văn đã thức tỉnh họ, đưa họ đến với cách mạng và cho họ một cuộc sống mới.
4/ Gía trị nội dung tư tưởng của tác phẩm:
* Gía trị hiện thực:
- Phản ánh bộ mặt của chế độ phong kiến miền núi khắc nghiệt, tàn ácvới những cảnh
tượng hãi hùng như địa ngục trần gian.( nạn cho vay nặng lãi; cảnh phạt vạ, xử kiện; tục
lệ trình ma ; sự bóc lột sức lao động và áp chế về tinh thần của người dân lao động hết sức
tàn bạo…)
- Phản ánh cuộc sống cơ cực , bò đè nén bởi áp bức nặng nề của người dân miền núi
Tây Bắc dưới ách thống trò của bọn phong kiến và thực dân .( số phận bi thảm của Mị và
của Aphủ ở nhà thống lý Pátra)
=> Bức tranh đời sống xã hội của dân tộc miền núi Tây Bắc - một thành cơng có ý nghĩa
khám phá của Tơ Hồi về đề tài miền núi.
- Phản ánh những quy luật của xã hội :
+ Bị đày ải lâu trong một thế giới khơng có nhân tính, khơng có tình người, cả Mị và Aphủ
đều trở thành những con người an phận, thiếu ý thức đấu tranh, thậm chí lạnh lùng vơ cảm.
+ Nhưng khi bị ức hiếp, bị đẩy đến đường cùng, người lương thiện ( Mị và Aphủ) sẽ vùng
dậy tự giải phóng mình. Tình hữu ái giai cấp sẽ tạo sức mạnh để họ tự giải thốt .
=> Tơ Hồi đã nắm bắt và miêu tả hiện thực trong xu thế của cách mạng.Từ đó mở ra lối
thoát cho nhân vật vùng lên làm CM, xóa bỏ chế độ PK – gắn cuộc đấu tranh tự giải
phóng cá nhân với cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp , giải phóng dân tộc.
* Gía trị nhân đạo :
- Cái nhìn nhân văn về thiên nhiên và con người Tây Bắc ( một Tây Bắc trong con mắt
nhà văn rất đỗi thơ mộng, hùng vĩ với mùa xn đẹp, gợi cảm. Tiếng sáo, tiếng hát ngây
ngất lòng người. Con người Tây Bắc đẹp về nhiều phương diện : từ ngoại hình đến tâm hồn
và năng lực lao động)
- Lòng thương cảm sâu sắc của nhà văn với người dân lao động nghèo miền núi:
+ Cảm thơng sâu sắc với số phận cùng khổ của người dân bị áp bức.
+ Căm ghét, lên án thế lực thống trị tàn bạo.
+ Ngợi ca những gì tốt đẹp của người dân lao động.
- Trân trọng, đề cao những khát vọng chính đáng và tin vào khả năng tự làm chủ cuộc
đời của người dân lao động.
- Đi tìm hướng đi cho nhân vật bằng cách chỉ ra con đường giải phóng cho những người
dân lao động có cuộc đời tăm tối và số phận bi thảm.
5/ Những đặc sắc về nghệ thuật của tác phẩm :
- Nghệ thuật xây dựng và miêu tả tâm lý , tính cách nhân vật sinh động, có cá tính đậm
nét :
+ Với Mị : Chủ yếu miêu tả dòng ý nghĩ, tâm tư…
nhân vật tâm trạng.
+ Với Aphủ : chú yếu khắc họa qua hành động, cơng việc, những đối thoại giản
đơn
nhân vật hành động.
- Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên và cuộc sống sinh hoạt :
+ Miêu tả phong tục ,tập qn chân thực , đậm màu sắc dân tộc ( cảnh xử kiện, khơng khí
lễ hội mùa xn, tục cướp vợ, tục cho vay nặng lãi…)
+ Miêu tả thiên nhiên miền núi với những chi tiết, hình ảnh thấm đượm chất thơ.
- Ngơn ngữ tinh tế, đậm màu sắc miền núi.
Đề 1: Phân tích nỗi khổ nhục và sức sống tiềm tàng của nhân vật Mỵ (trong phần 1) của
truyện ngắn “Vợ chồng APhủ” của Tơ Hồi .
* Gợi ý
a. Trước khi bị bắt về làm dâu trừ nợ cho thống lý Ptra,Mỵ là một cơ gái :
- Trẻ trung,u đời, có khát vọng hạnh phúc.
- Cần cù lao động,hiếu thảo với cha.
- Có tài thổi kèn lá, được nhiều trai bản u mến…
Lẽ ra Mỵ phải được sống hạnh phúc.
b.Từ khi Mỵ bị bắt về làm dâu trừ nợ :
- Về thể xác :
+ Mị bị đối xử chẳng khác gì nơ lệ : bị bóc lột tận cùng sức lao động(“Tết xong thì lên
núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặc đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp, và dù lúc
đi hái củi lúc bung ngơ, lúc nào cũng gày một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi. Bao
giờ cũng thế, suốt năm suốt đời như thế. Con ngựa con trâu làm có có lúc , đêm nó còn được
đúng gãi chân nhai cỏ, đàn bà con gái trong nhà này thì vùi đầu vào công việc cả đêm cả
ngày”)
+ Bị A Sử đánh đập hành hạ, trói đứng.Mị bị đẩy vào tình trạng câm lặng , “Mị tưởng
mình là con trâu, con ngựa”, thậm chí còn không bằng con trâu, con ngựa.
- Về tinh thần :
+ Cuộc sống tinh thần của Mị trong nhà thống lí Pá Tra bị định đoạt bằng buổi cúng
ma ( bị thần quyền đe dọa).
+ Cuộc sống hôn nhân không tình yêu (Mị phải sống với A Sử- một người mà Mị không
hề có tình yêu thương) với người phụ nữ, đây là bi kịch .
+ Mị ở trong cái buồng “ kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay, lúc nào
cũng trong ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng” – căn buồng gợi
lên không khí tù túng, chập hẹp như một nhà tù giam hãm cuộc đời Mị
+ Mị mất hết cảm giác, thậm chí mất hẳn đời sống ý thức, sống mà như chết (“ lúc nào
cũng cúi mặt buồn rười rượi”; “ lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”.)Mị thật sự bị đẩy
vào tình trạng cùng khổ về vật chất, bế tắc về tinh thần.
c. Sức sống mãnh liệt và khát vọng hạnh phú c của Mị ( thể hiện qua 3 lần Mị phản kháng
chống lại số phận) :
- Lần 1 : Mị định ăn lá ngón để tự tử -> ý thức về cuộc sống tủi nhục của mình-> không
chấp nhạn kiếp sống “ người-vật” -> Mị tìm đến cái chết như một phương tiện giải thoát
chính là hành động để khẳng định lòng ham sống, khát vọng tự do của mình.
- Lần 2 : Trong đêm tình xuân,Mị muốn đi chơi:
+ Tiếng sáo gọi bạn làm Mỵ nhớ lại những tháng ngày tươi đẹp trong quá khứ
+ Mị lấy rượu ra uống “ ừng ực từng bát”- Phải chăng Mị đang uống khát khao, mơ ước,
căm hận vào lòng.
+ Khát vọng sống bừng lên trong Mị “ Mị trẻ lắm, Mị vẫn còn trẻ, Mị muốn đi chơi”.
+ Mị thấy phơi phới trở lại, đến góc nhà lấy ống mỡ xắn một miếng bỏ vào đĩa đèn cho
sáng -> thắp sáng niền tin, từ giã tăm tối.
+ Mị lấy váy áo định đi chơi. Bị A Sử trói vào cột nhà, Mị vẫn thả hồn theo cuộc
chơi, tâm hồn Mị cứ bồng bềnh bay theo tiếng sáo…
- Lần 3 :Đêm mùa đông, Mị cởi trói cho APhủ :
+ Chứng kiến cảnh APhủ bị hành hạ có nguy cơ phải chết, lúc đầu Mị không quan tâm
“ dù APhủ có là cái xác chết đứng đấy cũng vậy thôi” -> Phải chăng đó là chứng tích của
việc Mị bị đày đoạ một cách đau đớn cả về thể xác và tinh thần làm cho Mị từ một phụ nữ
nhân hậu trở thành vô cảm.
+ Khi thấy “ dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã đen xám lại” của APhủ, Mị
đã xúc động.Thương mình, thương người -> Mị quyết định cởi trói cho APhủ.
+ Mị đứng lặng trong bóng tối rồi chạy theo APhủ trốn khỏi Hồng Ngài với một lí do “ Ở
đây thì chết mất”
-> hành động tự giải thoát khỏi số phận tăm tối của Mị hoàn toàn mang tính tự phát : Cởi
trói cho APhủ cũng chính là Mị đã cởi trói cho cuộc đời mình.Chấp nhận cuộc sống trâu
ngựa và khao khát được sống một cuộc sống của con người ; khát vọng hạnh phúc đã
giúp Mị chiến thắng số phận tăm tối.
III/ Kết bài :
- Qua việc khắc hoạ nhân vật Mị, Tô Hoài đã phần nào tố cáo chế độ thống trị của bọn thực
dân phong kiến, ca ngợi phẩm chất cao đẹp của những người vùng cao nói chung và thanh
niên người Mèo nói riêng. Họ biết yêu cái đẹp, lẽ phải để rồi vượt lên tìm lại chính mình.
- Sức sống của nhân vật Mị được Tô Hoài khắc hoạ hết sức tài tình, độc đáo với những diễn
biến tâm lý, tính cách phức tạp…
Đề 2: Phân tích diễn biến tâm trạng và hạnh động của nhân vật Mị trong cảnh đêm hội
mùa xuân ở Hồng Ngài trong truyện ngắn “ Vợ chồng APhủ” của Tô Hoài.
Dàn bài gợi ý
I/ Mở bài :
- Giới thiệu vài nét về tác phẩm
- Giới thiệu về nhân vật Mị (đặc biệt là diễn biến tâm trạng và hành động của Mị trong đêm
mùa xuân)
II/ Thân bài :
1/ Nêu khái quát về thân phận Mị ở Hồng Ngài (trong nhà thống lí Phá tra)
- Mị vốn là người có phẩm chất đẹp đẽ (sống hiếu thảo với cha ; trẻ đẹp yêu đời, có tài
thổi sáo)
- Bị bắt làm dâu gạt nợ cho thống lí Phá Tra, Mị sống kiếp nô lệ, cô đã phản ứng quyết
liệt, muốn dùng cái chết để phản đối.Nhưng vì thương cha,Vì món nợ truyền kiếp, Mị phải
sống câm lặng, cam chịu.
2/ Tâm trạng và hành động của Mị khi mùa xuân về (đặc biệt trong đêm tình xuân).
a/ Hoàn cảnh nảy sinh tâm trạng :
- Mùa xuân trên núi cao với những sắc xuân rực rỡ “ Những chiếc váy hoa… xoè ra
như con bướm sặc sỡ”, “ Hoa thuốc phiện vừa nở trắng lại đổi ra mầu đỏ au, đỏ thẫm, rồi
sang màu tím man mát”
- Những âm thanh rộ rã báo hiệu mùa xuân: “ Đám trẻ… chơi quay, cười ầm trên sân
chơi trước nhà” ; âm thanh tiếng sáo, tiếng khèn dập dìu của nam nữ thanh niên…
-> Sự sống của tạo vật và con người như được khơi động, bừng tỉnh. Hoàn cảnh ấy
không thể không tác động vào tâm hồn Mị. Nhất là tiếng sáo, tiếng sáo rủ bạn đi chơi
ngoài đầu núi …
b/ Tâm trạng và hành động của Mị :
+ “ Mị nghe tiếng sáo vọng lại thiết tha bồi hồi . Mị nhẩm lại bài hát của người đang
thổi” -> tiếng sáo đã đánh thức kỉ niệm của một thời con gái của Mị” “ ngày trước Mị
thổi sáo giỏi.Mùa xuân này, Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mị uốn chiếc lá trên môi,thổi
lá cũng hay như thổi sáo …”. Với Mị, tiếng sáo là biểu tượng lôi cuốn nhất của mùa
xuân, của khát vọng hạnh phúc.
+ Ngày tết, Mị cũng uống rượu “ Mị lén lấy hũ rượu uống ừng ực từng bát …” Men
rượu như tăng thêm nồng nàn sức trẻ đang bừng lên trong Mị, Mị thấy phơi phới trở lại, “ Mị
trẻ lắm,Mị còn trẻ, Mị muốn đi chơi”.
+ “ Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho
sáng”.Ngọn đèn làm ấm lên gian buổng tối tăm, lạnh lẽo. Hơi rượu nồng nàn cùng tiếng sáo
rập rờn, thôi thúc Mị đi đến quyết định : Muốn đi chơi. “ Mị quấn lại tóc, với tay lấy cái váy
hoa vắt ở giá trong.”
+ Đúng lúc ấy, sợi dây trói tàn bạo của ASử kịp thời quăng lưới vào khát vọng của
Mị, ý muốn đi chơi bị chặn đứng.
+ Thực tại cứa vào da thịt bằng những lằn dây trói. “ Trong bóng tối, Mị đúng
lặng như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu còn nồng nàn, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa
Mị đi theo những cuộc chơi. Mị vùng bước đi nhưng tay chân đau không cựa được” . Mộng
du tan biến trong ý nghĩa cay đắng về thân phận “Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con
ngựa”.
-> Như vậy sự quẫy đạp lần này không đủ để thay đổi số phận của Mị nhưng lại đầy ý
nghĩa. Dây trói là hiện thân
3/ Diễn biến tâm lí nhân vật Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ
- Những đêm khuya, Mị ra thổi lửa để sưởi, Mị đã thấy A Phủ bị trói, Mị bị A Sử đánh vì
ngứa chân ngứa tay nhưng cô vẫn cứ ra sưởi. “Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy cũng
thế thôi”. Mị đã sống vô ý thức, tâm hồn đã vô cảm, chai sần.
- Đêm nay nhìn thấy nước mắt A Phủ, Mị nhớ lại đêm năm trước bị A Sử trói, khi “sợi dây
gai dưới bắp chân vừa lỏng ra, Mị ngã gục xuống”.Đêm ấy Mị đã khóc, còn bây giờ đây
Mị dường như không còn biết khóc nữa. Chính dòng nước mắt nhân tình khổ đau đã thành
dòng nham thạch nung chảy tâm hồn đã đóng băng của Mị. Thì ra đôi mắt “trừng trừng”,
những cái đấm đá và bao nhiêu hành động phi nhân mà Mị phải chịu đã trở thành cuộc đời
thường của cô. Cho nên dòng nước mắt chính là sự kiện bất bình thường gợi khơi cô nhớ lại
quá khứ. Vừa thương mình, vừa căm phẩn lũ người tàn ác vừa bị ám ảnh bởi cái chết, ám
ảnh bởi con ma nhà thống lí, vừa nhớ tới một người đàn bà cùng thân cùng phận như mình
đã chết trong quá khứ vừa nghĩ tới số phận phải chết vô lí của A Phủ… Tâm hồn Mị nổi
sóng bấn loạn. Vậy là dòng nước mắt của A Phủ đã làm mị nhớ tới nước mắt của mình, Mị
nhớ tới cái chết nhãn tiền của A Phủ. Từ số kiếp A Phủ, Mị lại nghĩ tới mình đã về “trình
ma nhà nó rồi” không phương thoát khỏi nhưng A Phủ không lí gì phải chết…
- Những ý nghĩ ấy thực ra nó thúc đẩy bắt buộc phải có hành động đáp ứng. Mị cởi trói cho
A Phủ và đặt mình phải lựa chọn con đường chạy theo A Phủ hay là được trói đứng như
ngày nào cho đến chết. Thời điểm hệ trọng này “con ma” cũng không đủ sức giữ chân Mị
lại, Mị cứu A Phủ là tự cứu mình mà cô đã không biết. Chẳng cưới xin, họ đã trở thành
vợ chồng từ cái đêm đầy ý nghĩa ấy, cái đêm vì nghĩa trước lúc vì tình”.
- Đây là đoạn văn bản lề khép mở hai cuộc đời: Đóng lại một kiếp khổ nhục, nô lệ để đi
vào một cuộc sống mới. Tô Hoài đã làm cho mạch truyện chuyển biến hợp lí, khiến cho tác
phẩm không có những vết cắt, và những chỗ ghép giả tạo. Cũng cần lưu ý giọng văn ở đoạn
này rất đa dạng. Giọng kể, giọng bán trực tiếp của nhân vật của và giọng nhân vật, Những
giọng này góp phần mổ xẻ tâm trạng, Mị khá thành công, khá sinh động và có sức thuyết
phục người đọc khá cao.
III/ Kết bài : Tóm lược nội dung đã phân tích.Khẳng định vai trò của nhân vật Mị trong việc
thể hiện chủ đề tư tưởng của tác phẩm.
Bài làm 2 :
Vợ chồng A Phủ” là một trong ba truyện của tác phẩm “ Truyện Tây Bắc” đã đoạt giải nhất
giải thưởng của Hội văn nghệ Việt Nam năm 1954-1955. Là một truyện ngắn xuất sắc, “Vợ
chồng A Phủ” càng biểu hiện sinh động và gây ấn tượng mạnh không phải chỉ qua nội dung
mà còn do nghệ thuật miêu tả tâm lí rất tài tình và hấp dẫn của nhà văn. Trong tác phẩm,
nhân vật Mị biểu hiện rất rõ khi cô có những biến đổi trong tâm lí trước hoàn cảnh sống và
tìm cho mình một con đường hi vọng. Đặc biệt là diễn biến tâm lí của cô trong đêm tình mùa
xuân ở Hồng Ngài.
Những ngày đầu làm dâu, Mị thấm thía nỗi đau của một cuộc đời bị cướp đoạt, “đêm nào
Mị cũng khóc”, Mị muốn tự tử. Bởi vì, Mị không muốn chấp nhận một cuộc sống chết mòn
héo úa, điều này chứng tỏ trong con người Mị tiềm ẩn một sức sống mạnh liệt, muốn thoát
khỏi cuộc sống nô lệ. Nhưng thương cha sẽ phải gánh chịu hậu quả về cái chết của mình, Mị
đành vứt nắm lá ngón, trở lại nhà thống lí.
Ngày lại ngày qua, nỗi khổ cùng cực đã dồn nén dần cái sức sống tiềm tàng ấy vào tận đáy
buồng tim Mị. Mị không nghĩ đến cái chết nữa. Mị bị biến thành một công cụ lao động cho
nhà thống lí Pá Tra. Cuộc đời của Mị “ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Mị bị đọa
đày đến mức bị tê liệt về tinh thần, buông xuôi, phó mặc cho hoàn cảnh “Bây giờ thì Mị
tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa”, “biết đi làm mà thôi”. Mị còn
phải chịu nỗi đau về tinh thần triền miên. Căn buồng của Mị ở là một thứ ngục thất giam cầm
tù nhân “ Ở cái buồng Mị nằm, kín nút, có một…không biết là sương hay nắng”.
Nhưng giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm là ở chỗ nhà văn đã nhìn thấy sức sống vẫn còn
tiềm tàng trong Mị. Sức sống ấy sẽ vẫn bùng cháy khi có cơ hội. Và nó đã đến trong đêm
tình mùa xuân.
Mùa xuân thường mang lại cho con người hi vọng, ước mơ, là mùa lễ hội, vui chơi, mùa của
tình yêu.
Năm ấy ở Hồng Ngài gió và rét dữ dội. Mùa xuân đến mang theo âm thanh đặc trưng của nó.
Âm thanh rộn rã của trẻ con chơi đùa, đặc biệt là tiếng sáo gọi bạn tình hòa cùng màu sắc sặc
sỡ của váy áo phơi trên những mỏm đá. Đặc biệt là tiếng sáo gọi bạn trong đêm tình xuân
tha thiết, bồi hồi vọng đến tai Mị. Tiếng sáo thấm vào trái tim Mị, thức tĩnh sự câm lặng bấy
lâu nay. Từ trong tâm trạng lặng lẽ, u uẩn, một cuộc sống vô vị không có quá khứ, không có
hiện tại và không có cả tương lai. Mị nghe tiếng sáo tha thiết gọi bạn mà hồi tưởng những
ngày hồn nhiên, tươi trẻ thuở xưa. Ngày ấy Mị thổi sáo giỏi. Tiếng sáo giúp Mị nhận ra một
điều tưởng như đã chìm vào quên lãng.
Mị uống rượu “Mị lén lấy hủ rượu, cứ uống ức từng bát” . Cô đang uống đắng cay của
cái phần đời đã qua và muốn thoát khỏi thực tại.
Rượu làm thân xác cô say, nhưng tâm hồn cô lại tỉnh, Mị với cõi lòng phơi phới trở lại với
thời con gái trẻ trung, hạnh phúc.Mị như sống lại, Mị thấy yêu đời. Không khí mùa xuân chỉ
là một chất xúc tác, bởi vì nếu như sâu xa trong Mị không có một sưc sống tiềm tàng thì nó
đã không thực dậy với bao điều tốt đẹp. “Mị thấy lòng mình vui sướng lại. Mị trẻ lắm, Mị
vẫn còn trẻ”.
Cứ thế cho đến khi . Men rượu hay men cuộc đời đã nâng bỗng tâm hồn Mị trở về với ý thức
sâu sắc của nhân phẩm. Mị ý thức sự tồn tại của bản thân “ Nếu có nắm lá ngón trong tay
lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chớ không buồn nhớ lại nữa”. Nghịch lí trên cho thấy
khi niềm khát khao sống hồi sinh, con người không chấp nhận cái trạng thái vô nghĩa lí của
thực tại.
Nếu như lúc trước Mị hoàn toàn mơ hồ về thời gian. Mị không nhớ mình về đây được mấy
năm vì trước nay Mị đâu có mùa xuân. Nhưng giờ đây Mị muốn có cái quyền đơn giản như
bao người khác: “Mị muốn đi chơi”. Có thể đối với Mị là một sự thay đổi lớn lao và vẫn còn
kịp lúc, tuy bắt nguồn từ cảm xúc nhất thời nhưng nó cũng chứng tỏ Mị vẫn còn đó bao khát
khao. “Mị quấn lại tóc”. Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở trong vách.
Chính sự thay đổi đó làm cho A. Sử ngạc nhiên vì dưới mắt hắn Mị chẳng khác nào một nô
lệ. Hành động trói Mị tàn nhẫn của hắn tuy giam giữ được thể xác Mị, nhưng không thể giam
giữ tâm hồn Mị: “ Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi.”
Tâm hồn Mị giờ như chơi vơi trong mộng. Mị trở về thời xưa với bao ước vọng. Sức sống
trổi dậy làm Mị phơi phới, mơ mộng trong thoáng chốc nhưng rồi Mị cũng trở về thực tại.
Chính sức sống của Mị buộc cô phải nghĩ đến liệu cô có duy trì được nó hay không. Mị nhớ
đến người chị dâu đã bị trói chết. Mị sợ. Một khi ta biết sợ chết thì người ta càng thêm yêu
cuộc sống. Mị cũng vậy.
Với ngôn ngữ lựa chon một cách tinh tế, nghệ thuật trần thuật đặc biệt là thể hiện sâu sắc
diễn biến tâm lí nhân vật, tác giả làm cho người đọc cũng phải thổn thức, vui mừng đến xót
xa cho số phận nhân vật.
Mùa xuân rồi cũng qua đi nhưng sức sống tiềm tàng trong Mị đã được khơi dậy và chờ dịp
bùng lên. Với nghệ thuật khắc họa tâm lí nhân vật tinh tế Tô Hoài đã đem đến cho nhân vật
một hướng đi, một cuộc đời mới. Đó cũng chính là giá trị nhân văn cao đẹp của tác phẩm.
Đồng thời cũng cho thấy tài năng của Tô Hoài cùng những đóng góp của ông cho văn học
Việt Nam.
Đề 3: Phân tích giá trị nhân đạo của Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài) qua cuộc đời của Mị và
A Phủ
* Gợi ý
I. Văn xuôi giai đoạn kháng chiến chống Pháp (1945 – 1954) thực sự là một quá trình
thí nghiệm, kiếm tìm sự phù hợp giữa nghệ thuật và cuộc sống. Thời gian ngắn, số lượng tác
phẩm còn lại được đến hôm nay không nhiều, nhất là ở hai thể loại tiểu thuyết và truyện
ngắn. Chúng ta đặc biệt trân trọng những tác phẩm tinh túy của chặng đường văn học đặc
biệt này, trong đó có truyện ngắn xuất sắc Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài.
Vợ chồng A Phủ vừa là thành tựu tương đối hiếm hoi của văn xuôi kháng chiến, vừa ghi
dấu sự trưởng thành của ngòi bút Tô Hoài trong sự chiếm lĩnh mảng đề tài miền núi, một đề
tài tới nay vẫn còn nhiều mới lạ với bạn đọc. Truyện được tổ chức chặt chẽ, dẫn dắt rất dung
dị, tự nhiên, không cần chạy theo những chi tiết li kì rùng rợn mà vẫn có sức hút mạnh mẽ.
Có được điều đó chính là nhờ cái nhìn hiện thực sắc bén và chủ nghĩa nhân đạo tích cực của
nhà văn. Sự thể hiện cuộc đời hai nhân vật trung tâm từ bóng tối đau khổ, ô nhục vươn ra
ánh sáng của tự do và nhân phẩm đã chứng minh rất rõ điều đó.
II. Sự cảm thông sâu sắc của nhà văn với số phận bất hạnh của Mỵ và APhủ và
phê phán gay gắt các thế lực tàn bạo :
1.Với Mị :
a. Mị xinh đẹp, chăm làm nhưng nghèo khổ, có thể nói “Khổ từ trong trứng”. Bố mẹ
nghèo , cưới nhau không có tiền phải vay nợ nhà thống lí. Nợ chưa trả hết, người mẹ đã qua
đời. Bố già yếu quá, món nợ truyền sang Mị, Thống lí Pá Tra muốn Mị làm con dâu “gạt
nợ”. Mà quan trên đã muốn, kẻ dưới làm sao thoát được! Pá Tra xảo quyệt, lợi dụng tục lệ
của người Mèo, cho cướp Mị về. Thế là không có cưới hỏi, không cần tình yêu mà vẫn hoàn
toàn hợp lẽ. Có ai dám bênh vực Mị! Ngòi bút hiện thực tỉnh táo của Tô Hoài đã phanh trần
bản chất bóc lột giai cấp ẩn sau những phong tục tập quán.
b Mị, tiếng là con dâu nhưng thực sự là một nô lệ, thứ nô lệ người ta không phải là
mua mà lại được tha hồ bóc lột, hành hạ:
- Mị ở nhà chồng như ở giữa địa ngục. Không có tình thương, không sự chia sẻ vợ
chồng; chỉ có những ông chủ độc ác, thô bạo và những nô lệ âm thầm, tăm tối. Dần dần rồi
Mị cũng quên luôn mình là con người nữa. Suốt ngày “Mị lầm lũi như con rùa nuôi trong xó
cửa”, lúc nào cũng cúi mặt, thế giới của Mị thu hẹp trong một cái ô cửa sổ” mờ mờ trăng
trắng, không biết là sương hay là nắng”.
Kết quả của hoàn cảnh sống thật chua xót: “Ở lâu trong cái khổ Mị quen rồi”, cô nhẫn
nhục, cam chịu đến thành tê liệt ý thức: “Là con trâu, con ngựa phải đổi từ cái tàu ngựa nhà
này sang tàu ngựa nhà khác, con ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết làm mà thôi”.
*Bình :Ai có thể ngờ cô gái trẻ trung, yêu đời ngày nào thổi sáo hồi hộp chờ đợi người yêu,
đã từng hái lá ngón định ăn để khỏi chịu nhục, giờ đây lại chai lì, u mê đến thế. Quả thật
hoàn cảnh quyết định tính cách. Nguyên tắc biện chứng của chủ nghĩa hiện thực đã được nhà
văn tuân thủ nghiêm ngặt. Sự yếu đuối của kẻ nô lệ, sự vùi dập tàn bạo của bọn bốc lột tất sẽ
dẫn đến cảnh ngộ bi đát ấy. Nỗi khổ nhục của cô gái Mèo này thật đã có thể so sánh với nỗi
nhục của Chí Phèo khi “Đánh mất cả nhân tính lẫn nhân hình”. (Thật ra, Chí Phèo còn có
lúc nghênh ngang, còn dọa nạt được người khác). Nếu xem xét giá trị hiện thực của một
tác phẩm như là sự phản ánh chân thật cuộc sống, thì Vợ chồng A Phủ quả là bản cáo
trạng hùng hồn về nỗi thống khổ của người phụ nữ miền núi, vừa chịu gánh nặng của
chế độ phong kiến, vừa bị trói chặt trong xiềng xích của thần quyền. Tâm lý nơm nớp sợ
“Con ma nhà Thống Lý” đã nhận mặt mình từ buổi bị bắt về”Cúng trình ma” là một ám ảnh
ghê gớm đè nặng suốt cuộc đời Mị (ngay cả đến khi cô đã trốn thoát khỏi Hồng Ngài). Xem
thế đủ thấy bọn thống trị cao tay đến nhường nào trong nghệ thuật “ ngu dân” để dễ trị.
Có thể nói, nhà văn đã không hà tiện cung cấp cho người đọc những chi tiết có giá trị
bóc trần bản chất xã hội vô nhân đạo, ở đó thân phận người dân nghèo mới mong manh bất
ổn làm sao! Ta sững sờ trước cảnh cô Mị lặng lẽ ngồi lơ lững trong những đêm đông buốt
giá, thằng chồng thì đi chơi về khuya ngứa tay đánh Mị ngã dúi xuống đất. Lại còn có cái
hình ảnh nhức nhối phũ phàng: người con gái bị trói đứng vào cột trong buồng tối, bị trói chỉ
vì muốn đi chơi tết như bạn bè. Sự bất lực của Mị tràn theo dòng nước mắt chua chát trên má
môi mà không có cách gì lau đi được.
2.APhủ :
- Cuộc đời nô lệ của A Phủ thật ra là sự lặp lại với ít nhiều biến thái chính cuộc
đời Mị. Lý do mà Thống Lí Pá Tra buộc A Phủ phải thành người ở công không, không phải
vì cuộc ấu đả thường tình của đám trai làng. Vấn đề là ở chỗ pháp luật trong tay ai? Khi kẻ
phát đơn kiện cũng đồng thời là kẻ ngồi ghế quan toà thì còn nói gì tới công lý nữa! Vậy nên
mới có cảnh xử kiện quái gỡ nhất trên đời mà chúng ta được chứng kiến tại nhà Thống Lí.
Kết quả là người con trai khỏe mạnh phóng khoáng vì lẽ công bằng mà phải đem cuộc đời
mình trả nợ nhà quan.
=> Cảnh ngộ của hai nhân vật Mị và A Phủ ít nhiều gợi đến những Chí Phèo, chị Dậu,
những chú AQ và những thím Tường Lâm… Đó là những hình tượng nghệ thuật được cô
đúc từ chính cuộc đời đau khổ trong xã hội cũ.
III.Trân trọng những phẩm chất tốt đẹp của người bất hạnh và vạch ra hướng đi cho
họ.
- Tô Hoài trong khi đào sâu vào hiện thực đã phát hiện ra con đường tất yếu mà các
nhân vật của ông đi tới. Sự đè nén quá nặng nề, những đau khổ chồng chất mà bọn thống trị
gây ra tất sẽ dồn những kẻ khốn cùng ấy tới sự chống trả và nếu gặp được ánh sáng soi
đường, họ sẽ đến được thắng lợi (Tô Hoài có cái may mắn là viết “Vợ chồng A Phủ” sau
cách mạng tháng tám). Tất nhiên nhà văn phải có con đường riêng cho sự thể hiện chân thật
chân lí đơn giản ấy.
- Lấy việc miêu tả tâm lí làm điểm tựa vững chắc, Tô Hoài đã tìm ra được sự phát triển
logic của tính cách. Đây mới thật sự là một giá trị hiện thực độc đáo của tác phẩm, và là chỗ
có sức thuyết phục mạnh mẽ nhất. (Tô Hoài đã chỉ ra sự hợp lí của quá trình tha hóa nhân
cách của cô Mị thời kì đầu. Mị làm việc nhiều quá, bị đày đọa khổ ải quá, mãi rồi Mị phải
“quen”, phải cam chịu. Lúc trước Mị không được quyền tự tử vì sợ liên luỵ với bố; giờ bố
chết, nhưng Mị không còn muốn tự tử nữa.):
+ Mị như một cái máy, không có ý thức, không cảm xúc ước ao. Liệu cô ta có thể
thức tỉnh được nữa không? Nhà văn trả lời: có. Nếu đã có một hoàn cảnh làm tê liệt tâm hồn
con người thì cũng sẽ có một hoàn cảnh đánh thức được nó. Hoàn cảnh nào đây? Phép mầu
nào đây? Kỳ diệu thay và cũng đơn giản thay.
+ Tiếng sáo mà Mị tình cờ nghe được giữa một ngày mùa xuân đầy hương sắc. Tất cả
chợt sống dậy, Mị thấy lòng “thiết tha bồi hồi”và lập tức nhớ lại cả quãng đời thiếu niên tươi
đẹp. Có gì lạ đâu nhỉ? Thanh niên Mèo ai chả yêu tiếng sáo, mà Mị lại là cô gái thổi sáo giỏi.
Hơn nữa, tiếng sáo đang chập chờn kia lại nhắc đến tình yêu, “gọi bạn yêu” nó thức dậy
trong sâu thẳm trong lòng cô khát vọng tình yêu thương và hạnh phúc. Như vậy tiếng sáo lại
động chính cái sức mạnh bền vững, bất diệt nhất của tuổi trẻ, Mị nhớ lại rành rõ “mình vẫn
còn trẻ lắm”, rằng “bao nhiêu người có chồng vẫn đi chơi xuân”. Và bên tai Mị cứ “lững
lờ”. Tiếng sáo sự bừng tỉnh từ sâu xa trong tâm hồn ấy biểu hiện bên ngoài bằng hành động
mới nhìn rất lạ: “Mị lén lấy hũ rượu cứ uống ừng ực từng bát. Rồi say, Mị lịm mặt ngồi
đấy”. Có ngọn lửa nào đang cần phải khơi lên hay cần phải dập tắt đi bằng hơi men vậy? Chỉ
biết rằng cô gái đã quyết thay váy áo đi chơi, điều mà bao năm rồi cô không nhớ đến
. Có thể coi đây là một bước đột biến tâm lí nhưng là kết quả hợp lí toàn bộ quá
trình tác động qua lại giữa hoàn cảnh với tính cách nhân vật. Sự “vượt rào” của Mị tuy
bị đàn áp ngay (A Sử đã tắt đèn, trói đứng cô vào cột); nhưng ý thức về quyền sống, khát
vọng về hạnh phúc đã trở lại. Mị lại biết khóc, lại muốn tự tử. Và những giọt nước mắt trong
cái ngày tàn nhẫn này sẽ lưu giữ trong lòng Mị như một vết bỏng rát để đến khi bắt gặp
những dòng nước mắt chảy “lấp lánh” trên gò má hốc hác của A Phủ, nó đã biến thành sự
đồng cảm sâu sắc giữa những người cùng khổ. Toàn bộ ý thức phản kháng của Mị hiện hình
qua một câu hỏi sáng rõ: “người kia việc gì phải chết?” Mị quyết định trong khoảnh khắc:
cắt dây trói giải thoát cho A Phủ. Và tất nhiên, Mị cũng bỏ trốn, tự giải thoát chính mình. Hai
kẻ trốn chạy chịu ơn nhau, cảm thông nhau, dựa vào nhau để tạo lập hạnh phúc. Thế nhưng
cái đồn Tây lù lù xuất hiện và lại có cha con Thống Lí Pá Tra về ở trong đồn, thì họ thật sự
bị dồn đến chân tường. Trước mặt họ, chỉ còn sự lựa chọn cuối cùng: trở lại kiếp nô lệ hay
chống kẻ thù. Chắc chắn họ thà chết còn hơn lại sống như cũ. Nhưng muốn chống kẻ thù, họ
trông cậy vào ai? Cách mạng đã đến với họ đúng giây phút ấy. Mị và A Phủ đi theo cách
mạng, sẽ thuỷ chung với cách mạng như một lẽ tất yếu!
- Bằng sự am hiểu cuộc sống và khả năng phân tích những vấn đề sắc bén, nhất là bằng
ngòi bút miêu tả tâm lí tinh tế, Tô Hoài đã tái hiện chân thật và sinh động cuộc hành trình từ
đau khổ, tối tăm ra phía ánh sáng cách mạng của những người dân lao động với chế độ cũ.
Tác phẩm đem lại cho bạn đọc nhận thức đúng đắn về con đường cách mạng dân tộc dân chủ
ở nước ta. Ngoài ra giá trị hiện thực của truyện còn được gia tăng bằng màu sắc địa phương
rất đậm nét với cảnh sắc, phong tục, sinh hoạt của người Mèo, bằng bản sắc tâm hồn độc đáo
của các nhân vật. Cùng một số phận, một cảnh ngộ, những diễn biến tâm lí của Mị rất khác
A Phủ. A Phủ mạnh mẽ, bộc trực, dứt khoát. Mị dường như chính chắn hơn nhưng lại yếu
đuối hơn.
Bất cứ tác phẩm văn học nào cũng chứa đựng thái độ của nhà văn đối với cuộc sống,
trước hết là với con người. Ngay giá trị hiện thực của ”Vợ chồng A Phủ” đã để lộ cái nhìn
nhân đạo, ưu ái của Tô Hoài.
Khi cô đúc nỗi cùng khốn vào hai thân phận nô lệ với ý thức làm một bản cáo trạng về xã
hội cũ, Tô Hoài đã gợi lên trong chúng ta sự căm phẫn, sự đau xót, sự cảm thông khi miêu tả
buổi lễ ăn thề giữa A Châu và A Phủ như là cuộc nhân duyên giữa quần chúng và cách
mạng, ông đem lại niềm tin về một tương lai sáng sủa cho những người bị áp bức.
Thật ra cũng khó tách bạch đâu là giá trị hiện thực, đâu là giá trị nhân đạo ở một
tác phẩm như “Vợ chồng A Phủ”. Hiện thực và nhân đạo nhiều khi hòa trộn với nhau.
Không thể không nói đến tính chân thật, chính xác, logic ở những đoạn mô tả tâm lí, nhưng
rõ ràng phải biết thông cảm, biết trân trọng nâng niu con người lắm, mới có thể xét đoán tâm
hồn người ta tinh tế như vậy. Thật khó quên hình ảnh cô Mị lần tìm về quỳ lạy trước mặt bố
mà khóc nức nở. Đứa con chưa kịp nói gì người cha đã biết:“Mày về quỳ lạy tao để mày
chết đấy à? Không được đâu con ơi”. Mị ném nấm lá ngón xuống đất, quay trở lại chốn địa
ngục trần gian. Phải, cô gái ấy vốn có một nhân cách đáng trọng. Cô thà chết để khỏi sống
khổ nhục, nhưng lại phải chấp nhận sống khổ nhục hơn bất hiếu với cha. Chính Mị, khi còn
trẻ đã biết xin bố:”con nay đã lớn rồi con sẽ thay bố làm nương trả nợ. Bố đừng bán con
cho nhà giàu”. Đó là con người biết yêu quý tự do, biết khẳng định quyền sống. Ngay cả lúc
bị hoàn cảnh vùi dập đến mê mụ, trong tro tàn của lòng cô vẫn âm ỉ đốm than hồng của niềm
ham sống, khao khát thương yêu. Nếu nhà văn chỉ tuân theo một thứ hiện thực khách quan,
lạnh lùng thì làm sao ông có thể đón đợi và nắm bắt tài tình giây phút sống lại bất ngờ và
mãnh liệt đến thế của cô gái. Không trước sau ông vẫn tin rằng hoàn cảnh dẫu có khắc nghệt
đến mấy, cũng không thể tiêu diệt hoàn tòan nhân tính. Mị đã sống lại bằng tuổi trẻ, bằng nỗi
day dứt về thân phận của mình. Chính cái khát vọng sống mãnh liệt không thể chết được ở
Mị, làm cho Mị đồng cảm với cảnh ngộ của A Phủ và đi đến quyết định giải thoát cho A
Phủ, giúp Mị tự giải thoát khỏi cái chốn địa ngục để làm lại cuộc đời, để sống như một con
người.
III. Tô Hoài đã trân trọng từng bước trưởng thành của Mị và A Phủ. Cái nhìn
của ông về hai nhân vật này là một cái nhìn nhân đạo tích cực. Ông cảm thông nỗi đau của
Mị và A Phủ, mặt khác ông trân trọng ý thức nhân phẩm, khát vọng giải phóng và tin ở khả
năng tự làm chủ trước cuộc đời của hai con người đau khổ này. Phải chăng, chính cái nhìn
đó đã tạo nên giá trị của tác phẩm.
Đề 4: Phân tích diễn biến tâm lí và hành động của Mị trong đêm cưởi trói cho A Phủ
trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của nhà văn Tô Hoài”.
Bài làm 1 :
I. Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm, nhân vật
1. Giới thiệu tác giả, tác phẩm (xem đề trên)
2. Giới thiệu nhân vật
Mị là nhân vật chính, linh hồn của tác phẩm góp phần quan trọng làm nên giá trị hiện
thực, nhân đạo của thiên truyện và thể hiện tài năng phân tích tâm lí đặc sắc của Tô Hoài. Tài
năng đó được bộc lộ một cách khá sinh động ở đoạn nhà văn mô tả quá trình diễn biến tâm lí
và hành động của Mị trong đêm cưởi trói cho A Phủ.
II. Phân tích quá trình diễn biến tâm lí và hành động của Mị
1. Thời điểm trước lúc cắt dây trói cho A Phủ
a. Lúc đầu, Mị như thờ ơ, Mị không nói lời nào, tuy từng biết APhủtrong cuộc “xử
kiện”. Khi thấy A Phủ bị hành hạ lần thứ hai (bị trói đứng) vì để hổ ăn thịt mất một con bò,
tuy ghét kẻ độc ác (Pá Tra) và thương A Phủ nhưng Mị vẫn lặng lẽ. “Chỉ chợp mắt được
từng lúc, Mị lại thức thổi lửa suốt đêm… Mấy đêm nay như thế, Mị đều thản nhiên thổi lửa,
hơ tay. Nếu A Phủ là xác chết đứng đấy cũng thế thôi”. Phải chăng, Mị là con người nhẫn
tâm? Không. Vì tội các xảy ra như cơm bữa trong nhà thống lí Pá Tra đã làm cho tâm hồn Mị
ít nhiều bị chai sạn.
b. Dần dần, hình ảnh A Phủ bị trói đứng, bị rét, bị đói, có thể chết đã làm cho Mị không
yên lòng, không đành lòng. Thời gian trôi đi, nỗi đau thể xác của A Phủ càng nặng, hình như
càng làm cho tình thương của Mị với A Phủ cũng tăng lên. Nhưng đêm nay, “dưới ngọn lửa
bập bùng sáng lên, Mị lé mắt trông sang, thấy hai con mắt A Phủ vừa mở, một dòng nước
mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” vì đau khổ và tuyệt vọng của A Phủ.
Chính dòng nước mắt “lấp lánh” kia đã chạm được đến đáy sâu chứa tình người bị chôn vùi
trong Mị. Nó làm cho Mị nhớ lại nỗi tuyệt vọng của mình ngày trước bị A Sử trói “Nhiều
lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được” và nghĩ đến người
đàn bà bị Pá Tra trói đến chết.
2. Hành động, tâm trạng của Mị khi cắt dây trói, giải thoát cho A Phủ
a. Từ chỗ thương mình, tâm hồn Mị dấy lên niềm cảm thông sâu sắc với những con
người cùng chung cảnh ngộ. Mị như nhìn thấy trước cái điều gì sẽ chờ đón A Phủ trong
những ngày sắp tới “cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét,
phải chết… Người kia việc gì mà phải chết thế?”
b. Mị nhớ lại đời mình, Mị tưởng tượng nếu A Phủ trốn được, Pá Tra sẽ bảo Mị cưởi
trói cho nó và sẽ chết ngay trên cọc trói. Nghĩ thế, nhưng tình thương đã lấn át tất cả “làm
sao Mị cũng không thấy sợ”. Mị sẵn sàng thế mạng cho A Phủ. Giây phút quyết định ấy là
giây phút đẹp nhất trong cuộc đời Mị, nó biến Mị thành con người cao thượng. Mị đã đi đến
một hành động táo bạo: “Mị rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây…”
3. Hành động, tâm trạng Mị sau khi cắt dây trói cho A Phủ
a. A Phủ được cởi trói thì Mị lại “hốt hoảng”. Mị chỉ thì thào nói với A Phủ cũng như tự
nói với mình “Đi ngay!” rồi Mị nghẹn lại, A Phủ khuỵu xuống. Nhưng trước cái chết đang ập
đến, A Phủ lại quật sức vùng lên, chạy. Mị đứng lặng trong bóng tối. “Rồi Mị cũng vụt chạy
ra”… “Mị vẫn băng đi”. Đuổi kịp A Phủ, Mị nói, thở trong hơi gió thốc lạnh buốt “A Phủ
cho tôi đi … ở đây thì chết mất”.
b. Thế là “Hai người lẳng lặng đỡ nhau lao xuống dốc núi” trốn khỏi Hồng Ngài, đến
Phiềng Sa để tìm lẽ sống, làm lại cuộc đời.
III. Kết luận
Diễn biến tâm lí của Mị được Tô Hoài mô tả rất hợp lí, logic, hiện thực và sinh động
làm nên sức sống lâu bền cho tác phẩm.
Bài làm 2 :
1. Giới thiệu sơ lược về Mị trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ
2. Phân tích tâm trạng Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ
- Giới thiệu sơ lược về A Phủ : một thanh niên có thân phận như Mị, cũng phải ở nàh
thống lý Pá Tra để gạt nợ. Do để mất bò mà bị trói đêm này sang đêm khác, ngày này
sang ngày kia.
- Tâm trạng của Mị trước đêm cởi trói cho A Phủ :
+ Cuộc sống đoạ đày trong nhà thống lý Pá Tra của Mị vẫn tiếp diễn. Thời gian đoạ
đày biến cô trở thành người câm lặng trước mọi sự. Những gì diễn ra chung quanh
không khiến Mị quan tâm. Những đêm đầu Mị thổi lửa hơ tay. Tâm hồn Mị như tê dại
trước mọi chuyện, kể cả lúc ra sưởi lửa, bị A Sử dánh ngã xuống bếp, hôm sau Mị vẫn
thản nhiên ra sưởi lửa như đêm trước.
+ Song, trong lòng, không phải chuyện gì Mị cũng bình thản. Mị rất sợ những đêm
mùa đông trên núi cao dài và buồn. Khi trong nhà đã ngủ yên, Mị tìm đến bếp lửa. Đối
với Mị, nếu khoôg có bếp lửa ấy, cô sẽ chết héo.
- Thương người cùng cảnh ngộ :
Chính nhờ ngọn lửa, đêm ấy, Mị trông sang A Phủ và nhìn thấy một dòng nước mắt
lấp lánh bò xuống má đã xám đen lại. Dòng nước mắt ấy khiến Mị chợt nhớ lại đêm
năm trước A Sử trói Mị, Mị cũng phải đứng trói thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt
chảy xuống miệng, xuống cổ, không lau đi được. Rồi Mị phảng phất nghĩ gần nghĩ
xa : Cơ chừng naàythì chỉ đêm mai là người kia chêt, chết đau, chết đói, chết rét, phải
chết. Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì còn biết đợi ngày rũ
xương ở đây mà thôi… Người kia việc gì phải chết thế?
- Tình thương lớn hơn cái chết :
Mị xót xa cho A Phủ như xót xa cho chính bản thân mình. Mị thương cho A Phủ
không đáng phải chết. Cô cũng sợ nếu mình cởi trói cho chàng trai ấy, bố con Pá Tra
biết được sẽ tói thay vào đấy và lại phải chết trên cái cọc ấy Song có lẽ tình thương ở
Mị đã lớn hơn cả sự chết. Tình thương ấy khiến cô đi đến hành động cởi trói cho A
Phủ.
- Từ cứu người đến cứu mình :
Khi cởi trói cho A Phủ xong, Mị đứng lặng trong bóng tối. Song, chính ngay lúc ấy,
trong lòng người đàn bà khốn khổ kia mọi chuyện diễn ra rất nhanh. Mị cũng vụt chạy
ra. Trời tối lắm. Nhưng Mị vẫn băng đi. Vì ở đây thì chết mất.
Đây không phải là hành động mang tính bản năng. Đúng hơn, cùng với sự trỗi dậy của
ký ức, khát vọng sống tự do, đã khiến Mị chạy theo người mà mình vừa cứu. Mị giải
thoát cho A Phủ Phủ và giải thoát cho cả bản thân mình! Hành động táo bạo và bất
ngờ ấy là kết quả tất yếu của sức sống tiềm tàng khi người con gái yếu ớt dám chống
lại cả cường quyền và thần quyền.
3. Kết luận :
Qua tâm trạng của Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ, chúng ta thấy được cả sức sống
tiềm tàng ở một người phụ nữ bị đoạ đày vả về thể xác lẫn tinh thần, tưởng chừng như
mất đi hết đời sống tâm hồn. Phải yêu thương và có một niềm tin mãnh liệt vào con
người nhà văn mới có được cái nhìn nhân đạo như vậy.
Tô Hoài đã miêu tả diễn biến tâm trạng của nhân vật Mị rất tự nhiên, hợp lý và chân
thực. Không thấy diễn biến tâm trạng của nhân vật sẽ không hiểu được hành động của
nhân vật đó. Hành động cuối cùng của Mị - cởi trói cho A Phủ - có vẻ bất ngờ nhưng
lại hợp với quy luật tâm lý con người, quy luật của cuộc sống. Nhà văn không chỉ đem
đến cho bạn đọc những nhân vật biết hành động mà quan trọng hơn là vì sao có hành
động ấy. Tô Hoài đã rất thành công khi xây dựng một nhân vật có sức sống bên trong
mãnh liệt đằng sau khuôn mặt vô hồn, vô cảm của Mị. Bởi vậy, có người đã xem đây
là “một nhân vật thành công bậc nhất trong văn xuôi cách mạng đương đại Việt Nam”
( Trần Đình Sử )
Bài làm 3 :
1. Nhà văn Tô Hoài là một đại biểu xuất sắc của nền văn học Việt Nam hiện đại. Với một
chặng đường sáng tác từ những năm bốn mươi của thế kỷ trước đến nay, nhà văn đã để lại
cho đời hàng trăm tập sách với nhiều thể loại khác nhau. Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” in
trong tập truyện “Tây Bắc”. Truyện “Vợ chồng A Phủ” là một tác phẩm đặc sắc trong sự
nghiệp sáng tác của ông. Thành công của truyện ngắn này là tái hiện được một hiện thực đen
tối của người dân miền núi Tây Bắc dưới ách bọn chúa đất chúa rừng. Truyện ngắn có hai
nhân vật chính trong đó nhân vật trung tâm là Mị. Mị vừa là hiện thân cho nỗi khổ vừa là
hiện thân cho sự tiềm ẩn sức sống và khát vọng vươn ra ánh sáng tự do. Nhà văn đã rất tinh
tế trong việc xây dựng tâm lý nhân vật này, đặt biệt là tâm lý tâm trạng trong cảnh ngộ cắt
dây trói cho A Phủ để giải thoát người và cũng tự giải thoát mình.
2.a. Nhân vật Mị trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” có một cuộc đời rất oái oan. Vốn là
một cô gái trẻ đẹp nhưng vì món nợ truyền kiếp mà Mị đã bị thống lí Pá Tra, một tên chúa
đất chúa rừng ở vùng cao Tây Bắc bắt làm con dâu gạt nợ. Khi rơi vào nhà thống lí Pá Tra,
Mị đã bị hành hạ cả về thể xác lẫn tinh thần. Dần dần Mị sinh ra cam chịu, Mị sống lầm lũi
như con rùa nuôi trong xó cửa, sống như một kẻ vô tri vô giác, gần như tê dại cảm xúc. Hàng
đêm Mị chỉ biết “làm bạn với ngọn lửa”, dù nhiều đêm A Sử đi chơi về đánh Mị ngã bên bếp
lửa nhưng Mị vẫn đêm nào cũng thế cứ thức dậy như cái bóng với ngọn lửa, không hề quan
tâm những cái gì diễn ra xung quanh.
A Phủ cũng là một người có cảnh ngộ như Mị, A Phủ là đứa con mồ côi. Nếu Mị đẹp thì A
Phủ lại khỏe mạnh nhưng vì đánh A Sử nên A Phủ trở thành kẻ ở nợ trong nhà thống lí. Có
một lần do sơ suất trong việc chăn đàn bò, A Phủ đã bị thống lí trói đứng ngoài cọc ở ngoài
trời. Đã nhiều đêm Mị thức dậy đốt lửa thì A Phủ mở mắt nhưng Mị cũng không hề quan
tâm, bởi Mị đã bị chai lì cảm xúc. Mị nghĩ A Phủ như cái xác chết đứng trước sân nhà mà
thôi. Như vậy lúc đầu gặp A Phủ, Mị chưa hề nảy sinh một chút cảm xúc, một chút cảm tình
bởi tâm lý của Mị đã bị sơ cứng tê dại.
b. Nhà văn Tô Hoài trong cảnh ngộ đó đã đưa ra một chi tiết rất bình thường, đó là một đêm
Mị vẫn ngồi dậy bên bếp lửa khi nhìn ra thấy “hai dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai gò
hõm má xám đen lại của A Phủ”. Mị bỗng nhiên bị thức dậy quá khứ, Mị nhớ lại trước đây
Mị đã bị A Sử trói đứng vào cột như thế, nhiều lần Mị khóc nước mắt chảy xuống miệng
xuống cổ mà không biết lau đi được. Thế là trông người lại ngẫm nghĩ đến mình, bắt đầu
thương mình. Và cũng theo quy luật tâm lý từ thương mình lại đến thương người, Mị thương
A Phủ người cùng cảnh ngộ.
c. Cái lạ của tình cảm con người là tình thương thường chỉ lớn dần lên và những tình cảm
chân chính lại thường nảy sinh ra một tâm lý hy sinh cho người khác, coi đó là một hạnh
phúc. Tình cảm của Mị khởi đầu là một sự thương cảm về một con người có cùng cảnh ngộ,
đó là một tình thương chân chính cho nên đã nảy sinh ở trong Mị những suy nghĩ muốn giúp
A Phủ. Mị đã nghĩ rằng “ta là thân đàn bà nó đã bắt về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết
đợi ngày rũ xương ở đây thôi, người kia việc gì mà phải chết thế”. Thế là nảy sinh một sự
đắn đo của Mị cho việc giải thoát A Phủ. Mị cũng đã hình dung được nếu A Phủ chạy thoát
thì người ta sẽ trói Mị vào cọc thay thế nhưng khi tình thương đã trỗi dậy, mọi lo lắng hốt
hoảng đã tan biến “làm sao Mị cũng không sợ”, thế là từ một tấm lòng trắc ẩn, Mị đã quyết
định cắt dây trói cho A Phủ để A Phủ chạy thoát.
d. Sau khi cắt dây trói và A Phủ cũng đã vùng chạy thì Mị lại giật mình thương mình. Mị bắt
đầu hốt hoảng lo sợ tai họa ập đến, nét tâm lý này dường như đối lập với nét tâm lý trước đó
nhưng đó là bản năng sinh tồn của con người, bản năng ham sống và Mị đã có quyết định táo
bạo trong chốc lát, đó là vùng chạy theo A Phủ để tìm đến sự đổi đời. Hành động vùng chạy
của Mị vừa là kết quả của tâm lý tức thời, tâm lý logic với hoàn cảnh, vừa là kết quả tất yếu
của một quá trình cựa quậy vượt ra tự do của Mị. Nó chẳng khác sức bật của lò so đã bị dồn
nén bấy lâu. Miêu tả nét tâm lý này chứng tỏ nhà văn Tô Hoài đã rất am tường với đời sống
của con người, nhất là đời sống của những người tuổi trẻ.
3. Với truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” nhà văn Tô Hoài đã thành công trên hai phương diện,
phương diện phản ánh hiện thực và phương diện diễn tả tâm lý tâm trạng của con người.
Nhân vật Mị trong tác phẩm sở dĩ sống động, sở dĩ được người đọc yêu mến là từ nhà văn Tô
Hoài đã có một tài nghệ, một sự tinh tế sắc sảo trong việc miêu tả tâm lý của nhân vật. Tâm
lý của Mị thường diễn ra ở hai cung bậc, một mặt là tâm lý của con người bị sức manh của
cường quyền và thần quyền áp đặt dẫn đến cam chịu. Ở một cung bậc khác nhà văn cũng
thấy được những nét tâm lý nổi loạn ở trong con người tuổi trẻ của Mị. Nét tâm lý thứ hai
này đã được thể hiện rất rõ, rất hợp quy luật trong đoạn văn diễn tả hành động cắt dây trói
cho A Phủ để cùng nhau giải thoát.
Qua diễn tả những nét tích cực của tâm lý nhân vật Mị, nhà văn đã thể hiện được cái nhìn rất
trân trọng đối với nhân vật của mình, những con người như Mị cường quyền và thần quyền
không dập tắt được, sức sống của họ như hòn than âm ỉ chỉ cần có cơ hội khi một ngọn gió
thổi tới thì hòn than lại bùng cháy. Thấy được điều đó chính là nhờ tác giả có tấm lòng yêu
thương trân trọng đối với những con người cùng khổ như Mị nói riêng, đối với người dân
miền núi Tây Bắc dưới ách bọn thực dân phong kiến nói chung.