Tải bản đầy đủ (.doc) (62 trang)

Tiểu luận môn an toàn vệ sinh thực phẩm Độc tố aflatoxin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.2 MB, 62 trang )

VIỆN CÔNG NGHỆ SINH HỌC VÀ THỰC PHẨM
Môn học : AN TOÀN VÀ VỆ SINH THỰC PHẨM
ĐỀ TÀI TIỂU LUẬN:
Tiểu luận môn ATVSTP: “Độc tố aflatoxin” GVHD: Trần Thị Mai Anh

GVHD :
Lớp học phần : 210501601
Nhóm :
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 11 năm 2010
2
Tiểu luận môn ATVSTP: “Độc tố aflatoxin” GVHD: Trần Thị Mai Anh
DANH SÁCH SINH VIÊN
Họ và tên MSSV
1.
2.
3.
4.
5.
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN











3


Tiểu luận môn ATVSTP: “Độc tố aflatoxin” GVHD: Trần Thị Mai Anh
MỤC LỤC
GVHD : 2
Lớp học phần : 210501601 2
Nhóm : 2
MỤC LỤC 4
MỞ ĐẦU 6
CHƯƠNG 1:TỔNG QUAN VỀ AFLATOXIN 7
1.Lịch sử phát hiện Aflatoxin 7
2. Các loài có khả năng sản sinh Aflatoxin 7
3. Điều kiện sản sinh Aflatoxin 8
3.1.Chủng sinh độc tố 8
3.2.Cơ chất và môi trường 9
4.Cấu trúc và các tính chất của Aflatoxin 11
4.1.Cấu trúc hóa học 11
4.2.Tính chất vật lí 12
4.3.Tính chất hóa học 13
4.4.Sự chuyển hóa và bài tiết aflatoxin 15
5. Độc tính của Aflatoxin 16
6.Các phương pháp phát hiện Aflatoxin 16
6.1.Phương pháp sinh học 16
6.1.1.Thử nghiệm trên vịt con 1 ngày tuổi 16
6.1.2.Thử nghiệm trên phôi gà 17
6.2.Phát hiện bằng đường lý - hoá học 18
6.2.1.Chiết xuất và tinh chế nước chiết 18
6.2.2.Tách bằng sắc ký 18
6.3.Các phương pháp định lượng 20
6.3.1.Sắc kí lớp mỏng hiệu suất cao (high ferformane thin layer chromatography-HPTLC) 20
6.3.2.Phương pháp sắc kí lỏng cao áp(high ferformane liquid chromatorgaphy-HPLC) 20
6.4.Xét nghiệm ở người 21

7.Hiện trạng nhiễm Aflatoxin của các sản phẩm thực phẩm ở Việt Nam và thế giới 21
7.1.Tại Việt Nam 21
7.2.Trên thế giới 22
CHƯƠNG 2:NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA AFLATOXIN 27
1.Cơ chế tác động của Aflatoxin 27
2.Ảnh hưởng của Aflatoxin lên thực vật 29
3.Ảnh hưởng của Aflatoxin lên động vật 30
3.1.Tác dụng cấp tính 30
3.2.Tác dụng mãn tính 31
3.2.1.Gây tổn thương gan 31
3.2.2.Gây ung thư 32
3.2.3.Tính gây quái thai 33
3.2.4.Tính gây đột biến 33
3.3.Một số ví dụ điển hình 33
3.3.1.Cá 33
3.3.2.Heo 34
4
Tiểu luận môn ATVSTP: “Độc tố aflatoxin” GVHD: Trần Thị Mai Anh
3.3.3.Trâu bò 34
3.3.4.Gà, vịt 34
3.3.5.Chuột 35
3.4.Kết luận 36
4.Ảnh hưởng lên việc nuôi cấy tế bào 36
5. Ảnh hưởng của Aflatoxin lên con người 37
CHƯƠNG 3:MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÒNG NGỪA AFLATOXIN TRONG THỰC PHẨM 40
1. Những sản phẩm có nguy cơ nhiễm Aflatoxin 40
2.Các biện pháp phòng ngừa 42
2.1.Thực hiện giáo dục truyền thông cho nông dân 42
2.2.Phòng chống nấm mốc cho lương thực trong quá trình bảo quản 44
2.3.Điều trị khi bị nhiễm độc 46

2.4.Các phương pháp thường dùng để khử độc tố Aflatoxin 47
2.4.1.Phương pháp vật lý 47
2.4.1.1.Nhiệt độ 47
2.4.1.2.Chiếu xạ 48
2.4.2.Phương pháp hoá học 48
2.4.2.1.Chiết xuất bằng một dung môi 48
2.4.2.2.Làm biến đổi phân tử 49
2.4.3.Phương pháp sinh học 50
2.4.3.1.Cạnh tranh giữa các loài nấm 51
2.4.3.2.Các chuyển hóa sinh học 51
CHƯƠNG 4:MỘT SỐ SẢN PHẨM CÓ KHẢ NĂNG KHỬ ĐỘC TỐ AFLATOXIN 53
1.rADTZ 53
1.1. Quá trình nghiên cứu rADTZ 54
1.2.Bản chất hoá học và cơ chế khử độc của rADTZ 54
1.3.Qui trình sản xuất rADTZ 54
1.4.Tiềm năng ứng dụng của rADTZ 55
2.Afla-Guard® 56
PHỤ LỤC 57
KẾT LUẬN 61
TÀI LIỆU THAM KHẢO 62
5
Tiểu luận môn ATVSTP: “Độc tố aflatoxin” GVHD: Trần Thị Mai Anh
MỞ ĐẦU
Trên thế giới hiện nay, việc nghiên cứu mức độ nhiễm nấm mốc và độc tố nấm trên
lương thực, thực phẩm là vấn đề quan trọng nhằm bảo vệ sức khoẻ con người và vật nuôi.
Độc tố aflatoxin chủ yếu do loài vi nấm Aspergillus flavus và Aspergillus parasiticus tạo ra,
là độc tố nguy hiểm nhất và thường nhiễm trên nông sản, gây độc cho người và gia súc, như
gây tác dụng cấp tính, gây tổn thương gan (ung thư gan…), gây quái thai, gây đột biến,…
thậm chí với liều lượng cao có thể dẫn tới tử vong. Trong rất nhiều loại aflatoxin trong tự
nhiên thì aflatoxin B1 được coi là chất độc nguy hiểm nhất. Mặc dù sự hiện diện của

Aspergillus flavus không phải lúc nào cũng gắn liền với việc tồn tại aflatoxin với hàm lượng
gây độc, nhưng nó cũng thể hiện nguy cơ lớn về việc có thể nhiễm aflatoxin.
Ở nước ta, với đặc điểm khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, độ ẩm trong không khí thường cao,
thời vụ canh tác, thu hoạch thường rơi vào mùa mưa trong khi các phương tiện thu hoạch,
phơi sấy nông sản kém, kho chứa không đảm bảo khô ráo thoáng mát là điều kiện rất thuận
lợi cho nấm mốc phát triển gây nhiễm độc tố cho thực phẩm và thức ăn chăn nuôi.
Do đó việc kiểm soát dư lượng aflatoxin là cần thiết và quan trọng. Giới hạn về mức
nhiễm aflatoxin đã là một trong những tiêu chuẩn của an toàn vệ sinh thực phẩm. Để có cái
nhìn tổng quan về aflatoxin, các ảnh hưởng của độc tố này lên cơ thể con người cũng như
các loài động vật và các biện pháp phòng tránh việc nhiễm aflatoxin, nhóm chúng em đã
chọn đề tài: “Độc tố Aflatoxin”.
Do kiến thức và thời gian tìm hiểu của chúng em còn hạn chế, hơn nữa có rất ít tài
liệu tiếng Việt đề cập chuyên sâu về vấn đề này, các thông tin trong bài tiểu luận chủ yếu lấy
từ các nguồn trang web nước ngoài nên bài tiểu luận này không tránh khỏi những thiếu sót,
nhóm chúng em mong cô và các bạn thông cảm và đóng góp ý kiến để các bài tiểu luận sau
của chúng em được hoàn thiện hơn.
6
Tiểu luận môn ATVSTP: “Độc tố aflatoxin” GVHD: Trần Thị Mai Anh
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ AFLATOXIN
1. Lịch sử phát hiện Aflatoxin
Vào năm 1960, nghề nuôi gia cầm ở nước Anh bị tổn thất rất nặng nề, lúc đầu hơn 10.000
gà tây chết vì một bệnh mới gọi là “bệnh gà tây X” (Turkey X disease). Sau đó, các loại gia
cầm khác như vịt, gà lôi cũng bị nhiễm bệnh và tử vong rất nhiều. Qua điều tra, người ta xác
định được bệnh có liên quan đến một loại độc tố do nấm có trong thức ăn sinh ra. Đến năm
1961 người ta đã tìm ra bản chất hoá học của độc chất này là Aflatoxin do vi nấm
Aspergillus flavus và Aspergillus parasiticus. Aflatoxin có 4 dẫn xuất quan trọng là AFB1,
AFB2, AFG1, AFG2. Giữa 4 loại trên thì thì Aflatoxin B1 chiếm nhiều nhất trong nông sản
và gây tác hại nhiều nhất, gây ngộ độc nhanh nhất và phổ biến nhất.
Năm 1961, các công trình nghiên cứu công nhận rằng Aflatoxin được tạo ra bởi nấm
Aspergillus flavus và có thể là nguyên nhân gây ra khối u ở gan của động vật. Trên động vật

thủy sản, những nghiên cứu đầu tiên về độc tố Aflatoxin trên cá hồi được thực hiện bởi
Ashley và các cộng sự.
Từ đó trở đi có nhiều công trình nghiên cứu về độc tố Aflatoxin. Các nhà khoa học cũng
đã xác định được công thức phân tử và công thức cấu tạo của Aflatoxin.
2. Các loài có khả năng sản sinh Aflatoxin
Aflatoxin thường được tạo bởi hai loài nấm quen thuộc là Aspergillus flavus và
Aspergillus parasiticus với các lượng khác nhau tùy thuộc vào chủng nấm, cơ chất, điều
kiện khí hậu và môi trường.
Một số loài nấm mốc khác cũng có khả năng sinh Aflatoxin với lượng rất ít như loài:
Penicillium puberulum Bai, các chủng thuộc Aspergillus như Aspergillus tamariikita,
Aspergillus niger tiegh, Aspergillus ostiamis wehmen, Aspergillus ruper…
Tuy nhiên cũng còn nhiều tranh cãi vì trong quá trình phát triển, Aspergillus flavus thường
lẫn với nhiều loài nấm khác, đặc biệt là với Penicillium rubrum stoll và khi đó có thể nhầm
Aflatoxin là do Penicillium sản sinh ra.
Trong một số trường hợp, cũng có thể nhầm lẫn với độc tố Sterigmatoxistin và Avecsin vì
có cấu tạo hóa học gần giống với Aflatoxin.
7
Tiểu luận môn ATVSTP: “Độc tố aflatoxin” GVHD: Trần Thị Mai Anh

3. Điều kiện sản sinh Aflatoxin
Khả năng sinh độc tố của các chủng Aspergillus flavus và Aspergillus parasiticus rất khác
nhau. Điều đó phụ thuộc vào các yếu tố như chủng nấm mốc, các cơ chất, các yếu tố nhiệt
độ, độ ẩm của cơ chất và môi trường.
3.1. Chủng sinh độc tố
− Aflatoxin được sản sinh từ hai chủng nấm Aspergillus flavus và Aspergillus
parasiticus.
− Không phải tất cả các chủng Aspergillus flavus được khảo sát đều sản sinh ra
Aflatoxin, chỉ 73% có khả năng sản sinh Aflatoxin, trong đó có 23% sản sinh Aflatoxin ở
mức cao nhất. Người ta đã ghi nhận được nhiều biến đổi quan trọng tùy theo cơ chất từ đó
đã phân lập các chủng A.flavus và tùy theo theo nguồn gốc địa lý. Chẳng hạn, người ta đã

thấy trong số 284 mẫu phân lập từ gạo ở Hoa Kỳ có 94% số chủng có sinh độc tố, 86% đối
với các mẫu phân lập từ lạc cũng tại nước này và chỉ 71% đối với các mẫu được phân lập
cũng từ lạc nhưng ở Ixraen.
− Ngoài ra, lượng Aflatoxin cũng thay đổi rất nhiều tùy theo các chủng.
− Ngoài việc định lượng tổng số các Aflatoxin, người ta còn quan tâm xác định tỷ lệ
riêng phần của các Aflatoxin khác nhau đã biết. Nói chung, Aflatoxin B1 được tạo ra nhiều
nhất cả trong thiên nhiên lẫn nuôi cấy, rồi đến Aflatoxin G1, sau đó rất xa là Aflatoxin B2,
còn Aflatoxin G2 và các Aflatoxin khác thì tỷ lệ khá thấp.
8
Aspergillus flavus Aspergillus parasiticus
Tiểu luận môn ATVSTP: “Độc tố aflatoxin” GVHD: Trần Thị Mai Anh
− Phân biệt các chủng sinh độc tố và không sinh độc tố qua những đặc điểm hình thái:
chủng sinh độc tố có đầu bào tử đính màu xanh lục, ngay cả ở các giống nuôi cấy lâu ngày
(thể bình hai lớp, cuống bào tử đính với vách có gai).
− Một chủng sinh độc tố có thể mất khả năng đó qua nhiều lần cấy truyền liên tiếp trên
các môi trường tổng hợp. Thế nhưng tính độc của một chủng tăng lên khi cấy truyền liên
tiếp trên những môi trường tự nhiên thích hợp.
3.2. Cơ chất và môi trường
− Cơ chất là các hạt có dầu, đặc biệt là hạt lạc và các sản phẩm từ lạc. Lượng độc tố
chứa trong lạc cao nhất. Các chủng phân lập từ thịt ôi, bánh mì, các thực phẩm bột sống hay
phomat ô nhiễm tự nhiên thường không có hoặc có rất ít khả năng sinh độc tố. Ngược lại,
gần 1/3 số chủng phân lập từ các gia vị có khả năng sản sinh Aflatoxin.
− Ngay cả trên cùng một cơ chất, khả năng sản sinh Aflatoxin của các chủng
Aspergillius flavus cũng khác nhau. Nguyên nhân của hiện tượng này cũng có thể do một số
giống lạc có tính kháng với Aspergillius flavus sinh độc tố Aflatoxin. Các nhà tạo giống đã
dựa vào cơ sở phát hiện trên nhằm tạo ra những giống lạc không bị nhiễm aflatoxin. Đây là
hướng nghiên cứu nhiều nhà khoa học sử dụng nhằm loại bỏ Aflatoxin theo cách có lợi nhất.
− Sự hình thành Aflatoxin phụ thuộc vào sinh khối sợi nấm và thời gian phát triển, khối
lượng sợi nấm càng nhiều thì sản sinh độc tố càng nhiều và ngược lại. Thời gian để sản sinh
cực đại Aflatoxin thường từ ngày thứ sáu đến ngày thứ bảy sau đó giảm đi. Lí do của sự

giảm lượng Aflatoxin trong những ngày tiếp theo là do quá trình tự phân giải của chính bản
thân nấm mốc.
− Nhiệt độ thích hợp nhất để sản sinh Aflatoxin của các chủng nấm mốc là từ 25-28
o
C.
Nếu nuôi cấy Aspergillius flavus ở 45
o
C thì khả năng sản sinh Aflatoxin sẽ bị ức chế.
− Hàm lượng nước trong cơ chất đóng vai trò quan trọng trong quá trình hình thành
Aflatoxin. Ở lạc nhân, lượng nước từ 15-30% thì sự hình thành Aflatoxin xuất hiện sau 2
ngày; trên gạo cần lượng nước là 24-26% và ở ngô là 19-24%. Như vậy có thể nói sự sản
sinh Aflatoxin diễn ra rất nhanh. Đặc biệt là sau thu hoạch, cơ chất có hàm lượng nước khá
cao, thời gian làm khô kéo dài là nguyên nhân dẫn đến nhiễm Aflatoxin.
9
Tiểu luận môn ATVSTP: “Độc tố aflatoxin” GVHD: Trần Thị Mai Anh
− Độ pH ban đầu của môi trường ảnh hưởng rất ít đến sự hình thành Aflatoxin; dù nó là
bao nhiêu thì lúc nào cũng có xu hướng quy về trị số giữa 4 và 5.
− Nguồn carbon: người ta đã nghiên cứu ảnh hưởng của việc thêm các đường hexoza
vào môi trường nuôi cấy lên sản lượng Aflatoxin của A.flavus và kết luận rằng các đường
glucose, fructose, manose thuận lợi cho sự tổng hợp Aflatoxin.
Gluxit Nồng độ
1% 3%
D glucose +++ +++
D manose +++ +++
D fructose +++ +++
D galactose - ++
D gulose - 0
D arabinose - -
D xilose + ++
D ribose - +

D eritrose - 0
D glyxerandehyt +++ +++
− Nguồn đạm: trên môi trường có đạm nitrite, A.flavus tiết ra ít Aflatoxin; trên môi
trường có đạm amoniac, axit uric và axit glutamic, A.flavus sản xuất ra nhiều hơn; vì vậy
trong công thức cổ điển của Czapeck, NaNO
3
được thay thế bằng NH
4
Cl hay một muối
amoni khác. Lượng Aflatoxin cao nhất trên môi trường có nấm men hay có pepton hoặc tốt
hơn nữa là có các axit amin. Tiamin và các vitamin nhóm B kích thích sự tổng hợp các
Aflatoxin, riboflavin và piridoxin thì không có tác dụng.
− Các ion kim loại: sự có mặt của Zn, Mg hay Fe kích thích khả năng sản sinh
Aflatoxin; Co, Cr, Mn, Ca chỉ có ít hiệu lực.
− Các chất khác: khi A.flavus phát triển trên hạt lúa mì, lượng Aflatoxin tạo ra ở giai
đoạn phôi mầm nhiều hơn hẳn ở giai đoạn phôi nhũ. Ngoài ra, người ta thấy việc thêm lipid
(chiết từ mầm lúa mì bằng pentan) vào một cơ chất gồm mầm lúa mì đã loại bỏ lipid có hiệu
quả tốt đến việc sản sinh Aflatoxin. Ảnh hưởng có lợi của các axit béo đến việc hình thành
độc tố được nhiều người công nhận, làm cho người ta nghĩ rằng chúng có vai trò quan trọng
trong việc sinh tổng hợp các Aflatoxin; việc phân hủy sinh học của chúng đưa đến sự hình
thành các tiền sản phẩm tham gia vào vòng chuyển hóa sinh tổng hợp Aflatoxin. Thêm
10
Tiểu luận môn ATVSTP: “Độc tố aflatoxin” GVHD: Trần Thị Mai Anh
dimetylsunfoxit (DMSO) vào môi trường nuôi cấy sẽ làm nồng độ Aflatoxin hoặc tăng lên
chút ít hoặc giảm sút nhiều. Ở đây có lẽ là một tác động chuyển hóa qua lại hơn là một phản
ứng hóa học giữa DMSO và các Aflatoxin.
4. Cấu trúc và các tính chất của Aflatoxin
4.1. Cấu trúc hóa học
Các Aflatoxin thường nhiễm trên các sản phẩm thực vật. Hiện nay người ta đã tìm
thấy khoảng 18 loại aflatoxin khác nhau, tuy nhiên có 4 loại chính thường gặp nhất gồm 4

hợp chất của nhóm bis-furanocoumarin, là sản phẩm trao đổi chất tạo bởi nấm Aspergillus
flavus và Aspergillus parasiticus, được đặt tên là B
1
, B
2
, G
1
, G
2
.
Bốn chất được phân biệt trên cơ sở màu phát quang của chúng. B là chữ viết tắt của
Blue (màu xanh nước biển) và chữ G là chữ viết tắt của Green (màu xanh lá cây). Các sắc kí
đồ lớp mỏng alumin, thu được từ nước chiết bằng clorofrom : metanol (98.5 : 1.5) được tách
bằng hệ thống clorofrom : cacbon tetraclorua : nước : metanol (2 : 2.5 : 1 : 3) đã phát hiện
hai vết huỳnh quang dưới ánh sáng tử ngoại: một vết huỳnh quang xanh tím, đó là aflatoxin
B
1
, một vết khác có Rf thấp hơn và huỳnh quang màu lục, đó là aflatoxin G
1
. Aflatoxin G
1
có cấu trúc rất gần với cấu trúc aflatoxin B
1
: nó có hai chức lacton, còn aflatoxin B
1
chỉ có
một. Bằng cách khử nối đôi cách trong nhân hidrofuran tận cùng của dihidroaflatoxin B
1

G

1
ta thu được hai sản phẩm độc khác là aflatoxin B
2
và G
2
. So với aflatoxin B
1
, độc tính của
chúng đối với vịt con kém hơn từ 60 đến 100 lần; như vậy chúng sẽ không độc, nếu không
có các khả năng mất hidrat chuyển thành aflatoxin B
1
rất độc.
Aflatoxin B
1
, B
2
trong sữa bò được chuyển hoá và gọi là Aflatoxin M
1
và Aflatoxin
M
2
(M là một chữ viết tắt của Milk). Aflatoxin M
1
có huỳnh quang xanh tím, aflatoxin M
2

Rf thấp hơn và huỳnh quang tím. Aflatoxin M
1
là hidroxi – 4 aflatoxin B
1

, và aflatoxin M
2

hidroxi – 4 aflatoxin B
2
.
Trong bốn loại Aflatoxin thì Aflatoxin B
1
thường được tìm thấy ở nồng độ cao nhất, tiếp
theo là G
1
, trong khi đó B
2
và G
2
tồn tại ở nồng độ thấp hơn.
11
Tiểu luận môn ATVSTP: “Độc tố aflatoxin” GVHD: Trần Thị Mai Anh
Ngoài 6 loại aflatoxin chủ yếu trên, người ta còn phát hiện một số loại aflatoxin khác,
người ta đã đề nghị gọi các hợp chất đó là flavatoxin hoặc flavacuramin:
− Aflatoxin P
1
: là một sản phẩm trao đổi chất, là dẫn xuất fenolic của aflatoxin B
1
.
Người ta đã phân lập được chúng trên cột ambeclit XAD – 2 (Rohm và Haas). Trọng
lượng phân tử của nó, xác định bằng khối phổ là 2.8. Sản phẩm này là kết quả sự khử
metyl của aflatoxin B
1
.

− Aflatoxin 3B hay toxin B
3
: một chất có Rf thấp, phân lập từ bình nuôi cấy A. flavus,
dạng tinh thể, màu vàng kim, độ độc kém aflatoxin B
1
từ 40 đến 50 lần.
− Aflatoxin B
3
( được Siubblefield và đồng sự phân lập) còn gọi là porositicol: nhân
xiclopenten tận cùng của aflatoxin B
1
được thay thế bằng một chuỗi bên etanol, do đó
chất này là 6 – metoxi -7 - (2

– hidroxictyl) difurocumarin.
4.2. Tính chất vật lí
Các Aflatoxin phát quang mạnh dưới ánh sáng cực tím sóng dài. Điều này cho phép
phát hiện các hợp chất này ở nồng độ cực kì thấp (0,5 ng hay thấp hơn trên một vết ở sắc kí
bản mỏng). Nó cung cấp điểm cơ bản về mặt thực hành cho tất cả các phương pháp hoá lý
12
Tiểu luận môn ATVSTP: “Độc tố aflatoxin” GVHD: Trần Thị Mai Anh
về việc phát hiện và định lượng. Nồng độ Aflatoxin M
1
0,02mg/l có thể được phát hiện trong
sữa lỏng.
Aflatoxin tinh khiết rất bền vững ở nhiệt độ cao lên đến điểm nóng chảy, khi được
làm nóng trong không khí. Tuy nhiên nó tương đối không bền khi để dưới không khí và dưới
tia cực tím ở phiến sắc kí bản mỏng, và đặc biệt khi hoà tan ở các dung môi có độ phân cực
cao. Các Aflatoxin trong các dung môi clorofom và benzen bền vững trong nhiều năm nếu
được giữ trong chỗ tối và lạnh. Các Aflatoxin ít hoặc không bị phá huỷ dưới điều kiện nấu

bình thường và làm nóng khi thanh trùng. Tuy nhiên, khi có độ ẩm và ở nhiệt độ cao vẫn có
thể tiêu hủy aflatoxin trong một khoảng thời gian nhất định.
Các Aflatoxin được hoà tan trong các dung môi phân cực nhẹ như clorofom, metanol và
đặc biệt ở dimethylsulfoit (dung môi thường được sử dụng như phương tiện trong việc áp
dụng các Aflatoxin vào các động vật thực nghiệm). Tính tan của Aflatoxin trong nước dao
động từ 10-20mg/l.
4.3. Tính chất hóa học
Sự có mặt của vòng lacton ở phân tử Aflatoxin làm chúng nhạy cảm với việc thuỷ
phân trong môi trường kiềm, đặc tính này là quan trọng trong bất kì quá trình chế biến thực
13
Tiểu luận môn ATVSTP: “Độc tố aflatoxin” GVHD: Trần Thị Mai Anh
phẩm vì quá trình xử lý kiềm làm giảm hàm lượng Aflatoxin của các sản phẩm, mặc dù sự
có mặt của protein, pH và thời gian xử lý có thể thay đổi các kết quả. Tuy nhiên nếu xử lý
kiềm là nhẹ thì việc axit hoá sẽ làm phản ứng ngược trở lại để tạo Aflatoxin ban đầu.
Bảng: Tính chất lý – hóa chủ yếu của các aflatoxin
(* Kết quả của Townsend, ** Kết quả của Stubblefield và đồng tác giả, *** kết quả của
Beljiaars)
Ở nhiệt độ cao (khoảng 100
o
C) sự mở vòng decarboxylation xảy ra và phản ứng có
thể tiến xa hơn, dẫn đến sự mất mát các nhóm methoxy từ vòng thơm.
Khi có các acid vô cơ và bổ sung nước, Aflatoxin B1 và G1 chuyển hóa thành
Aflatoxin B2A và G2A. Các sản phẩm cộng hợp tương tự của Aflatoxin B1 và G1 cũng
được hình thành với clorua axit formic thionyl, clorua axit axetic và axit thionyl
trifluoroacetic.
14
Tiểu luận môn ATVSTP: “Độc tố aflatoxin” GVHD: Trần Thị Mai Anh
Nhiều tác nhân oxy hóa, chẳng hạn như hypochlorite natri, thuốc tím, chlorine,
hydrogen peroxide, ozone và peborat natri phản ứng với Aflatoxin và thay đổi các phân tử
Aflatoxin, một số phản ứng làm mất huỳnh quang.

Sự hydro hóa Aflatoxin B1 và B2 sinh ra Aflatoxin G1, G2 tương ứng. Sự khử
Aflatoxin B1 bằng 3 mol hydro sinh ra tetrahydroxyaflatoxin. khử Aflatoxin B1 và B2 bằng
natriborohydride tạo ra RB1 và RB2 tương ứng. Hiện tượng đó là kết quả của việc mở vòng
lacton bởi sự khử nhóm acid và nhóm xeton ở vòng cyclopentene.
4.4. Sự chuyển hóa và bài tiết aflatoxin
Allcrofl và Carnaghan là những người đầu tiên nhận thấy nếu cho bò sữa ăn khô lạc
có nhều aflatoxin, thì sữa của chúng độc với vịt con một ngày tuổi. Qua phân tích người ta
phát hiện ra các các chất độc chỉ gồm những vết aflatoxin B
1
, chủ yếu là các dẫn xuất
aflatoxin M
1
và M
2
. Một lượng rất ít các aflatoxin đó đã được phát hiện trong các giống nuôi
cấy A.flavus trên lạc và trên nhiều cơ chất khác. Để chắc chắn rằng các aflatoxin M trong
sữa là những sản phẩm chuyển hóa của aflatoxin ăn vào, người ta đã cho chuột cái đang cho
con bú uống aflatoxin B
1
và đã tìm thấy aflatoxin M
1
trong sữa. Aflatoxin M
1
còn được tìm
thấy trong sữa dê, mật chuột, gan chuột, phân và nước tiểu bò cái và cừu; máu, nước tiểu,
mật, thận thỏ con, trong nước tiểu người ăn bơ dầu lạc có nhiễm khuẩn.
Việc chuyển hóa các aflatoxin xảy ra rất nhanh. Nếu cho bò cái ăn một lượng duy
nhất (0.5 mg/kg) hỗn hợp các aflatoxin B
1
: 44%, G

1
: 44%, B
2
: 2% và phân tích đều đặn sữa,
người ta thấy 85% lượng aflatoxin phát hiện thấy trong sữa và nước tiểu được bài tiết ra
trong vòng 48 giờ; 4 ngày sau trong sữa và 6 ngày sau trong nước tiểu, phân không phát hiện
được một vết nào nữa. Trong sữa chỉ aflatoxin M
1
và lượng chất này chiếm 0.35% lượng
aflatoxin B
1
ăn phải. Mặt khác, nếu cho 67 đến 200 mg aflatoxin B
1
vào khẩu phần hàng
tuần của một bò cái, người ta thấy có 0.07 đến 0.15 mg/kg aflatoxin M
1
trong sữa đã đông
khô.
Ở các động vật không có vú, sự chuyển hóa aflatoxin B
1
chủ yếu là sự hidroxyl hóa,
đồng thời mất nhóm metyl; cuối cùng đưa đến những sản phẩm như aflatoxin P
1
tìm thấy
trong nước tiểu.
15
Tiểu luận môn ATVSTP: “Độc tố aflatoxin” GVHD: Trần Thị Mai Anh
Nếu cho chuột ăn các aflatoxin B
1
và G

1
, phân tích nước tiểu của chúng thấy nhân
cumarin vẫn còn nguyên vẹn; phân tử bị thoái biến do mở nhân furan, hình thành một mạch
bên thẳng tận cùng bởi một nhóm andehyt. Nhóm này sẽ tự oxi hóa khi bài tiết ra.
5. Độc tính của Aflatoxin
Ngoài việc gây ngộ độc cấp tính (liều gây chết người khoảng 10 mg), độc tố Aflatoxin
còn được xem là nguyên nhân gây xơ gan và ung thư. Aflatoxin là một trong những chất gây
ung thư gan mạnh nhất, nếu hấp thu một lượng là 2,5 mg Aflatoxin trong thời gian ngắn
(khoảng 3 tháng) có thể dẫn đến ung thư gan sau một năm.
Aflatoxin gây ra các tác hại chính sau đây:
− Phá hủy tế bào gan, thận và các bộ phận khác.
− Ức chế lên hệ miễn dịch.
− Ăn mòn thành ruột và dạ dày.
− Suy dinh dưỡng, chậm lớn, chết.
− Gây ra ung thư gan ở người và gia súc.
Như vậy, Aflatoxin có khả năng gây độc cấp tính và mãn tính ở người và động vật.
Nghiêm trọng nhất và nguy hiểm nhất là khả năng gây xơ gan và ung thư gan.
6. Các phương pháp phát hiện Aflatoxin
Phát hiện được sự có mặt của Aflatoxin trong thức ăn là điều rất quan trọng. Nhiều
phương pháp phát hiện Aflatoxin đã được đưa ra, tất cả đều rất đáng chú ý và có thể bổ sung
cho nhau.
6.1. Phương pháp sinh học
6.1.1. Thử nghiệm trên vịt con 1 ngày tuổi
Những thí nghiệm đầu tiên nhằm chứng minh tính độc của các Aflatoxin được tiến hành
trên vịt con 1 ngày tuổi (nặng khoảng 50 g). Người ta chỉ xử lý lạc hoặc các sản phẩm có
nguồn gốc từ lạc bằng cloroform rồi chiết các chất cặn hòa tan bằng metanol; sau khi tinh
chế bằng phân chia giữa các dung môi không hòa lẫn (metanol 10 thể tích, nước 1 thể tích,
ete dầu hỏa 10 thể tích), cặn được hòa thành nhũ tương trong nước (sao cho nồng độ cuối
cùng của 1 ml tương đương với 40 g mẫu ban đầu) và cho vào cổ họng vịt con bằng 1 ống
chất dẻo. Ngày đầu tiên, cho vịt nuốt một lượng lớn nước chiết tương ứng với 10 g mẫu ban

16
Tiểu luận môn ATVSTP: “Độc tố aflatoxin” GVHD: Trần Thị Mai Anh
đầu, rồi tăng dần liều lên để trong 4 ngày, con vật đã tiếp nhân 1 lượng tương đương 80 g.
Mẫu thử được coi là rất độc nếu vịt con chết trong 7 ngày kể từ lúc bắt đầu thí nghiệm, độc
vừa hay ít độc tùy theo tổn thương ở gan của những con vịt còn sống được đem giải phẫu
vào ngày thứ 7. Vịt là một loài vật đặc biệt mẫn cảm nên người ta có thể phát hiện bằng
phương pháp sinh học những lượng Aflatoxin rất nhỏ.
Thử nghiệm này được sử dụng rất nhiều. Một mặt nó cho biết DL50 của các Aflatoxin;
mặt khác, chúng ta còn biết được khi vịt con tiếp nhận một lượng Aflatoxin ít nhất bằng
0.04mg/kg thì thấy các ống dẫn mật phát triển dị thường. Tuy nhiên, cách thử này cũng có
nhiều điều bất tiện như: cần phải tổ chức nuôi vịt, có khó khăn ở chỗ con vật có thể trớ ra
liều thuốc độc ta vừa cho nuốt…
Loại Aflatoxin DL50 (mg/kg)
B1 0.36
B2 1.69
G1 0.78
G2 2.45
6.1.2. Thử nghiệm trên phôi gà
Đây là thử nghiệm được dùng nhiều nhất sau thử nghiệm trên vịt con 1 ngày tuổi. Tiến
hành thử nghiệm bằng cách tiêm nước chiết vào buồng khí hoặc vào lòng đỏ của trứng gà
Leghorn trắng đã thụ tinh và ấp trong 5 ngày (cũng có thể tiêm trước khi ấp hay tiêm sau 9
ngày). Phôi gà rất mẫn cảm với Aflatoxin, chết trong 2 ngày sau nếu mẫu thử tiêm vào có
trên 0.3 μg Aflatoxin. Thử nghiệm này có độ mẫn cảm gấp 200 lần so với thử nghiệm trên
vịt con.
Người ta có thể kiểm tra các tổn thương do Aflatoxin bằng phương pháp tế bào học, đặc
biệt việc xét nghiệm gan rất bổ ích. Ngoài ra, người ta cũng biết được DL50 tiêm vào buồng
khí là như sau:
Loại Aflatoxin DL50 (μg/trứng)
B1 0.025
B2 0.125

G1 1.2
G2 0.27
M1 0.2
17
Tiểu luận môn ATVSTP: “Độc tố aflatoxin” GVHD: Trần Thị Mai Anh
6.2. Phát hiện bằng đường lý - hoá học
Ta có thể nhận biết sự có mặt Afltoxin một cách dễ dàng nhờ một số tính chất của chúng:
− Khử nitrat bạc ammoniac, molipdat và natri tungstat
− Trong môi trường pecloric, tạo với cacbonzon thành hợp chất cộng có màu tím đặc
trưng, cũng chức năng này phản ứng yếu với vanilin trong môi trường xút 38%
− Ngưng tụ với phenol trong môi trường sunfuric và acid sunfuric cũng có vết hình dẻ
quạt
− Dễ bị phân hủy trong môi trường kiềm
− Phản ứng với di-O-anizidin-tetrazolium clorua để tạo thành các hợp chất xanh – tím
với các aflatoxin B1, B2 và nâu với aflatoxin G2.
6.2.1. Chiết xuất và tinh chế nước chiết
Phần lớn các phương pháp chiết xuất và tinh chế đều dựa trên tính chất các Aflatoxin tan
trong một số dung môi hữu cơ như cloroform, metanol, etanol, axeton, benzen…và không
tan trong một số dung môi béo như hexan, ete dầu hỏa, ete etylic…
6.2.2. Tách bằng sắc ký
 Sắc ký giấy
Việc tách bằng phương pháp sắc ký đầu tiên được thực hiện trên sắc ký giấy và triển khai
bằng hệ thống benzen: toluen: xiclohexan: etanol: nước. Các phương pháp được khuyên
dùng là những phương pháp cổ điển, dùng 2 hệ thống dung môi:
− Hệ thống 1 gồm butanol: axit acetic: nước (20: 19: 1)
− Hệ thống 2 gồm cloroform: metanol (95: 5)
Với hệ thống 1, việc làm bão hòa thùng sắc ký với pha ướt và triển khai thực hiện với pha
trên ở nhiệt độ 24
o
C. Sắc ký chạy kéo dài 20 giờ trên băng giấy Whatmann số 1, kích thước

550 x 30 mm. Vết sắc ký ở cách gốc băng giấy 60 mm, cách tầm dung môi bắt đầu lan 30
mm.
Với dung môi 2, việc làm bão hòa và chạy sắc ký thực hiện với cùng 1 pha và lần lượt kéo
dài 1 giờ và 3 giờ 30 phút. Hệ thống dung môi này được sử dụng nhiều.
Dù là dung môi nào, người ta cũng sấy ở 100
o
C trong vòng 20 phút.
18
Tiểu luận môn ATVSTP: “Độc tố aflatoxin” GVHD: Trần Thị Mai Anh
 Sắc ký cột : loại sắc ký này thường được sử dụng. Tùy theo trường hợp mà người ta
dùng:
− Cột alumin
− Cột gel silic với chất tách là cloroform và 5% hỗn hợp metanol-cloroform.
− Cột axit silixic với chất tách là hỗn hợp cloroform: etanol (99: 1).
− Cột xenluloza với chất tách là hỗn hợp hexan: cloroform (1: 1).
 Sắc ký lớp mỏng : đây là phương pháp được dùng thường xuyên nhất. Có thể triển
khai trong nhiều hỗn hợp khác nhau, thông thường nhất là:
− Cloroform: metanol (99: 1), (98: 2), (97: 3), (95: 5), (93:7)
− Cloroform: axeton (90: 10), (85: 15)
− Cloroform: axeton: etanol (89: 10: 1)
− Cloroform: axeton: 2-propanol (850: 125: 25), (825: 150: 25)
− Metanol: nước: ete (3: 1: 96)
− Benzen: etanol: nước (46: 35: 19)
Thời gian triển khai thay đổi từ 45 phút hay 2 đến 3 giờ. Người ta thường khuyên nên hoạt
hóa bằng nhiệt vì việc chuyển dịch dung môi ở nhiệt độ thấp chậm hơn. Rõ ràng là Rf của
các Aflatoxin khác nhau biến đổi tùy theo điều kiện làm sắc ký.
Đối với sắc ký lớp mỏng, người ta thường dùng alumin, bột xenluloza hoặc gel poliamit
làm giá.
Một điểm rất quan trọng nữa là các lớp mỏng phải thật sự bão hòa trước trong bình, nơi
sắc ký sẽ triển khai. Sự bão hòa này phải đủ lâu để được hoàn toàn, nhưng không được kéo

dài quá vì có thể gây ra những nhiễu loạn quan trọng trong việc chuyển dịch các thành phần
cấu tạo của các mẫu.
Giá đỡ sắc ký thường là những tấm kính 200 x 200 mm, nhưng những phương pháp đơn
giản hóa khuyên dùng những phiến kính thường để làm tiêu bản hiển vi (26 x 76 mm) hay
những giá đỡ mềm như tấm phim.
Khi làm sắc ký, một số hợp chất có thể tương tự Aflatoxin; để tránh xác định nhầm, nên
sử dụng một hệ thống 2 chiều. Hệ thống này giúp dễ thấy sự khác biệt giữa các Aflatoxin B1
và G1 (do có trị số Rf thường rất gần nhau).
19
Tiểu luận môn ATVSTP: “Độc tố aflatoxin” GVHD: Trần Thị Mai Anh
6.3. Các phương pháp định lượng
Mặc dù các quy trình luôn luôn thay đổi, nhưng các bước cơ bản vẫn giữ nguyên, bao
gồm: chiết xuất, loại trừ mỡ, làm sạch, phân tích và định lượng.
Sự phối hợp các kỹ thuật chiết xuất lỏng và sắc ký dẫn đến phương pháp được sử dụng
rộng rãi nhất ngày nay là phương pháp CB (Contamination Branch) của Eppley. Phương
pháp BF (Best Foods) nhanh và kinh tế hơn, nhưng làm sạch kém hơn cũng đã được triển
khai. Việc định tính và định lượng các Aflatoxin có thể thực hiện bằng kỹ thuật sắc kí bản
mỏng, sắc kí lỏng hiệu cao năng (HPLC) và ELISA.
6.3.1. Sắc kí lớp mỏng hiệu suất cao (high ferformane thin layer chromatography-
HPTLC)
Do những khiếm khuyết trong phương pháp sắc kí lớp mỏng đơn thuần ở các khâu
như chiết tách mẫu phân tích, chạy mẫu trong dung môi, phương pháp HPTLC có tính
thuyết phục cao hơn ở 3 khía cạnh sau: đưa mẫu lên bản mỏng một cách tự động, cải thiện
được sự đồng nhất cả lớp hấp phụ, chạy bản mỏng trong dung môi có kiểm soát.
Quá trình đưa mẫu vào bản mỏng được tự động hóa, do đó các vết được định đúng
vị trí và đo lường độ huỳnh quang của vết cũng bằng máy densitometess.
Thể tích mẫu được dùng trong HPTLC có thể băng 1microlits so với 5-10µl mẫu
trong phương pháp TLC, như vậy sẽ làm giảm đi rất nhiều diện tích của vết (=1mm). Nồng
độ chất chuẩn có thể cần 5pg trong phân tích bằng HPTLC, do đó có thể xác định tới 30pg
(0.03microgam) aflatoxin B1 ở lạc.

Sử dụng kĩ thuật HPTLC làm tăng tính thuyết phục của phương pháp TLC như một
phương pháp định lượng aflatoxin có hiệu quả nhất.
6.3.2. Phương pháp sắc kí lỏng cao áp(high ferformane liquid chromatorgaphy-
HPLC)
Hệ thống phân tích high ferformane tự động HPLC là hệ thông phân tích đắt tiền,
chọn lọc, dùng định lượng Aflatoxin. Phương pháp HPLC sử dụng cả hai pha: Pha bình
thường và pha phản.
Hệ thống này dựa trên sự hấp thụ tia tím (uv) và xác định cường độ huỳnh quang.
20
Tiểu luận môn ATVSTP: “Độc tố aflatoxin” GVHD: Trần Thị Mai Anh
Mẫu phân tích được tách bằng chloroform: nước. Ly tâm chất tác dụng làm sạch
qua silicagel pha bình thường sử dụng cột nhối silicagel 0.5µm và pha động sử dụng bezen:
acetonitrit: acid formic. Giới hạn xác định là 0.5micromet/kg.
Husst ( 1984) đã sử dụng pha phản kết hợp với TFA đồng phân để xác định được
các Aflatoxin B1, B2, G1, G2 ở nồng độ 5pg.
Davis(1980) cũng sử dụng pha phản để xác định huỳnh quang của đồng phân iot
của Aflatoxin B1. Kết quả dẫn đến việc phát triển phương pháp đồng phân cột.
6.4. Xét nghiệm ở người
Hiện tại, có hai phương pháp thường được sử dụng để phát hiện mức độ nhiễm
aflatoxin ở người. Phương pháp đầu tiên là tính lượng phức AFB1-guanine trong nước tiểu.
Sự có mặt của các phân tử nhỏ hơn chỉ ra rằng có sự tồn tại aflatoxin trong vòng 24 giờ. Tuy
nhiên, phương pháp này dựa trên sự thời gian bán hủy của sự chuyển hóa, mức độ AFB1-
guanine tính được có thể thay đổi theo từng ngày, vì vậy nó chắc chắn không phải là phương
pháp tốt để xác định hàm lượng aflatoxin đối với sự phơi nhiễm trong thời gian dài. Một
phuơng pháp khác là tính lượng phức AFB1-albumin trong huyết thanh. Cách tiếp cận này
tính được lượng aflatoxin phơi nhiễm sau thời gian vài tuần đến vài tháng
7. Hiện trạng nhiễm Aflatoxin của các sản phẩm thực phẩm ở Việt Nam và thế giới
7.1. Tại Việt Nam
− Năm 1988, Viện dinh dưỡng đã thông báo kết quả thăm dò Aflatoxin B1 trong lạc và
sản phẩm từ lạc như sau: có 7/55 số mẫu lạc nhân có Aflatoxin B1 (13%).

− Theo khảo sát của Nguyễn Phùng Tiến (1992) nhận thấy tỷ lệ nhiễm AF trên ngô bị
mốc ở miền Nam và miền Bắc khá cao từ 73,3%-95,5% với hàm lượng từ 16-100ppb.
− Năm 1990-1995 Viện Dinh Dưỡng đã kiểm tra 387 mẫu lương thực thực phẩm, trong
đó có 73 mẫu (19%) bị ô nhiễm AF và 19 mẫu (4,9%) có hàm lượng AF vượt quá giới hạn
cho phép theo quy định 867/QĐ-BYT/1998 của Bộ Y tế.
− Tháng 2/2002 tại Hà Giang xảy ra vụ ngộ độc do ăn bánh làm từ bột ngô đã bảo quản
lâu dẫn tới hậu quả là 11 người tử vong.
− Kết quả khảo sát, phân tích trên 243 mẫu ngô, lạc và sản phẩm chế biến làm thức ăn
gia súc tại 3 xã thuộc huyện Tân Kỳ Nghệ An tháng 6/2002 đã phát hiện mức độ và nguy cơ
21
Tiểu luận môn ATVSTP: “Độc tố aflatoxin” GVHD: Trần Thị Mai Anh
ô nhiễm Aflatoxin (AF) khá cao: trên 90% số mẫu lấy tại các hộ gia đình đang được bảo
quản bị ô nhiễm AF và tỷ lệ vượt giới hạn cho phép theo quy định của Bộ Y tế là trên 23%
(56/243mẫu).
Mức độ ô nhiễm AF trong sản phẩm ngô, lạc tại 3 xã huyện Tân Kỳ
Mức ô nhiễm X (ppb) Số mẫu Tỷ lệ %
X = 0 11 4,53
0 <X< 2 104 42,80
2 <X<5 50 20,58
5 <X<10 22 9,05
X≥10 56 23,04
Nhận xét: ô nhiễm AF ở mức độ thấp từ 0 - 5ppb (chiếm 67,91%) là chủ yếu, tỷ lệ
vượt tiêu chuẩn cho phép của bộ Y tế theo quy định là 23,04% (56/243 mẫu).
− Đậu Ngọc Hào và các cộng sự đã nghiên cứu mức nhiễm nấm mốc và Aflatoxin trên
ngô của các tỉnh Sơn La và Thanh Hoá. Kết quả phân tích của 24 mẫu ngô hạt và 24 mẫu
ngô bột cho thấy các mẫu này đã nhiễm A.flavus với tần số cao, từ 50-80%.
− Để đánh giá mức độ xuất hiện của Aflatoxin B1 trong thực tế, Viện Vệ sinh Y tế công
cộng tại TP.HCM đã tiến hành xem xét mẫu thực phẩm lưu hành trên thị trường hoặc do các
công ty và cơ sở chế biến mang tới đăng ký kiểm nghiệm. Kết quả cho thấy trong 115 mẫu
(gồm sản phẩm chế biến từ đậu phộng như đậu phộng da cá, kẹo đậu phộng v.v ; nước

tương làm từ đậu nành; đồ hộp chay làm từ các loại đậu và bột mì; cà phê; thức ăn gia súc)
thì Aflatoxin B1 có trong 30% mẫu cà phê; 42,9% mẫu nước tương; 66,7% mẫu đồ hộp
chay; 68,2% mẫu đậu phộng và sản phẩm từ đậu phộng. Đặc biệt, Aflatoxin B1 có với tỉ lệ
cao trong 94,6% mẫu thức ăn gia súc. Như vậy, cứ trung bình 3 mẫu thử nghiệm chung cho
các loại thì có một mẫu có độc tố Aflatoxin B1. Nếu căn cứ theo tiêu chuẩn cho phép thì chỉ
riêng các mẫu nước tương tuy tới 42,9% có Aflatoxin B1 nhưng đều chỉ ở mức 1,87 – 5,90
ppb (tiêu chuẩn cho phép là 10ppb), còn trong các mẫu khác hầu hết đều có Aflatoxin B1
với hàm lượng rất cao. Cá biệt có những mẫu chứa từ 140 - 300 ppb.
7.2. Trên thế giới
− Ở Thái Lan năm 1967, nhóm nghiên cứu của Shank cho thấy các mẫu lương thực
thực phẩm bị mốc thì 50-60% số mẫu đó có Aflatoxin. Ðồng thời nhóm tác giả này tiến hành
22
Tiểu luận môn ATVSTP: “Độc tố aflatoxin” GVHD: Trần Thị Mai Anh
trên thức ăn gia đình (lấy mẫu lương thực thực phẩm tại các gia đình ) thì cũng thấy có 30-
50% số mẫu có độc tố Aflatoxin.
− Theo báo cáo của Stoloff năm 1982 thì mức độ nhiễm aflatoxin trong lạc khi nhập
vào Mỹ thường có dư lượng trên 25ppb.
− Trong vòng 24 tháng từ tháng 10 năm 2004 đến tháng 9 năm 2005 hãng Biomin đã
lấy mẫu kiểm tra độc tố nấm (970 mẫu) nguyên liệu thức ăn gia súc của các nước châu Á.
Cách phân vùng lấy mẫu như sau: các nước và vùng lãnh thổ thuộc Bắc Á gồm Trung
Quốc, Hàn Quốc và Đài Loan; các nước Đông Nam Á gồm Malaysia, Philippin, Thái Lan,
Việt Nam; các nước Nam Á có Ấn Độ; Bangladesh, Pakistan; các nước châu Đại Dương có
Úc và Tân Tây Lan. Sự có mặt và nồng độ của Aflatoxin là khá cao, từ 65-69% (Việt Nam
và Philippin). Đặc biệt, một mẫu ngô của Việt Nam có nồng độ cao nhất là 347 µg/kg.
23
Tiểu luận môn ATVSTP: “Độc tố aflatoxin” GVHD: Trần Thị Mai Anh
24
Tiểu luận môn ATVSTP: “Độc tố aflatoxin” GVHD: Trần Thị Mai Anh
25
Tình hình độc tố nấm

Aflatoxin
Ngô
Số mẫu kiểm tra 232
Tỷ lệ dương tính (%) 19
Bình quân (µg/kg)
57
Tối đa (µg/kg)
347
Khô đậu tương
Số mẫu kiểm tra 88
Tỷ lệ dương tính (%) 3
Bình quân (µg/kg)
9
Tối đa (µg/kg)
13
Lúa mì/cám
Số mẫu kiểm tra 73
Tỷ lệ dương tính (%) -
Bình quân (µg/kg)
-
Tối đa (µg/kg)
-
Gluten ngô
Số mẫu kiểm tra 26
Tỷ lệ dương tính (%) 8
Bình quân (µg/kg)
22
Tối đa (µg/kg)
45
Gạo /cám

Số mẫu kiểm tra 23
Tỷ lệ dương tính (%) 13
Bình quân (µg/kg)
10
Tối đa (µg/kg)
11
Khô dầu lạc
Số mẫu kiểm tra 7
Tỷ lệ dương tính (%) 100
Bình quân (µg/kg)
202
Tối đa (µg/kg)
381
Các nguyên liệu khác (khô hạt cải, đậu
tương, bột cá…)
Số mẫu kiểm tra 46
Tỷ lệ dương tính (%) 7
Bình quân µg/kg)
24
Tối đa (µg/kg)
330
Thức ăn hỗn hợp
Số mẫu kiểm tra 407
Tỷ lệ dương tính (%) 22
Bình quân (µg/kg)
24
Tối đa (µg/kg)
330
Rơm /thức ăn ủ xanh
Số mẫu kiểm tra 61

Tỷ lệ dương tính (%) 31
Bình quân (µg/kg)
10
Tối đa (µg/kg)
17

×