Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Bài giảng đại cương sức khỏe môi trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (253.03 KB, 30 trang )

Bài 1 : Đại cương sức khỏe môi trường
Bộ môn SKMT_YTB
MỤC TIÊU:
1. Nêu được các khái niệm môi trường, sức khỏe và sức khỏe môi trường.
2. Mô tả được những ảnh hưởng của môi trường lên sức khỏe và sự tác động trở
lại môi trường của con người;
3. Liệt kê được thực trạng môi trường và Sức khỏe môi trường.
4. Trình bày được các nguyên tắc cơ bản của phòng chống ô nhiễm môi trường.
NỘI DUNG:
1. Khái niệm môi trường, sức khỏe và sức khỏe môi trường là gì? Phân loại
môi trường.
- Ngoại cảnh : Đó là những thực thể của tự nhiên, con người và những kết quả
của con người. Ngoại cảnh tồn tại một cách khách quan.
- Môi trường sống (môi sinh): Là một phần của môi trường mà ở đó có sự thống
nhất của các yếu tố tác động trực tiếp lên đời sống của sinh vật. Mỗi một loài đều có
một môi trường sống riêng cho loài đó mà tại đó hình thành các mối quan hệ tương tác
trong một hệ sinh thái ổn định.
- Hệ sinh thái: Là tập hợp tất cả các sinh vật cùng với mối quan hệ tương tác
khác nhau giữa các sinh vật đó, là mối tác động tương hỗ giữa chúng với môi trường.
Như vậy hệ sinh thái chính là thể thống nhất giữa quần xã sinh vật của các cá thể sống
và môi trường sống của nó.
Môi trường là "Tất cả" mọi thứ bên ngoài cơ thể vật chủ con người. Nó có thể
được phân chia thành môi trường vật lý, sinh học, xã hội, văn hóa, bất kỳ môi trường
nào hoặc tất cả các môi trường nói trên đều có ảnh hưởng đến sức khỏe của quần thể.
Định nghĩa này được dựa trên khái niệm là sức khỏe của một người về cơ bản
được xác định bởi các yếu tố di truyền và môi trường. Các yếu tố di truyền (gen), bao
gồm DNA trong mỗi tế bào cơ thể, được truyền từ cha mẹ sang con cái. Các gen này
được tồn tại ngay sau khi phôi mới được hình thành và thường không thay đổi trong
suốt cuộc đời mỗi người. Nếu như có một gen thay đổi có thể dẫn đến sự rối loạn chức
năng của cơ thể, làm chết tế bào và đôi khi dẫn tới ung thư, đó là kết quả của những
biến đổi đặc thù. Một số nghiên cứu cho rằng các gen tạo ra một bức tường "đồng hồ


tự phá hủy", vì cơ thể chỉ hoạt động đúng chức năng trong một khoảng thời gian giới
hạn nhất định, giới hạn này đối với hầu hết các cá thể trong khoảng 70-100 năm. Vật
chất di truyền của một cá thể là một trong những yếu tố chính xác xem người ấy bị ảnh
hưởng như thế nào khi bị phơi nhiễm đối với môi trường. Trong khi mọi người sẽ gặp
phải vấn đề khi tiếp xúc với lượng đủ lớn các yếu tố nguy cơ từ môi trường, một số
người lại bị ảnh hưởng ở mức độ thấp hơn, bởi vì trong cơ thể họ có những yếu tố
nguy cơ/ điều kiện nguy cơ đã tồn tại trước đó hoặc đồng thời xẩy ra, và một số ảnh
hưởng sự mẫn cảm (Jedrychowski và Krzyzanowski,1995).
Đói, cuộc sồng nghèo khổ và điều kiện làm việc tồi tan, không được giáo dục
đầy đủ được coi là chính đối với sức khỏe. Trong nhiều năm qua, chúng ta đã nhận
thấy rõ là những tiến bộ đáng kể về sức khỏe không thể đạt được nếu như không có
những tiến bộ về các điều kiện kinh tế xã hội. Cung cấp các dịch vụ sức khỏe phù hợp
với các điều kiện nói trên được đề cập trong chính sách Sức khỏe cho mọi người của
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), được hình thành ở hội nghị AlmaAta năm 1978. Tuyên
ngôn cuối cùng cho rằng mục tiêu của mọi chính phủ, của các tổ chức quốc tế, và của
cộng đồng thế giới là "tất cả mọi người trên thế giới vào năm 2000 đạt được tình trạng
sức khỏe cho phép họ có một cuộc sống đảm bảo cả về mặt và kinh tế". Điều này chỉ
có thể sử dụng được thông qua việc sử dụng đầy đủ hơn và tốt hơn các nguồn tài
nguyên của thế giới: Sức khỏe chỉ có thể đạt được ở nơi các tài nguyên sẵn sàng có thể
đáp ứng cho những nhu cầu của con người mà ở nơi mà môi trường sống và làm việc
tránh được khỏi các chất đe dọa cuộc sống và đe dọa sức khỏe, các tác nhân gây bệnh
và yếu tố vật lý nguy hại" (WHO, 1992).
Sự ô nhiễm và sự suy thoái môi trường có một tác động to lớn đối với sức khỏe
con người. Hàng năm, hàng trăm triệu người mắc phải các bệnh đường hô hấp và các
bệnh liên quan đến ô nhiễm không khí trong và ngoài nhà. Hàng trăm triệu người phải
tiếp xức với những chất vật lý hóa học và độc hại không cần thiết ở môi trường sống
và môi trường làm việc của họ. Nửa triệu người bị tử vong trên các tuyến đường. Hàng
năm có 4 triệu trẻ sơ sinh và trẻ em chết do các bệnh ỉa chẩy, chủ yếu là do thực phẩm
và nước bị nhiễm bẩn. Hàng trăm triệu người bị suy kiệt cơ thể do ký sinh trùng đường
ruột. Hàng năm có 2 triệu người tử vong do sốt rét và 267 triệu người mắc sốt rét. Mỗi

năm có 3 triệu người chết do bệnh lao và 20 triệu người mắc lao. Hàng trăm triệu
người phải chịu chế độ dinh dưỡng nghèo nàn. Hầu hết những vấn đế sức khỏe kể trên
đều có thể phòng tránh được (WHO1992).
Như đã được trình bày trong cuốn: "Hành tinh của chúng ta, sức khỏe chúng ta
(WHO,1992), trách nhiệm bảo vệ và nâng cao sức khỏe là của tất cả mọi người trong
xã hội. Để có sức khỏe tốt không chỉ là trách nhiệm của cán bộ y tế, chẳng hạn như
bác sỹ, y tá, nhân viên vệ sinh, nhân viên đảm bảo an toàn, những người chữa bệnh,
chăm sóc người ốm, loại trừ các tác nhân gây bệnh và giảm thiểu chấn thương. Sức
khỏe của con người hiện nay là trách nhiệm của những nhà lập kế hoạch, của các kiến
trúc sư, giáo viên, các ông chủ, các nhà quản lý các cơ sở công nghiệp và tất cả những
người khác có ảnh hưởng tới môi trường vật lý và xã hội. Rõ ràng là, các nhân viên y tế
có một vai trò đặc biệt về sức khỏe môi trường, nhưng họ cần phải làm việc với tất cả
mọi nhóm ngành khác trong xã hội để nâng cao sức khỏe. Khả năng làm việc theo các
nhóm và sử dụng cách tiếp cận kỷ luật thông suốt là chìa khóa để có thể giải quyết các
vấn đề sức khỏe môi trường (Somervile và Rapport, 2000).
Sức khỏe (theo định nghĩa của WHO): Là trạng thái hoàn toàn khỏe mạnh về
thể chất, tinh thần và xã hội chứ không đơn thuần chỉ là vô bệnh hay vô tật. Đây là
định nghĩa được sử dụng nhiều nhất. Các chuyên gia về y tế đề cập nhiều đến vấn đề
về bệnh, tật và tử vong hơn là sự lý tưởng về sức khỏe.
Sức khoẻ môi trường: Là một ngành khoa học và thực tiễn hướng vào nghiên
cứu những tác động qua lại hữu cơ giữa môi trường với sức khoẻ và có những biện
pháp quản lý môi trường trong sự phát triển vì sức khoẻ con người.
Sức khoẻ môi trường là cầu nối giữa hai lĩnh vực: Sức khoẻ và môi trường
Môi trường sống của con người bao gồm:
- Môi trường tự nhiên: Đất, nước, không khí, hệ động vật, thực vật.
- Môi trường xã hội: Con người, gia đình, cộng đồng
Các yếu tố của môi trường tự nhiên và các yếu tố của môi trường xã hội luôn
thống nhất với nhau trong một khối bền vững. Con người, dân số là một trong các yếu
tố của môi trường. Bất cứ sự thay đổi nào đó của một trong các yếu tố của môi trường
do con người gây ra hoặc do ảnh hưởng của các yếu tố khác của môi trường được gọi

là tình trạng ô nhiễm môi trường.
Sức khỏe của một người về cơ bản được xác định bởi các yếu tố di truyền và
môi trường. Các yếu tố di truyền (gen), bao gồm các phân tử AND trong mỗi tế bào cơ
thể và được truyền từ cha mẹ sang con cái. Các gen này được tồn tại ngay khi phôi thai
mới được hình thành và thường không thay đổi trong suốt cuộc đời của mỗi con người.
Chính vì vậy, trong khi tiếp xúc với môi trường và các yếu tố nguy cơ môi trường như
nhau nhưng một số người bị ảnh hưởng ở mức độ thấp vì trong cơ thể họ đã có những
yếu tố /điều kiện nguy cơ đã tồn tại trước đó hoặc đồng thời xảy ra. Mặt khác, họ được
thừa nhận sự mẫn cảm.
Môi trường xã hội cũng là vấn đề rất quan trọng và ảnh hưởng đến sức khỏe
con người. Chẳng hạn, đói nghèo và điều kiện làm việc thiếu thốn, con người không
được giáo dục đầy đủ được coi là trở ngại chính đối với sức khỏe. Trong những năm
qua, chúng ta đã nhận thấy rõ những điều đó, bởi lẽ nếu không có những tiến bộ về
điều kiện kinh tế xã hội thì những tiến bộ về sức khỏe con người đã không đạt được
như hiện nay.
2. Lịch sử phát triển môi trường
Hipocrate, người sáng lập ra nền y học, trong luận văn "bàn về không khí, nước
và đất" đã mô tả lần đầu tiên một cách có hệ thống những điều kiện môi trường và ảnh
hưởng của nó tới sức khoẻ con người. Theo ông, môi trường luôn luôn có những yếu
tố thuận lợi cho sức khỏe và cũng có những yếu tố không thuận lợi cho sức khoẻ, làm
nảy sinh bệnh tật - yếu tố bệnh tật. Theo Hipocrate, "bệnh cần chữa theo căn nguyên.
Nếu là viêm nhiễm, cần ngăn chặn nguồn gốc gây viêm nhiễm, nếu là nguồn gốc khác,
phải trừ khử căn nguyên nguy hại".
Ông tin rằng bệnh tật có nguồn gốc của nó và đã liệt kê trước hết các yếu tố địa
lý, khí hậu và khí tượng. Ông đã chỉ dẫn cho các học trò khi khám bệnh cho người từ
một đô thị tới cần hỏi xem nơi đó nhìn về hướng nào, nếu nhìn về hướng nam sẽ khác
với hướng bắc, hướng mặt trời mọc sẽ khác với hướng mặt trời lặn. Nước uống lấy từ
nguồn nào, các nguồn khác nhau sẽ có chất lượng nước khác nhau. Đất nơi ở khô cằn
hay ẩm thấp, sình lầy. Về tính cách con người, Hipocrate cho rằng cũng bị ảnh hưởng
bởi nơi ở. Người ở vùng núi cao nguyên tràn gió đủ nước sẽ khác người sống ở vùng

khô cằn. Về cách sống nếu kém vận động sẽ dễ mắc bệnh và kém phát triển, già trước
tuổi. Thiên nhiên là người thầy thuốc chữa các bệnh tật thông qua sự giúp đỡ cơ thể tự
tái lập tình trạng sức khoẻ.
Sau Hipocrat, Aristốt và các học trò của ông đã kế thừa và phát triển luận giải
về sự thống nhất của cơ thể sống (con người, sinh vật) với môi trường thiên nhiên.
Nhưng rồi nhiều năm trôi qua, say mê phát triển và khai thác, kém hiểu biết môi
trường thiên nhiên, con người đã gây ra những tác hại vô cùng to lớn không chỉ tới sức
khoẻ mà còn cả sự tồn vong của chính mình (F.Engel - Phép biện chứng của tự nhiên).
Nhà sinh thái học người Mỹ Rachel Cason từ thế kỷ trước đã mô tả thế giới vì
dùng quá nhiều thuốc trừ sâu mà không còn được nghe tiếng chim hót. Chỉ đến khi đó
con người mới nhận ra nguyên nhân của mối sầu não và hiểu rằng giữa sức khoẻ con
người và sức khoẻ môi trường thiên nhiên có mối quan hệ ràng buộc thống nhất.
Ở các nước phát triển, vào một lúc nào đó sau khi đã thoả mãn với các thành
tựu chinh phục thiên nhiên, con người đã cảm thấy vô vọng, buồn chán và cô đơn
trong các đô thị sầm uất. Giữa thế kỷ 20, con người ở một số nước đã chán chường tất
cả, không muốn phát triển đô thị nữa.
Để bảo vệ các cánh rừng nhân tạo, con người đã vất vả phun hoá chất bảo vệ.
Trong khi mà các khu rừng cân bằng với cấu trúc tự nhiên có đủ khả năng tự phòng
chống các dịch bệnh. Phun hoá chất từ máy bay chỉ 25% tới được bề mặt vật cần tiếp
nhận, còn lại khuếch tán vào không khí để rồi rơi trở về đất nước, thâm nhập vào cơ
thể con người.
Con người làm nhiễm bẩn môi trường để rồi phải gánh chịu hậu quả, phải tốn
kém đầu tư phòng chống bệnh tật, phòng chống các mối nguy hại mới và làm sạch các
chất thải. Ví dụ: Chất thải nhiều vùng đổ ra biển đã làm chết nhiều sinh vật đối kháng
biển. Cho nên sao biển và nó đã huỷ hoại san hô cùng các động vật có ích khác.
Cho đến hôm nay không phải tất cả đã thấm nhuần khái niệm quan trọng được
tổ chức Văn hoá và giáo dục Liên hợp quốc đưa ra cách đây hơn hai thập kỷ: Bảo tồn
vì sự phát triển lâu bền. Và cũng chưa phải đã hiểu rằng: Phải tìm cách dung hoà
những yêu cầu của phát triển với nhu cầu bảo vệ môi trường thiên nhiên.
Con người không thể cứ đứng ra ngoài hệ sinh thái mà họ đang sống để rồi lại

kêu cứu. Các nhà sinh thái học đã cảnh cáo từ lâu rằng các hệ sinh thái đô thị là giả tạo
và không cân bằng. Nhà sinh thái học Mỹ Commonet đã vạch chỉ ra rằng mức nhiễm
bẩn ở Mỹ đã tăng lên gấp 10 lần trong 25 năm qua.
Cuộc khủng hoảng môi trường lần thứ nhất
Làn sóng thứ nhất về mối quan tâm môi trường rộng lớn xuất hiện ở Châu Âu ở
thế kỷ XIX để phản ứng lại với những vấn đề y tế công cộng nghiêm trọng liên quan
đến vấn đề thực phẩm bị làm giả và nhiễm bẩn nguồn nước. Mối đe dọa cơ bản ở thời
đó là các tác nhân các bệnh truyền nhiễm do công chúng và chấn thương gây tàn tật và
gây tở vong ở các cơ sở làm việc. Sự phát triển nhận thức, dẫn tới những hành động
chính trị, dã xuất hiện vào thời điểm có sự lo âu lớn về mặt xã hội và cuối cùng là cuộc
cải cách. Nạn lao động trẻ em, nạn mại dâm, nghiện rượu và nghiện ma túy, các hoạt
động khai thác sức lực của người lao động, tội phạm, quyền sở hữu đất, thường được
tập trung trong tay một số ít người, thường là những chủ đất vắng mặt, là tất cả những
vấn đề trong bức tranh nổi cộm của châu Âu ở thời điểm đó , đặc biệt là những nước
phát triển như Anh, Scoland, Pháp, liên bang Đức, và đế quốc Áo- Hung. Trào lưu cải
cách giữa thế kỷ đã khắc phục tất cả những vấn đề này bằng luật pháp và luật pháp đó
được thực hiện dần dần và không phải lúc nào cũng hiệu quả. Những vấn đề này đã
làm giảm rõ rệt phạm vi của các vấn đề nhưng không giải quyết được vấn đề đó.
Năm 1948, Quốc hội Anh đã thông qua đạo luật y tế công cộng đầu tiên. Đây là
một sự kiện quan trọng ở thời điểm giữa của trào lưu cải cách và đã tiếp cận được tới
tất cả các khu vực đô thị. Tuy nhiên, ô nhiễm công nghiệp gần như là được bỏ qua ở
thời điểm đó. Một phần là do chính phủ nhận thấy vai trò trách nhiệm của mình trong
việc bảo vệ quyền lợi của các ông chủ nhà máy. Đạo luật y tế công cộng tập trung vào
các vấn đề ô nhiễm môi trường theo một kiểu khác, đó là nước sạch của các yếu tố
nguy cơ đối với sức khỏe con người có liên quan tới các bệnh truyền nhiễm. Thuyết
kinh tế thịnh hành là sự tăng trưởng kinh tế không bị giới hạn sẽ đem lại lợi ích của
mọi tầng lớp trong xã hội và những lợi nhuận tố đa là cần thiết để thu hút đầu tư. Một lý
do khác để không quan tâm tới môi trường là những vấn đề xã hội cấp bách khác quá rõ
ràng đến mức ô nhiễm thường như ít quan trọng hơn nhiều. Vào cùng thời điểm đó, về cơ
bản là chưa có khoa học y tế cộng công nào đề cập tới ô nhiễm hóa học, mặc dù những

hiểu biết khoa học về những tác động lên sức khỏe của việc phơi nhiễm với các chất độc
hại tương đối cao. Lịch sử của những mối quan tâm và những hành động của ô nhiễm môi
trường là tập hợp của nhũng vấn đề ô nhiễm công nghiêp đi đôi với những vấn đề y tế
công cộng khác về chương trình nghị sự công cộng sau thời gian bị lãng quên.
Sự thiếu hiệu quả về mặt bản chất của công nghệ thời đại Vitoria đã làm cho ô
nhiễm trở thành vấn đề nghiêm trọng mãi cho đến tận đầu thế kỷ XX, vấn đề này được
đặc trưng hơn bởi sự cải tiến về công nghệ kỹ thuật hơn là đổi mới công nghệ. Hóa
học ứng dụng và kỹ thuật hóa học ứng dụng đã mở rộng một cách to lớn vào cuối
những năm 1700
s
và 1800
s
. Điều này dẫn tới sự ra đời của nhiều quá trình tạo ra ô
nhiễm, đặc biệt là quá trình sản xuất axit sulfuric, xà phòng, chất tẩy và tro sô đa
(sodium carbonate). Hóa học hữu cơ phát triển muộn hơn và đã tạo ra nhiều chất hóa
học tổng hợp mới. Tuy nhiên, ở thời kỳ này, hầu hết các chất hóa học đều là những
chất có khả năng phân hủy sinh học - tức là cuối cùng thì chúng cũng sẽ bị phân hủy
bởi quá trình tự nhiên trong môi trường. Các chất hóa học tồn tại lâu hơn trong môi
trường hầu hết là xuất hiện muộn hơn, trừ các kim loại như chì.
Ngay trước và trong Chiến tranh thế giới lần thứ 2, những tiến bộ quan trọng
trong kỹ thuật và trong ngành hóa học đã làm thay đổi về cơ bản bộ mặt của các ngành
công nghiệp, đặc biệt là ngành hóa học. Cao su tổng hợp, các chất dung môi, chất dẻo,
và thuốc trừ sâu đã trở nên sẵn và thường là hiệu quả hơn và giá thành rẻ hơn so với
những sản phẩm cũ. Rất nhiều trong số những chất hóa học mới này dựa trên ngành
hóa học clo. Một số lượng lớn trong số những chất này trở nên rất khó phân hủy bởi
các quá trình tự nhiên và tồn dư trong môi trường. Những thay đổi về công nghệ và
những nhu cầu lớn hơn từ những người tiêu dùng ở Bắc Mỹ, Nhật Bản và châu Âu
cũng đưa tới sự tăng lên mạnh mẽ về lượng chất độc hại tạo ra. Trong những năm sau
chiến tranh , việc sản xuất được mở rộng ồ ạt cùng với nạn ô nhiễm công nghiệp tăng
mạnh đã dẫn tới sự phản đối kịch liệt của công chúng ở nhiều nước vào những năm

1960
s
và 1970
s
.
Cuộc khủng hoảng môi trường lần thứ hai
Làn sóng thứ hai về mối quan tâm của công chúng đối với môi trường, bắt đầu
từ giữa, cuối thế kỷ XX, chủ yếu là hai trào lưu lớn xuất hiện cùng với nhau và gọi là
trào lưu môi trường hoặc trào lưu sinh thái học. Trong trào lưu thứ nhất, khởi nguồn từ
thế kỷ XIX, việc bảo tồn các tài nguyên thiên nhiên và bảo tồn các cơ sở đặc biệt có
tầm quan trọng về mặt tự nhiên hoặc lịch sử là những ưu tiên quan trọng. Mãi cho đến
tận giữa thế kỷ XX, thành tựu chính của trào lưu này là việc công nhận những khu
vực nhất định là những công viên, các khu động vật hoang giã và các khu đất được bảo
tồn ở nhiều nước khác nhau. Trào lưu thứ 2 chú trọng vào các chất độc hại có thể gây
nguy hại cho con người và phá hủy môi trường. Nó phát triển từng phần và vượt xa
hơn mối quan tâm của mọi người ở đầu thế kỷ về sự pha chế thực phẩm và dược
phẩm; thành tựu lớn nhất của trào lưu này là các đạo luật về an toàn thực phẩm và an
toàn dược phẩm, chủ yếu là ở đầu thế kỷ 20. Trào lưu thực phẩm và dược phẩm tinh
khiết đã coi các chất gây ô nhiễm môi trường là một vấn đề trọng tâm sau sự kiện gia
tăng hàng loạt trong sản xuất sau đại chiến thế giới lần thứ 2. "Trào lưu các chất độc
hại" mới đã được công chúng cảm nhận một cách rõ ràng trong cuốn sách gây nhiều
ảnh hưởng của Rachel Carson Mùa xuân lặng lẽ xuất bản năm 1962. Việc phơi nhiễm
với các chất độc hại xẩy ra ở nơi làm việc thương nguy hiểm hơn so với phơi nhiễm
các loại nước thải, khí thoát ra từ nhà máy, cơ sở sản xuất. Tuy nhiên vào thời điểm
đó, trào lưu môi trường ít quan tâm trực tiếp tới việc cải thiện sức khỏe của người công
nhân, vì hai vấn đề này không liên quan rõ ràng với nhau. Vấn đề sức khỏe của người
công nhân tiến triển chậm chạp, trở thành một phần của trào lưu cải thiện quyền lợi
của công nhân.
Những trào lưu công cộng này và Hội nghị của Liên Hợp quốc về Môi trường
của con người năm 1972 đã thuyết phục nhiều chính phủ quốc gia đưa ra luật pháp

nhằm kiềm chế ô nhiễm công nghiệp, chủ yếu là thông qua việc yêu cầu các công ty hạn
chế khí thải và nước thải ô nhiễm trào lưu môi trường này lên đến đỉnh điểm vào đầu
năm 1970
s
, nhưng trào lưu này để lại một khung về các quy định, công nghệ mới, các
chính sách chú trọng vào việc ngăn ngừa ô nhiễm hóa học đặc thù cho những nước phát
triển. Mặc không hoàn toàn hiệu quả, những hành động này đã làm giảm đáng kể tổng
lượng ô nhiễm công nghiệp trong khoảng thời gian và thu được nhiều kết quả trong cải
thiện môi trường. Có thể hơi phóng đại khi cho rằng những nước phát triển đã giải quyết
được các vấn đề ô nhiễm công nghiệp hoặc thậm chí giảm chúng xuống tới mức có thể
chấp nhận được, nhưng phạm vi của vấn đề đã giảm đi một cách rõ rệt.
Trọng tâm của thời kỳ này chủ yếu là các chất hóa học đặc thù tương đối độc.
CO
2
và chất hóa học không độc CFC (chloroflorcarbon) là hai chất bị bỏ quên trong
mối quan tâm năm 1970
s
. Mãi cho đến tận cuối những năm 1980
s
, người ta mới biết
những chất này là những chất vô cùng độc hại đối với môi trường mặc dù các nhà
khoa học đã cảnh báo về hiệu ứng độc hại của chúng sớm hơn nhiều. Kể từ đó, những
chất hóa học này đã trở thành mối quan tâm chủ yếu về môi trường .
Làn sóng quan tâm đến môi trường lần thứ 3
Trong những năm 1980
s
và những năm 1990
s
, tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao, kết
hợp với sự tăng lên đáng kể về dân số thế giới, đã tạo ra một yếu tố quan trọng mới

vào sự cân bằng môi trường. Cho tới những năm 1980
s
thì mức độ sản xuất ở các nước
đang phát triển tương đối thấp so với các nước phát triển. Hậu quả là ô nhiễm công
nghiệp các nước đang phát triển có khuynh hướng chỉ giới hạn ở những khu vực địa
phương, giống như tình trạng đã xẩy ra ở châu Âu và Mỹ trước đó. Tuy nhiên, gần
đây, mức độ sản xuất ở nước này đã tăng nhanh một cách đáng kể cùng với nhu cầu
hàng hóa và khả năng buôn bán thương mại giữa các nước này ngày càng dẽ dàng do
xu hướng toàn cầu hóa thương mại. Hầu hết việc sản xuất ở lĩnh vực mới này đều thiếu
vốn đầu tư và do vậy thường phải dựa trên những công nghệ thích hợp và rẻ tiền hơn.
Chỉ có một số ít biện pháp kiểm soát nước thải và khí thải được áp dụng, dẫn đến sự
gia tăng về ô nhiễm công nghiệp.
Kể từ năm 1987 về việc xuất bản bóa cảo chuyên đề Tương lai của chúng ta
(WCED,1987), việc lập kế hoạch về môi trường và phát triển kinh tế đã được định
hướng theo "phát triển bền vững", mức độ sản xuất và hoạt động được thực hiện trong
một thế hệ mà không làm phương hại đến tính toàn vẹn của môi trường hoặc không
làm suy thoái các nguồn tài nguyên để hỗ trợ cho thế hệ tiếp theo. Khái niệm này, gần
giống với ý tưởng về sinh học của sự giống trong khả năng chứa đựng của hệ sinh thái
đối với một xã hội, đã xâm nhập được vào xu hướng kinh tế và quản lý môi trường. Nó
đại diện cho cách nghĩ về sự phát triển có cân nhắc tới việc quản lý các nguồn tài
nguyên, ô nhiễm, phát triển xã hội và sức khỏe con người .
Nhiều mối quan tâm mói về môi trường tiếp tục xuất hiện. Một số nhà động học
đang chú trọng vào các chất hóa học phá vỡ hệ thống nội tiết và tồn tại bền vững trong
môi trường. Rõ ràng là mối quan tâm về sự thay đổi môi trường toàn cầu tạo ra những
mối quan tâm tiến bộ về môi trường sẽ vẫn còn tiếp tục trong những thập kỷ mới.
Những nhu cầu cơ bản cho một môi trường lành mạnh
Bầu không khí trong sạch
Không khí rất cần cho sự sống. Nếu không có không khí, con người sẽ chết
trong vòng vài phút. Ô nhiễm không khí là một trong những vấn đề môi trường trầm
trọng nhất trong tất cả các cấp độ phát triển kinh tế khác nhau. Hàng ngày, có 500 triệu

người phải tiếp xúc với một lượng lớn hàm lượng ô nhiễm không khí trong nhà ở các
dạng như: khói từ các lò sưởi không kín hoặc lò sưởi được thiết kế kém. Có khoảng
1,5 tỷ người ở các khu vực thành thị phải sống trong môi trường bị ô nhiễm nặng nề
(WHO, 1992). Sự phát tiển của ngành công nghiệp đi đôi với việc thải ra với số lượng
lớn các khí và các chất hạt từ các quá trình sản xuất công nghiệp và quá trình đốt cháy
các nhiêm liệu hóa thạch cho nhu cầu giao thông vận tải và lấy năng lượng. Khi tiến bộ
công nghệ đã bắt đầu chú trọng đến việc kiểm soát ô nhiễm không khí bằng cách giảm
việc thải ra các chất hạt thì người ta vẫn tiếp tục thải ra những chất khí, do vậy ô nhiễm
không khí vẫn còn là vấn đề lớn. Mặc dù hiện nay nhiều nước phát triển đã có những nỗ
lực lớn để kiểm soát cả việc thải khí và các chất hạt, nhưng ô nhiễm không khí vẫn là
nguy cơ đối với sức khỏe, thậm chí ngay cả trong những điều kiện tương đối tốt.
Ở những nước đang phát triển nhanh chóng, những nguồn lực thích hợp có thể
không được đầu tư vào việc kiểm soát không khí còn những ưu tiên khác về kinh tế xã
hội. Việc phát triển công nghiệp nhanh chóng ở những nước này đã xẩy ra đồng thời
với việc phát triển nhanh chóng ô tô và các loại xe tải khác, nhu cầu điện thắp sáng tại
các hộ gia đình cũng tăng lên, dân số tập trung ở các khu đô thị hoặc các thành phố
lớn. Kết quả là một số thảm họa ô nhiễm không khí tồi tệ nhất trong lịch sử thế giới đã
xuất hiện.
Trong nhiều xã hội truyền thống và trong các xã hội việc sử dụng các nguồn
năng lượng sạch ở các hộ gia đình vẫn chưa được chú trọng, việc ô nhiễm không khí
đã trở thành một vấn đề trầm trọng vì năng lượng dùng để sưởi ấm và đun nấu còn
thiếu và rất nhiều khói, dẫn đến ô nhiễm trong nhà và ngoài trời. Kết quả là con người
có thể bị kích thích màng nhầy, viêm đường hô hấp, bệnh phổi, các vấn đề về mắt và
tăng nguy cơ bị ung thư. Phụ nữ và trẻ em ở các cộng đồng nghèo khổ trong các nước
đang phát triển là những người đặc biệt phải tiếp xúc nhiều với ô nhiễm không khí.
Chất lượng không khí trong nhà cũng là vấn đề nghiêm trọng của nhiều nước
phát triển vì các tòa nhà được thiết kế theo kiểu kín gió và có hiệu quả cao về mặt
năng lượng. Hệ thống lò sưởi và hệ thống làm lạnh, khói, hơi từ các vật liệu tích trữ
trong nhà tạo ra nhiều chất hóa học và gây ô nhiễm không khí.
Nước sạch và đủ nước

Nước cũng rất cần thiết cho sự sống. Con người cần phải uống tối thiểu từ 1 đến
2 lít nước/ngày. Nếu sau 4 ngày không có nước, con người sẽ chết. Nước cũng cần
thiết cho thực vật, động vật và nông nghiệp. Trong suốt lịch sử và con người luôn tập
trung sống dọc theo các bờ sông, ven hồ để lấy nước cho sinh hoạt và nông nghiệp.
Nước cũng cung cấp phương tiện vận chuyên tự nhiên, được sử dụng để xử lý chất thải
và đóng một vai trò quan trọng trong các ngành công nghiệp, nông nghiệp và ngư
nghiệp. Mặc dù nước ngọt có thể coi là nguồn tài nguyên có thể tái sử dụng, nhưng
nước ngọt cũng không phải là nguồn tài nguyên vô tận. Hơn nữa, nước được phân bố
không đồng đều ở các khu vực địa lý và dân cư trên thế giới. Tại rất nhiều nơi, việc
thiếu nước đã trở thành trở ngại lớn đối với việc phát triển công nghiệp và nông
nghiệp. Trong một số trường hợp, việc thiếu nước đã gây ra nhiều cuộc xung đột( ví
dụ: những xung đột tranh chấp nước ngọt ở các khu vực trung đông). Việc khan hiếm
nước dẫn đến đói nghèo và làm cằn cỗi đất đai, rất nhiều khu vực thành phố và các
khu vực nông thôn đã khai thác nước từ các tầng nước ngầm này có thể tự bổ xung lại
được
.Chất lượng của nước ngọt có tầm quan trọng rất lớn trong việc duy trì
sức khỏe con người. Rất nhiều bệnh truyền nhiễm đe dọa sự sống và sức khỏe con
người được truyền qua nước hoặc qua thực phẩm bị nhiễm bẩn, có khoảng 80% tất cả
các bệnh tật ở các nước đang phát triển là do thiếu nước sạch và thiếu các phương tiện
phù hợp để xử lý phân(WHO, 1992a). Gần một nửa dân số trên thế giới mắc phải các
bệnh do thiếu nước hoặc qua thực phẩm bị nhiễm bẩn, có khoảng 80% tất cả các bệnh
tật ở các nước đang phát triển là do thiếu nước hoặc nước bị nhiễm bẩn, gây ảnh
hưởng chủ yếu tới người nghèo ở tất cả các nước đang phát triển. Có khoảng 2 tỷ
người trên trái đất có nguy cơ mắc phải các bệnh ỉa chẩy lây lan qua đường nước hoặc
thực phẩm, đây là nguyên nhân chính gây ra tử vong khoảng gần 4 triệu trẻ em mỗi năm.
Các vụ dịch tả , thường được truyền qua nước uống bị nhiễm bẩn, đang tăng lên nhanh
chóng về mặt tần xuất. Bệnh sán máng(200 triệu người nhiễm bệnh) và bệnh giun (10
triệu người nhiễm bệnh) là hai dạng bệnh trầm trọng nhất có liên quan đến nước. Các véc
tơ côn trùng sinh sản nhờ nước cũng truyền qua các bệnh đe dọa sự sống của con người,
chẳng hạn như sốt rét (267 triệu người bị nhiễm), giun chỉ (90 triệu người nhiễm), dưới da

(18 triệu người nhiễm) và sốt xuất huyết (30-60 triệu người nhiễm) (WHO,1992).
Việc thiếu nước thường dẫn đến các vấn đề có liên quan tới chất lượng nước vì
nước thải sinh hoạt, nước thải công nghiệp, nông nghiệp và các khu đô thị đã vượt quá
khả năng của các khu vực nước tự nhiên trong việc phân hủy các chất thải có khả năng
phân hủy sinh học và hòa tan các chất thải không có khả năng phân hủy sinh học. Ô
nhiễm nước xẩy ra trầm trọng nhất là ở các thành phố nơi mà việc kiểm soát các dòng
thải công nghiệp không chặt chẽ và thiếu các cống, rãnh dẫn nước thải, thiếu các nhà
máy xử lý nước thải.
Đủ thực phẩm và thực phẩm an toàn
Thực phẩm cung cấp năng lượng cho cơ thể con người. Tùy vào trọng lượng cơ
thể con người. Tùy vào trọng lượng cơ thể và các hoạt động về thể lực mà cơ thể con
người cần khoảng 1000- 2000 calo năng lượng mỗi ngày. Nếu như không có thực
phẩm con người sẽ chết trong vòng 4 tuần. Thực phẩm cũng cung cấp các vitamin
quan trọng và các chất vi lượng, nếu không có các chất này, con người cũng sẽ mắc
một số bệnh do thiếu vi chất.
Trong vài thập kỷ vừa qua, hệ thống sản xuất lương thực của thế giới đã đáp
ứng đủ so với nhu cầu tăng trưởng dân số. Không có sự thiếu hụt toàn cầu về lượng
thực hoặc thiếu khả năng sản xuất lương thực trong giai đoạn này. Tuy nhiên những
thành công trong nông nghiệp toàn cầu cũng không được phân bố đồng đều. Các nước
châu Á và châu Mỹ La Tinh đã tăng sản lượng lương thực trên đầu người một cách
đáng kể, những sản lượng lương thực của các nước châu Phi vẫn chưa theo kịp mức độ
tăng trưởng kinh tế của họ, và các nước thuộc Liên Xô cũ đã giảm sút sản lượng lương
thực một cách đáng kể. Đối với phần lớn dân số trên thế giới, suy dinh dưỡng và các
bệnh liên quan tới suy dinh dưỡng vẫn còn là một nguyên nhân chính gây ra tình trạng
sức khỏe ốm yếu và chết yểu. Các tác nhân gây bệnh qua thực phẩm gây ra hàng triệu
ca tiêu chẩy mỗi năm, bao gồm hàng nghìn người ở những nước phát triển. Việc phân
bố và sử dụng thức ăn không hợp lý và thủ phạm chính gây ra các ca bệnh này. Việc
suy thoái đất và cạn kiệt các nguồn nước nhanh chóng cũng tọa ra mối đe dọa nguy
hiểm đối với việc sản xuất lương thực trong tương lai. Do áp lực kinh tế để tăng xuất
khẩu các sản phẩm nông nghiệp những, những vùng đất tốt nhất đã không được sử

dụng để sản xuất lương thực cho nhu cầu của địa phương và làm cho vấn đề này càng
trở nên tồi tệ. Trong nhiều trường hợp, ăn uống là con đường phổ biến nhất dẫn đến
việc phơi nhiễm với các chất nhiễm bẩn hóa học trong môi trường.
Ngoài các bệnh lây qua thực phẩm, chế độ ăn không hợp lý cũng gây nhiều tác
động tới sức khỏe, bao gồm cả việc đã chịu đói trong những điều kiện thảm họa, số
lượng trẻ đẻ non và trẻ đẻ ra có cân nặng thấp tăng lên, và các chế độ dinh dưỡng
không có lợi cho sức khỏe đã làm yếu hệ thống miễn dịch và làm cho hàng triệu trẻ em
không tăng trưởng và phát triển bình thường được. Thực phẩn nhiễm chất độc từ thực
vật và mốc hoặc những độc tố trong cá, tôm, cua cũng có thể là vấn đề nguy hại
nghiêm trọng, cũng giống như thực phẩn bị nhiễm bẩn trực tiếp bởi các chất tồn dư
hóa học trong nông nghiệp hoặc bị nhiễm bẩn gián tiếp do ô nhiễm đất bởi các kim
loại và các dung môi độc hại.
Nơi ở an toàn và thanh bình
Để có sức khỏe tốt, con người cũng cần phải có một nơi sinh sống an toàn và
thanh bình. Nhà cửa và các cấu trúc cơ sở hạ tầng khác trong cơ sở hạ tầng khác trong
cộng đồng không hợp lý cũng ảnh hưởng xấu tới sức khỏe của dân cư ở các khu vực
đô thị. Thu nhập thấp, công việc không ổn định, nơi cư trú không an toàn và tình trạng
sức khỏe không tốt luôn đi đồng hành với các khu nhà thiết kế không hợp lý, quá chật
chội, thiếu không gian vệ sinh và điều kiện bảo vệ sức khỏe tối thiểu. Người dân phải
tiếp xúc với các tác nhân gây bệnh, các chất ô nhiễm, bạo lực, các nguy cơ chấn
thương, thường là các dạng tạo ra xung đột bất hòa hoặc rối loạn tâm lý. Nghiện ma
túy, đổ vỡ gia đình, bạo lực đô thị và tự tử được coi là có liên quan đến các ngôi nhà
quá chật chội và thiếu hỗ trợ của cộng đồng. Sinh sống tại những nơi quá chật chội
làm tăng khả năng lây truyền và mắc các bệnh viêm nhiễm đường hô hấp, lao, viêm
màng não, ký sinh trùng đường ruột, trẻ sơ sinh, trẻ em và người già là những đối
tượng có nguy cơ cao nhất do sức đề kháng chưa phát triển đầy đủ hoặc đã bị giảm sức
đề kháng. Chấn thương do bỏng cũng liên quan đến việc sinh sống trong những khu
quá chật chội, vì rất khó để có thể bảo quản an toàn những chất độc hại trong gia đình
như chất tẩy rửa hoặc dầu lửa.
Trong những khu đô thị của những nước đang phát triển, có một tỷ lệ lớn các

ngôi nhà tập trung ở những khu định cư không chính thức được làm bằng các vật liệu
có thể cháy và thường được xây dựng trong những khu vực không an toàn. Các thảm
họa chẳng hạn như trượt đất bùn, lũ lụt và bão, đặc biệt nguy hiểm với những cộng
đồng sinh sống ở những nơi chật chội, không hợp lý này. Nỗi lo sợ bị thu hồi nơi ở
cũng là một nỗi lo thường trực của hầu hết những người thuê nhà và cư dân ở những
khu vực này. Vì những khu vực nhà ở này thường chỉ có những hệ thống dẫn nước thô
sơ và không có hệ thống dẫn nước thải, nguy cơ nhiễm bệnh liên quan đến phân người
rất cao. Ước tính khoảng 30% - 50% chất thải rắn phát sinh trong các khu vực đô thị
của những nước đang được phát triển không được thu gom (WHO,1992).
Chiến tranh và bạo lực cũng là những yếu tố chính dẫn tới phá hủy nhà cửa và
đe dọa sinh mạng cuộc sống, như đã được chứng minh ở Somalia, Rwanda, và Bosnia
Herzegovina
Môi trường toàn cầu ổn định
Sức khỏe con người và sự ổn định của hệ sinh thái có mối liên kết chặt chẽ với
nhau. Sự di chuyển trên phạm vi lớn của các chất ô nhiễm không khí, việc di chuyển
xuyên biên giới của các sản phẩm và các chất thải độc hại, sự phá hủy ozone ở tầng
bình lưu, thay đổi khí hậu và mất đa dạng sinh học là một số vấn đề toàn cầu đe dọa
sức khỏe của nhiều cộng đồng (WHO,1997). Ví dụ, khi nitrogen oxide và sulfur oxide
được thải ra từ các nhà máy năng lượng sử dụng nhiên liệu hóa thạch, chúng sẽ được
vận chuyển theo một khoảng cách rất lớn, rất dài, thường là qua biên giới của các quốc
gia, được biến đổi thành axit và cuối cùng rơi xuống mặt đất ở dạng mưa axit hoặc
tuyết axit. Sức khỏe con người có thể bị ảnh hưởng bởi nước axit này là do chúng
được xử lý trong các nhà máy cung cấp nước, vì nước sẽ chứa đựng nồng độ các chất
kim loại cao hơn (ví dụ đồng và chì từ các ống dẫn, hoặc nhôm và thủy ngân từ đất và
trầm tích). Lớp ozone ở tầng bình lưu cũng đang bị phá hủy bởi nhiều chất hóa học
khác nhau, bao gồm CFCs được sử dụng trong hệ thống làm lạnh. Việc hủy hoại tầng
ozone dẫn tới việc một số quần thể mới phải tiếp xúc với tia cực tím, và điều này sẽ
dẫn đến việc đục nhân mắt, ung thư da và những vấn đề khác. Cuối cùng hiệu ứng nhà
kính, việc thải khí cacbonic và những chất hiệu ứng nhà kính khác, thậm chí là sự ấm
nóng toàn cầu cũng có thể đe dọa môi trường toàn cầu ổn định bảo vệ cho sức khỏe.

Chương trình Môi trường của Liên Hợp quốc(UNEP) đã bắt đầu một dự án Môi
trường toàn cầu năm 1995, đây là một quá trình có sự tham gia của các chuyên gia đến
từ hơn 100 nước. Tài liệu xuất bản gần đây của chương trình, GEO-2000(UNEP,2000)
có ghi việc thải CO2 ở mức toàn cầu vẫn tiếp tục tăng, trong thập kỷ trước tỷ lệ tăng
hằng năm là 1,3%, và mức thải năm 1996 đã tăng gấp 4 lần mức thải năm 1950. GOE-
2000 nhấn mạnh rằng những chính sách thích hợp cần phải được triển khai ngay để
tránh những thảm họa lớn về môi trường.

* Bầu không khí trong sạch
Dân số và môi trường vùng nông thôn Việt Nam
Việt Nam là một nước đang phát triển, sản xuất nông nghiệp vẫn là sản xuất
hàng đầu. Dân số vùng nông thôn chiếm khoảng 80%. Đời sống kinh tế văn hoá của
người dân nhìn chung còn thấp hơn nhiều so với thành thị. Trình độ nhận thức của
người dân còn hạn chế. Bên cạnh đó trong nhân dân còn tồn tại một số tập quán lạc
hậu, đặc biệt là tập quán sử dụng phân tươi để bón ruộng. Vì vậy, những vấn đề vệ
sinh môi trường ở vùng nông thôn là hết sức quan trọng.
Vùng nông thôn Việt Nam hiện nay ngoài chịu ảnh hưởng của tình trạng ô
nhiễm môi trường chung trong khu vực còn có các vấn đề ô nhiễm môi trường nổi cộm
mà tất cả mọi người, mọi ngành đều quan tâm đó là: Ô nhiễm nước, ô nhiễm hoá chất
bảo vệ thực vật và ô nhiễm chất thải của con người.
Từ những năm 1960, Việt nam đã phát động phòng trào vệ sinh môi trường ở
vùng nông thôn điển hình là các phong trào:
* 3 sạch: Ăn sạch, uống sạch và ở sạch
* 3 diệt: Diệt ruồi, diệt muỗi và diệt chuột
* 3 dứt điểm công trình vệ sinh: Nhà tắm, nhà tiêu và giếng nước
- Ao hồ bị lấp bỏ: Ở vùng nông thôn hiện nay, do dân số tăng nhanh, kèm theo
là sự tách hộ cũng tăng nhanh, nhân dân phải lấp bớt các hồ ao, lấn chiếm ruộng canh
tác để làm nhà ở. Ao hồ ở nông thôn có nhiều tác dụng quan trọng: Là nơi điều hoà khí
hậu, là nguồn cung cấp thức ăn cho người và là nơi xử lý chất thải tự nhiên cho xóm
làng. Mất ao hồ xóm làng trở nên oi bức và nhiễm bẩn hơn.

- Dân số tăng nhanh, nhu cầu của người dân cũng tăng nhanh, dẫn đến thiếu
việc làm trầm trọng. Việc di rời dân từ vùng này đến vùng khác, từ nông thôn tới thành
thị để kiếm việc làm là một tất yếu. Chính việc có những đoàn người đi làm ăn theo
thời vụ này đã dẫn đến có những xáo trộn không nhỏ về tình hình vệ sinh môi trường
vùng nông thôn. Bên cạnh đó bệnh dịch cũng có những diễn biến phức tạp cần phải có
những biện pháp phòng chống phù hợp và tích cực hơn.
- Cây xanh vùng nông thôn có xu hướng ngày càng ít: Trước đây các hộ gia
đình thường có hàng rào cây xanh bao quanh nhưng ngày nay hàng rào cây xanh đã bị
phá bỏ, thay thế bằng những bức tường xây bao quanh. Trước đây mỗi xóm làng đều
có hàng cây, luỹ tre xanh bao quanh để bảo vệ nhưng này nay đa số các làng xóm đều
đã phá bỏ, thay thế vào đó là việc trồng một số cây ngắn ngày để cung cấp những
nguồn lợi trước mắt. Điều đó đã làm cho vi khí hậu ở nhiều làng xóm vùng nông thôn
trở nên khắc nghiệt hơn.
- Khói bụi ở vùng nông thôn: Việc đun nấu của người nông dân vùng nông thôn
vẫn còn dựa vào các loại bếp lò truyền thống và bếp than tổ ong, than cám, Đây là
các loại bếp có hiệu suất nhiệt thấp. Nhiệt lượng của bếp phục vụ cho đun nấu ít hơn
nhiều so với nhiệt lượng toả ra xung quanh. Bên cạnh đó rất nhiều khói bụi toả ra xung
quanh bếp cũng như nhà ở, gây nên tình trạng ô nhiễm nội thất ảnh hưởng không nhỏ
tới sức khoẻ của người trực tiếp đun nấu cũng như các thành viên khác trong gia đình.
Ngoài khói bụi do việc đun nấu ở vùng nông thôn còn phải kể đến loại khói bụi do các
lò gạch, ngói, lò gốm, Các loại khói bụi này không những ảnh hưởng xấu đến sức
khoẻ con người mà còn có tác động xấu đến các loại cây cối, mùa màng.
- Vấn đề ô nhiễm hoá chất bảo vệ thực vật: Trong những năm gần đây, việc sử
dụng hoá chất trừ sâu diệt cỏ của người dân là tuỳ tiện. Đặc biệt, từ khi thực hiện cơ
chế khoán sản đồng ruộng Việt Nam đã tràn ngập hàng ngàn tấn hoá chất trừ sâu diệt
cỏ hàng năm.
- Vấn đề ô nhiễm chất thải, đặc biệt là ô nhiễm phân người hiện nay đang là vấn
đề thời sự. Nguyên do chính là việc quản lý sử dụng phân người của người nông dân
còn tuỳ tiện. Biểu hiện của tình trạng ô nhiễm phân người là hầu như tất cả các nguồn
nước trong cộng đồng khi xét nghiệm đều thấy có sự xuất hiện của E. coli, Feacal

coliform và các vi khuẩn chỉ điểm khác.
3. Mối tương tác giữa con người và môi trường
3.1. Sự ảnh hưởng của môi trường lên sức khỏe
Sự ô nhiễm môi trường và suy thoái môi trường có một tác động rất lớn đối với
cuộc sống của con người. Hàng năm, hàng trăm triệu người mắc phải các căn bệnh
đường hô hấp, tiêu hóa, da, niêm mạc, do ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường không
khí trong và ngoài nhà, do ô nhiễm nguồn nước sinh hoạt và ô nhiễm môi trường đất-
thực phẩm. Hàng trăm triệu người cũng phải tiếp xúc với những chất vật lý và hóa học
độc hại không cần thiết ở môi trường sống và môi trường làm việc của họ. Nửa triệu
người bị tử vong do tai nạn thương tích (giao thông, sinh hoạt và trong lao động, ).
Hàng năm, có hơn 4 triệu trẻ sơ sinh và trẻ em chết do tiêu chảy và các bệnh khác liên
quan đến ô nhiễm môi trường. Hàng trăm triệu người bị suy kiệt do mắc các bệnh ký
sinh trùng đường ruột, gần 300 triệu người mắc và hai triệu người tử vong do sốt rét,
20 triệu người mắc lao và 3 triệu người chết do nhiễm lao.
Sức khoẻ của con người gắn liền với mọi biến động lớn nhỏ của môi trường.
Môi trường ở đây bao gồm các yếu tố vật lý, hoá học, sinh học, xã hội, văn hoá và
kinh tế .v.v. Các yếu tố đó biến động theo vùng sinh thái, cơ sở hạ tầng, theo thời gian
trong ngày, trong tháng, trong năm và cả những hoạt động mà chúng ta đang tiến hành.
Những mối đe doạ của môi trường trong phát triển có thể chia thành: "Các mối
nguy hiểm truyền thống" liên quan đến sự lạc hậu và "Các mối nguy hiểm hiện đại"
liên quan đến sự phát triển không bền vững. Cùng với thời gian, cùng với sự công
nghiệp hoá và đô thị hoá các mô hình của các mối nguy hiểm đó càng thay đổi. Cụ thể
là chúng di chuyển từ "Các mối nguy hiểm truyền thống" sang "các mội nguy hiểm
hiện đại". Đó là thời kỳ "quá độ". Việt Nam chúng ta đang ở vào thời kỳ này.
Một trong những khác biệt giữa những mối nguy hiểm môi trường "truyền
thống" và những mối nguy hiểm môi trường "hiện đại" là ở chỗ những mối nguy hiểm
môi trường "truyền thống" thường nhanh chóng biểu hiện ở dạng bệnh tật. Chẳng hạn,
khi người dân ở vùng nông thôn uống phải nước bẩn thì một hoặc vài ngày sau đó họ
liền bị tiêu chảy. Các trường hợp tiêu chảy này có thể là một chỉ số cho sự an toàn của
môi trường và hiệu quả phòng dịch của chúng ta. Trong khi đó đối với nhiều mối nguy

hiểm môi trường "hiện đại" thì từ khi tác động đến khi biểu hiện bệnh là cả một thời
gian tiềm tàng lâu dài. Chẳng hạn, như các yếu tố hoá chất gây ung thư ngày nay có
thể gây ung thư sau khi ăn vào theo thực phẩm hàng năm có khi hàng chục năm.
Tương tự như vậy, chất độc màu da cam có thể gây dị dạng ở thế hệ sau của những
người nhiễm phải nó trong thời gian chiến tranh.
Những mối nguy hiểm môi trường "truyền thống" liên quan đến nghèo đói và lạc
hậu, cụ thể là:
 Thiếu nước sạnh
 Thiếu các công trình vệ sinh gia đình
 Thực phẩm bị ô nhiễm
 Ô nhiếm nội thất và ô nhiễm ngoài trời do sử dụng than và các nhiên liệu
khác để đun nấu, sưởi ấm.
 Không quản lý tốt rác thải
 Tai nạn, chấn thương trong nông nghiệp, trong các xí nghiệp
 Thảm hoạ thiên nhiên do bão lụt, hạn hán, động đất, lũ quét, cháy rừng
 Các bệnh do trung gian truyền bệnh, chủ yếu là do chuột và công trùng
Các mối nguy hiểm hiện đại liên quan đến sự phát triển nhanh, hiện đại hoá
nhanh nhưng lại thiếu một tổng thể chiến lược quốc gia về sức khoẻ môi trường và sự
khai phá tài nguyên bừa bãi, chúng bao gồm:
 Nước ô nhiễm do chất thải công nghiệp và hoá chất trừ sâu trong nông nghiệp
 Ô nhiễm không khí đô thị do xe cộ, nhà máy nhiệt điện
 Chất thải rắn và chất thải độc
 Các mối nguy hiểm về hoá học, phóng xạ trong sử dụng các công nghệ mới.
 Sự xuất hiện các bệnh dịch mới và sự quay lại của các bệnh truyền
nhiễm truyền thống
 Nạn phá rừng, suy thoái đất và các biến động sinh thái khu vực hay toàn cầu
 Thay đổi khí hậu, thủng tầng ôzôn và sự ô nhiễm xuyên biên giới
3.2. Sự tác động con người trở lại môi trường
Nhiệm vụ của con người là phải giữ cho môi trường trong sự bền vững đó. Việc
bảo vệ môi trường cần phải dựa vào 3 cơ sở: Khoa học hoá, xã hội hoá và luật pháp hoá.

Vấn đề xã hội hoá công tác bảo vệ môi trường là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng
hiện nay. Mục tiêu của vấn đề này là chuyển tải những thông tin thiết yếu về mội
trường đến các đối tượng để tất cả các cá nhân, tập thể, ban ngành đều tự giác, tự
nguyện tham gia bảo vệ môi trường.
Chúng ta đều biết rằng: Từ nhận thức đến hành động cụ thể của người dân trong
việc bảo vệ môi trường thường trải qua 4 giai đoạn: Biết - hiểu - Thái độ đúng và hành
động cụ thể bảo vệ môi trường. Việc chuyển từ giai đoạn này sang giai đoạn kia là một
quá trình. Quá trình này nhanh hay chậm còn phụ thuộc vào nhiều vấn đề, trong đó có
sự thuyết phục của công tác tuyên truyền giáo dục.
Với những biến động như vậy, việc bảo vệ môi trường đang là vấn đề bức xúc
trên thế giới, được các quốc gia và các tổ chức quốc tế quan tâm:
- Ngày 11/5/1971 Tổng thư ký liên hợp quốc dã nhận được thư của 2.200 nhà
khoa học của 23 nước với nội dung kêu gọi các nước chú ý đến việc bảo vệ các tính
chất vật lý và sinh học của trái đất.
- Tháng 6/1972, Hội nghị môi trường thế giới được tổ chức tại Stockhom (Thuỵ
điển). Từ Hội nghị này, Chương trình môi trường thế giới (UNEP) chính thức được
triển khai. Hội nghị đã ra thông điệp kêu gọi "Hỡi loài người hãy cứu lấy cái nôi trái
đất đang do chính tay mình huỷ hoại".
- Năm 1992, Hội nghị thượng đỉnh thế giới về "môi trường và phát triển lâu bền"
tại Rio de Janeiro với sự tham gia chưa từng có của 178 đoàn đại biểu quốc gia với
117 vị nguyên thủ của các nước. Sau hội nghị này đã có nhiều hành động của các quốc
gia trong việc bảo vệ môi trường trái đất.
- Hội nghị về Biến đổi Khí hậu năm 2009 diễn ra tại Bella Center ở
Copenhagen, Đan Mạch, từ 7 đến 18 tháng 12 năm 2009. Hội nghị này cũng bao gồm
Hội nghị các bên lần thứ 15 (COP 15) trong khuôn khổ Chương trình khung của Liên
Hiệp quốc về biến đổi khí hậu.
- Trên thế giới ngày nay, chúng ta đã thấy tác hại của sự biến đổi khí hậu, từ
nhiệt độ gia tăng và sông băng tan chảy cho đến mực nước biển dâng cao và hạn hán
kéo dài. Thiệt hại trên hành tinh chúng ta sẽ còn trở nên tồi tệ hơn nếu cộng đồng quốc
tế không tăng cường nỗ lực, Hội nghị Thượng đỉnh của Liên Hiệp Quốc tại Cancun-

Mehico vào 29 tháng 11 năm 2010 (lần thứ 16).
3.3. Mối tương tác giữa con người và môi trường
Như vậy mối tương tác giữa con người và môi trường là hai chiều đó là môi
trường ảnh hưởng đến sức khỏe con người nhưng con người lại tác động trở lại môi
trường và được thể hiện qua sơ đồ dưới đây.

Phạm vi và bản chất các hoạt động của con người
Môi trường vật lý, hóa học Môi trường sinh học
Hình 1.1. Mối tương tác giữa hoạt động của con người với môi trường vật lý, hóa học
và sinh vật. Theo WHO, 1992
Sức khỏe của con người phụ thuộc vào khả năng của một xã hội trong việc
kiểm soát các mối tương tác giữa các hoạt động của con người và các môi trường vật
lý, hóa học và sinh vật. Quá trình này được thực hiện theo cách mà việc bảo vệ và
nâng cao sức khỏe con người được diễn ra trong khi vẫn phải bảo đảm tính nguyên vẹn
của các hệ thống tự nhiên mà một môi trường lành mạnh phải phụ thuộc vào các hệ
(Nông nghiệp, công nghiệp, sản xuất năng lượng, sử dụng và quản
lý nguồn nước và chất thải, đô thị hóa, phân phối thu nhập và tài
sản trong nước và giữa các nước, chất lượng dịch vụ y tế, phạm vi
bảo vệ môi trường sống, làm việc và môi trường tự nhiên)
(không khí, nước, thực phẩm, đất và các
thành phần hóa học bao gồm cả phóng
xạ, khí hậu: nhiệt độ, độ ẩm, lượng mưa
và sự thay đổi theo mùa)
(Loại và sự phân bố tác nhân gây
bệnh, vector truyền bệnh cũng như
ngoại cảnh sống của chúng, )
SỨC KHỎE
thống đó. Các môi trường lý học và sinh học bao gồm tất cả mọi thứ từ môi trường
ngay sát bên cạnh chúng ta như nhà ở, nơi làm việc tới những môi trường giữa các
vùng, quốc gia và môi trường toàn cầu. Ý tưởng về một mối liên kết chặt chẽ giữa sức

khỏe con người và môi trường từ lâu đã được biết đến.
Khái niệm về sự phát triển bền vững đòi hỏi một nền kinh tế hiện đại không làm
hại tới môi trường tới mức độ gần như là khép lại các cơ hội cho các thế hệ tương lai.
Ủy ban Môi trường và Phát triển thế giới (WCED) đã định nghĩa phát triển bền vững
như sau: "Sự phát triển đáp ứng của thế hệ hiện tại mà không phương hại tới khả năng
của các thế hệ tương lai trong việc đáp ứng các nhu cầu cả bản thân các thế hệ đó". Để
nâng cao sức khỏe có nghĩa là sự phát triển đẩy đủ và tiềm năng của con người và nền
kinh tế tương đối phồn thịnh thì một môi trường bền vững và một cộng đồng khỏe
mạnh là điều cần thiết.
Chương trình nghị sự 21, chương trình hành động vì môi trường và phát triển
của Liên hợp quốc được thống nhất tại Hội nghị Rio de Janeiro năm 1992 đã nhắc lại
mối quan hệ này, cho rằng con người là trung tâm của mọi mối quan tâm về phát triển
bền vững. Họ có quyền có một cuộc sống khỏe mạnh và hữu ích phù hợp với tự nhiên.
Trong khi mọi khía cạnh của sức khỏe con người đều được gắn kết chặt chẽ giữa con
người với môi trường vật lý và xã hội, ở đây chúng ta chú trọng tới mối quan hệ sức
khỏe và môi trường (hình 1.1). Các tác nhân gây bệnh sinh học và các véc tơ truyền
bệnh của chúng cũng như ổ chứa; các tác nhân lý học và hóa học trong môi trường độc
lập với các hoạt động của con người và có thể làm suy yếu sức khỏe của con người
qua sự có mặt của chúng (chẳng hạn như các nuclid phóng xạ xuất hiện tự nhiên, tia
cực tím) hoặc sự vắng mặt của chúng (chẳng hạn như iode, sắt); và các tác nhân lý học
và hóa học độc hại dược đưa vào môi trường do các hoạt động của con người (chẳng
hạn như NOx, hydrocacbon vòng, các phần tử hạt phát sinh từ việc đốt cháy nhiên liệu
hóa thạch, chất thải công nghiệp tạo ra, chất thải y sinh, chất thải phóng xạ).
Các yếu tố xã hội kiểm soát việc các tài nguyên được sử dụng như thế nào. Một
người cho dù bị đói, được ăn đầy đủ, hoặc ăn quá dư thừa cũng không chỉ phụ thuộc
vào tình trạng nguồn lực của bản thân mà còn phụ thuộc vào các yếu tố kinh tế xã hội
ảnh hưởng tới các vấn đề như việc thực hành nông nghiệp dẫn đến việc sử dụng đúng
hoặc sử dụng sai các nguồn lực như thế nào, và liệu nguồn thực phẩm an toàn, đủ chất
dinh dưỡng, giá cả hợp lý có sẵn hay không. Sức khỏe cũng phụ thuộc vào việc con
người cảm thấy như thế nào về xã hội của họ - bao gồm cả sự tin tưởng và liên kết xã

hội tồn tại ở múc độ nào trong cộng đồng của họ (Putam,1993; Kawachi và cộng
sự,1999). Do vậy, định nghĩa dưới đây về sức khỏe môi trường là thích hợp; "Sức
khỏe môi trường bao gồm các khía cạnh của sức khỏe con người, kể cả chất lượng
cuộc sống, được xác định bởi các yếu tố vật lý, sinh học, xã hội, tâm lý xã hội trong
môi trường . Sức khỏe môi trường cũng liên quan tới lý thuyết và việc thực hành về
việc đánh giá, hiệu chỉnh, kiểm soát và ngăn ngừa những yếu tố trong môi trường có
thể ảnh hưởng tiêu cực tới thế hệ hiện tại và thế hệ tương lai" (WHO,1993).
Đôi khi có một song đề đạo đức giữa việc nâng cao sức khỏe con người và bảo
vệ môi trường. Một thái cực là bất kỳ sự kiểm soát nào hạn chế sự khai thác tài nguyên
có thể làm cản trở ngững cố gắng của một cá nhân hay cộng đồng để làm tăng sức
sống của họ, do vậy xâm phạm tới quyền lợi và tự do của họ cũng như làm giảm khả
năng của họ trong việc duy trì sức khỏe. Một thái cực khác là bất kỳ hành động nào
nhằm được bảo vệ môi trường là được duy trì tính thống nhất của hệ sinh thái đều
được cho là đúng, bất kể tác động của nó đối với hoạt động và sức khỏe con người.
Liên Hợp quốc đã tuyên bố rằng việc đảm bảo cho sự sống cho con người cần được
thực hiện ở mức độ ưu tiên cao hơn các mức khác. Mức ưu tiên số một ấn định việc
đảm bảo cho sự sống con người là đồng nhất với Tuyên ngôn về việc Quyền con người
của Liên Hợp quốc (UN,1948): " tất cả mọi người có quyền có một mức sống phù hợp
với sức khỏe và tình trạng thoải mái của bản thân họ cũng như gia đình họ, bao gồm
thực phẩm, quần áo, nhà cửa, chăm sóc y tế, và các dịch vụ xã hộ cần thiết". Tôn trọng
tự nhiên và kiểm soát suy thoái môi trường nằm ở mức "thứ hai", mức này dẫn dắt mọi
hoạt động của con người, trừ khi những hoạt động này trái ngược với nguyên tắc thứ
nhất. Trong thực tế , hầu hết những xung đột thường rõ ràng hơn là xuất phát từ sự
hiểu biết lệch lạc về mối tương tác của con người- môi trường , hoặc hệ thống xã hội
và kinh tế hoạt động sai chức năng.
Phát triển bền vững ngụ ý rằng tất cả mọi người cuối cùng phải tiếp cận với các
tài nguyên của môi trường đáp ứng được nhu cầu của họ. Điều này cần phải được thực
hiện những cam kết lên tục để làm tăng sự hiểu biết chung về mối liên kết giữa môi
trường và sức khỏe, mà không ảnh hưởng tới khả năng hấp thụ có hạn của sự liên kết
toàn cầu.

Khả năng thích nghi của con người
Con người, cũng như những sinh vật khác, phải phụ thuộc vào môi trường để
thỏa mãn những nhu cầu về sức khỏe, bao gồm các nhu cầu về thực phẩm, nước, nhà
ở và sự an toàn. Khi con người phải tiếp xúc với những môi trường khắc nghiệt hoặc
không an toàn, các sinh vật, chất độc phóng xạ cao hơn bình thường hoặc những kẻ
thù được trang bị vũ khí, sức khỏe của họ luôn bị ảnh hưởng. Tuy nhiên, con người có
khả năng đặc biệt để thích nghi với môi trường và gây ảnh hưởng đến môi trường để
đáp ứng các nhu cầu của họ. Ví dụ, con người học cách tạo ra thu hoạch thực phẩm để
tránh những tiếp xúc bất lợi như ký sinh trùng và điều kiện bất lợi của thời tiết. Hoặc
họ áp dụng những biện pháp tổng hợp để bảo vệ bản thân tránh khỏi những sinh vật
nguy hiểm và điều kiện khắc nghiệt.
3.4. Mối quan hệ nhân quả giữa môi trường và sức khoẻ
Mối tương quan giữa môi trường và sức khoẻ con người là cực kỳ phức tạp. Mỗi
một mối nguy hiêm môi trường thường gắn liền với nhiều khía cạnh kinh tế và phát triển
xã hội. Thêm vào đó chúng ta không chỉ nghiên cứu quan sát mối tương quan giữa phát
triển- môi trường - sức khoẻ theo một hướng mà phải nhìn từ nhiều phía. Đây là một
điều cần nhấn mạnh khi đề xuất các biện pháp can thiệp về y tế công cộng. Cũng như
chuyên ngành lâm sàng sử dụng kỹ thuật chụp cắt lớp, các chuyên gia sức khoẻ môi
trường cũng phải nhận định được các vấn đề sức khoẻ môi trường trên nhiều khía cạnh.
Tổ chức y tế thế giới (WHO, 1997) đã đề xuất một sơ đồ tác động qua lại của
mối quan hệ nhân quả: Môi trường và sức khoẻ như sau:
Động lực
Môi trường
Tăng
dân số
Phát
triển
kinh tế
Công
nghệ

Sức ép
môi trường
Sản
xuất
Tiêu thụ Chất thải
Tình trạng
Môi trường
Mối
nguy
hiểm tự
nhiên
Nguồn lực
sẵn có
Mức độ
ô nhiễm
Tiếp xúc
của con
người
Tiếp xúc
bề ngoài
Liều hấp
thu
Liều đích
theo cơ
quan
Hiệu quả
lên sức khoẻ
Khoẻ
mạnh
Bệnh tật Tử vong

H nh à động can thiệp

×