TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
TP.HCM 12/2012
Giảng viên: TS. BÙI VĂN MƯA
Học viên:
Nhóm: 01
Họ tên: Lê Viết Long
MSHV: 7701221575
STT: 57
Lớp: QTKD – Đêm 1
Khóa: K22
Giảng viên: TS. BÙI VĂN MƯA
Học viên:
Nhóm: 01
Họ tên: Lê Viết Long
MSHV: 7701221575
STT: 57
Lớp: QTKD – Đêm 1
Khóa: K22
LỜI MỞ ĐẦU
Triết học của Hegel là hệ thống phong phú nhất trong lịch sử triết học trước Marx.
Hegel đã tổng kết hầu như toàn bộ tư tưởng cũ ở Tây phương, trình bày mọi chủ nghĩa với ý
nghĩa lịch sử của nó, bộc lộ những mâu thuẫn nội bộ xuất hiện trong tư tưởng ở mỗi giai
đoạn, những mâu thuẫn ấy bắt phải thủ tiêu hình thái cũ và tiến lên một trình độ cao hơn.
Lần đầu tiên trong lịch sử triết học, Hegel đã tạo ra được một lý luận biện chứng phát
triển với tư cách logic học và là phương pháp. Ông đã kết hợp phép biện chứng và logic học
thành một quan niệm thống nhất về logic biện chứng. Phép biện chứng là linh hồn của logic
học nhờ đó khoa học logic trở thành một cơ thể sống, chứ không phải là những phạm trù khô
cứng như logic học trước đây. Chính điều này đã làm cơ sở và tiền đề cho sự ra đời của triết
học Marx.
Thông qua tiểu luận này em xin phép được tìm hiểu và làm rõ thêm về “Phép biện
chứng Hegel và vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Marx”.
Nội dung tiểu luận chia ra 3 chương nhỏ như sau:
Chương 1. Hegel và hệ thống triết học Hegel
Chương 2. Phép biện chứng duy tâm khách quan
Chương 3. Vai trò của phép biện chứng duy tâm và sự ra đời của triết học Marx
Chương 1. HEGEL VÀ HỆ THỐNG TRIẾT HỌC HEGEL
1. Sơ lược về Georg Wilhelm Friedrich Hegel (1770-1831)
Friedrich Hegel sinh ra Stutga trong một gia đình công chức cao cấp, sau khi tốt
nghiệp đại học Tubingơ, từ 1800 – 1807, ông giảng dạy tại Đại học Inna và từng cộng tác
với Selinh xuất bản tạp chí “Phê phán triết học”. Hegel bắt đầu xây dựng hệ thống triết học
duy tâm khách quan của mình trong tác phẩm “Hiện tượng học tinh thần”. Từ 1808-1816,
ông là hiệu trưởng trường Đại học Nurămbe và viết tác phẩm khoa học logic. Từ năm 1816,
ông giảng dạy tại trường Đại học Hendenbe, tại đây ông viết bách khoa toàn thư các khoa
học triết học.
Năm 1818, Chính phủ Phổ mời Hegel làm giáo sư triết học tại Đại học Berlin. Tại
đây, ông chính thức trở thành nhà triết học của nhà nước phổ. Thời kỳ này, ông xuất bản
Triết học Pháp quyền. Sau khi Hegel mất, các tác phẩm của ông tiếp tục được xuất bản như:
Những bài giảng về lịch sử triết học (1836-1838); Triết học về lịch sử (1837); Những bài
giảng về mỹ học hay triết học về nghệ thuật (1836 – 1838)…. Hegel không chỉ là đại biểu
lớn nhất của triết học cổ điện Đức mà ông còn là nhà biện chứng lỗi lạc, bậc tiền bối của
C.Mác. Ông đã xây dựng một hệ thống triết học đồ sộ. Theo nhận xét của Ph. Engels : “Hệ
thống Hegel bao trùm một lĩnh vực hết sức rộng lớn, lĩnh vực mà bất cứ hệ thống nào trước
kia đã bao trùm và phát triễn, trong lĩnh vực tư tưởng đó, nhiều tư tưởng hiện vẫn làm cho
người ta ngạc nhiên”. Và, “Ông không chỉ là một thiên tài sáng tạo mà còn là một nhà bác
học có tri thức bách khoa nên trong mọi lĩnh vực ông xuất h iện như là người vạch thời đại”.
Đi sâu vào hệ thống của ông có rất nhiều tư tưởng quý giá, trong đó chứa đựng hạt nhân hợp
lý là phép biện chứng. Chính C.Mác đã bóc đi cái vỏ duy tâm và lật ngược hệ thống cho nó
“đứng lại bằng chân”.
2. Bối cảnh ra đời của Triết Học Hegel
Nước Đức vào cuối XVIII đầu XIX vẫn còn là một quốc gia phong kiến điển hình với
360 quốc gia tự lập trong Liên bang Đức hết sức lạc hậu về kinh tế và chính trị. Trong khi
đó, ở nước Anh cuộc cách mạng công nghiệp,ở nước Pháp cuộc cách mạng tư sản đã nổ ra
làm rung chuyển Châu Âu, đưa châu Âu bước vào nền văn minh công nghiệp.
Chính thực tại đau buồn của nước Đức và tấm gương của các nước Tây Âu đã thức
tỉnh tinh thần phản kháng của giai cấp tư sản Đức. Nhưng giai cấp này sống rải rác ở hững
vương quốc nhỏ tách rời nhau, nhỏ bé về số lượng, yếu kém về kinh tế và chính trị, nên họ
vừa muốn làm cách mạng, lại vừa muốn thoả hiệp với tầng lớp phong kiến quý tộc Phổ đang
thống trị thời đó, giữ lập trường cải lương trong việc giải quyết những vấn đề phát triển của
đất nước Chính điều này đã quy định nét đặc thù của triết học cổ điển Đức: Nội dung cách
mạng dưới một hình thức duy tâm, bảo thủ,; đề cao vai trò tích cực của tư duy con người, coi
con người là một thực thể hoạt động, là nền tảng và điểm xuất phát của mọi vấn đề triết học.
3. Hệ thống triết học Hegel và thành tựu nổi bật
Hegel đã xây dựng một hệ thống triết học đồ sộ của mình dựa trên quan điểm duy tâm
khách quan về ý niệm. Quan điểm về ý niệm của ông khác với quan điểm về ý niệm của
Platon. Nếu ý niệm của Platon là tồn tại bất động, bất biến (không phá triển); thì ý niệm của
Hegel luôn nằm trong trạng thái vận động biến đổi. Nó phát triển trải qua các giai đoạn khác
nhau.Thông qua sự vận động, biến đổi (phát triển) của ý niệm, thế giới vật chất và đời sống
tin thần của con người được biểu h iện ra. Hegel chia quá trình vận động của ý niệm ra thành
3 giai đoạn lớn. Mỗi giai đoạn lớn này được nghiên cứu bởi một phần trong hệ thống triết
học đồ sộ của ông. Do ý niệm bắt đầu tư Logic trải qua Giới tự nhiên rồi kết thúc trong Tinh
thần con người; nên hệ thống của Hegel có ba bộ phận triết học cấu thành là: Logic học –
Triết học tự nhiên – Triết học tinh thần
- Logic học gồm 3 học thuyết: học thuyết về tồn tại; học thuyết về bản chất; và học
thuyết về khái niệm
- Triết học tự nhiên gồm 3 học thuyết: Cơ học, Vật lý học, Sự sống (hữu cơ)
- Triết học tinh thần gồm 3 học thuyết: học thuyết về tinh thần chủ quan, học thuyết
về tinh thần khách quan và học thuyết về tin thần tuyệt đối.
Tóm lại Với một hệ thống triết học tương đối hoàn chỉnh, với tri thức bách khoa, kiến
thức uyên bác và thiên tài của mình, Hegel trở thành nhà triết học lớn nhất thời bấy giờ. Học
thuyết của ông mở ra một giai đoạn mới trong lịch sử triết học. Ông đã có công xây dựng
phép biện chứng duy tâm với đầy đủ các quy luật cơ bản và phạm trù của nó mà sau này,
C.Mác kế thừa cải tạo thành phép biện chứng duy vật – một công cụ không thể thiếu trong
hoạt động nhận thức và thực tiễn.
Chương 2. PHÉP BIỆN CHỨNG DUY TÂM
Phương pháp mà Hegel sử dụng để xây dựng hệ thống triết học duy tâm khách quan
của mình là phương pháp biện chứng. Phương pháp này đòi hỏi xem xét sự vật trong tiến
trình lịch sử của nó, trong sự vận động, phát sinh, biến đổi, phát triển và diệt vong của nó.
Phương pháp biện chứng là cơ sở phương pháp luận để ông xây dựng phép biện
chứng – “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt toàn bộ hệ thống triết học của ông
1. Phép biện chứng duy tâm khách quan về ý niệm tuyệt đối
Đây là điểm khởi đầu và là nền tảng của triết học Hegel. Nó là thực thể tinh thần sáng
tạo ra giới tự nhiên và toàn thể nhân loại. Theo Hegel, mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới,
kể cả những sản phẩm hoạt động của con người chỉ là hiện thân của ý niệm tuyệt đối.
Ý niệm tuyệt đối là thực thể tinh thần, giống thượng đế sáng tạo ra giới tự nhiên và
toàn thể nhân loại. Theo Hegel, mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều được sinh ra bởi
một thực thể tinh thần, ý thức, tinh thần có trước vật chất nhưng đó không phải là ý thức,
tinh thần của từng cá nhân, con người cụ thể mà là một thực thể tinh thần bên ngoài con
người và ông đặt tên là ý niệm tuyệt đối. Điều đó chứng tỏ triết học của Hegel là duy tâm
khách quan. Ông coi ý niệm tuyệt đối là cái có trước.
Trong quá trình vận động, phát triển, ý niệm tuyệt đối tha hóa thành giới tự nhiên và
xã hội, cuối cùng lại trở về với chính mình trong tinh thần tuyệt đối. Sai lầm của phép biện
chứng duy tâm khách quan của Hegel là ở chỗ ông cho rằng biện chứng của ý niệm sản sinh
ra biện chứng của sự vật. Đó là phép biện chứng duy tâm khách quan, thiếu triệt để, thiếu
khoa học.
Thông qua tư tưởng này, Hegel đặc biệt đề cao con người, trí tuệ con người, chứng tỏ
Hegel là nhà triết học duy tâm khách quan. Thật ra khái niệm tha hóa không phải lần đầu
tiên Marx đưa ra mà là Hegel. Tha hóa là mình trở thành khác mình, đối lập với mình.
2. Phép biện chứng duy tâm về triết học
Theo Hegel, đối tượng nghiên cứu của triết học là ý niệm tuyệt đối, lịch sử nhân loại
là giai đoạn phát triển cao nhất. Đây là quan điểm duy tâm. Triết học nghiên cứu lịch sử
nhân loại, mà lịch sử nhân loại là giai đoạn cao nhất của ý niệm tuyệt đối. Thật ra, triết học
là ngành khoa học nghiên cứu ý niệm tuyệt đối.
Trong tư tưởng của Hegel có một điểm đáng lưu ý là triết học là khoa học của tất cả
mọi khoa học. Quan niệm này ra đời trong thời buổi trình độ nhận thức con người chưa cao
nên triết học là một lý luận mang tính phổ quát, bao trùm và thậm chí là duy nhất. Nó có
tham vọng giải thích tất cả lĩnh vực khoa học cụ thể mà trong thời kỳ đó còn mang tính chất
tảng mạn và sơ khai. Thời kỳ đó, khoa học chưa phân ngành, người ta không thể tìm thấy tri
thức về khoa học tự nhiên trong khoa học cụ thể như ngày hôm nay mà chỉ có thể tìm thấy
những tư tưởng khoa học tự nhiên trong hệ thống triết học tự nhiên của các nhà triết học. Từ
đó nảy sinh quan điểm cho rằng triết học là khoa học của tất cả mọi khoa học, còn các nhà
triết học là các nhà thông thái, không chỉ am hiểu một lĩnh vực mà am hiểu mọi lĩnh vực
khác nhau của nhận thức.
3. Phép biện chứng duy tâm trong khoa học logic
Helgel không phủ nhận những giá trị của logic học cũ nhưng ông nhận thấy ở nó còn
nhiều hạn chế không đáp ứng đượcc sự phát triển của khoa học và triết học. Bằng sự phê
phán logic học cũ trên các khía cạnh: đối tượng nghiên cứu và tính bất động của các phạm
trù quy luật của nó, Hegel đã sáng tạo ra một hệ thống logic học mới - logic biện chứng
nhằm đem lại cho con người một cách hiểu mới về bản chất của tư duy và trang bị cho các
ngành khoa học một phương pháp nhận thức mới, đó chính là phương pháp biện chứng.
Thế giới ý niệm là giao điểm quan trọng giữa học thuyết Platon và học thuyết Hegel.
Lôgic học của Hegel là học thuyết về bản nguyên siêu cảm tính, hợp lý, tinh thần của tồn tại,
về "cái hiện hữu chân chính". Do vậy, Logic học của ông trùng hợp với siêu hình học, mà
trước hết là trùng hợp với bộ phận cơ bản của nó - bản thể luận. Mỗi hệ thống triết học dưới
một hình thức nào đó đều phải được xây dựng căn cứ trên một bản thể luận xác định. Ở
Hegel, đó là logịc học với ý niệm tuyệt đối của nó.
Hegel chia logic học của mình thành ba học thuyết (học thuyết về tồn tại, học thuyết
về bản chất và học thuyết về khái niệm) nghiên cứu ba giai đoạn tương ứng của tinh thần
tuyệt đối: tồn tại- bản chất- khái niệm. Logic học của Hegel đã nghiên cứu và tìm ra những
mối liên hệ và sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các khái niệm chung nhất, giữa các phạm trù của
tư duy lý luận khoa học.
Theo Hegel, học thuyết về tồn tại và học thuyết về bản chất trong logic học là Logic
khách quan còn học thuyết về khái niệm làlogic chủ quan. Trong logic khách quan Hegel
chủ yếu nghiên cứu những phạm trù của tư tưởng, mà chúng đồng thời cũng là những phạm
trù của thế giới tự nhiên vô cơ. Còn trong logic chủ quan Hegel nghiên cứu sự vận động biện
chứng của những phạm trù như những hình thức tư tưởng thuần tuý và sự trưởng thành của
đời sống tinh thần, của ý thức của khái niệm trong thế giới hữu cơ và con người. Tuy nhiên
sự phân chia logic học ra thành logic khách quan vàlogic chủ quan là có tính chất tương đối.
Bởi vì trên thực tế trong logic khách quan Hegel bên cạnh phân tích những phạm trù của thế
giới vô cơ, thì ông cũng có đề cập đến những phạm trù có quan hệ với ý thức của con người.
Trái lại trong logic chủ quan đồng thời với việc trình bày những phạm trù của đời sống hữu
cơ thì Hegel cũng đưa ra cả những phạm trù có mối liên quan với thế giới tự nhiên vô cơ.
Lần đầu tiên trong lịch sử triết học, Hegel đã tạo ra được một lý luận biện chứng phát
triển với tư cách logic học và là phương pháp. Ông đã kết hợp phép biện chứng và logic học
thành một quan niệm thống nhất về logic biện chứng. Phép biện chứng là linh hồn của logic
học nhờ đó khoa học logic trở thành một cơ thể sống, chứ không phải là những phạm trù khô
cứng như logic học trước đây. Công lao của Hegel so với những bậc tiền bối chính là ở chỗ,
ông đã đưa ra được một sự phân tích biện chứng, khái quát tất cả những phạm trù quan trọng
nhất của triết học và đã hình thành nên ba qui luật cơ bản của tư duy trên cơ sở duy tâm.
Không nghi ngờ gì nữa có thể khẳng định rằng "Tính chất thần bí mà phép biện chứng đã
mắc phải ở trong tay Hegel tuyệt nhiên không ngăn cản Hegel trở thành người đầu tiên trình
bày một cách bao quát và có ý thức hình thái vận dụng chung của phép biện chứng đó”.
Tóm lại, logic học của Hegel là logic biện chứng trong đó nhà triết học Đức dưới hình
thức duy tâm trình bày các quy luật và các cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng một
cách đầy đủ, minh bạch và rõ ràng nhất. Cố nhiên, những luận điểm về phép biện chứng
được Hegel trình bày trong cả ba phần nhưng trong logic thể hiện rõ nhất, quan trọng nhất.
4. Phép biện chứng duy tâm về nhà nước
Theo Hegel, nhà nước là hiện thân của ý niệm tuyệt đối. Nó ra đời nhằm duy trì, bảo
tồn các gia đình, xã hội và công dân. Nhà nước ra đời từ những mâu thuẫn trong xã hội
nhằm điều hòa mâu thuẫn các giai cấp, đẳng cấp khác nhau. Bản chất của nhà nước là tổng
thể các quy chế, kỷ cương về chính trị, văn hóa, pháp luật… Đây chính là quan niệm duy tâm
của Hegel về nhà nước đã ảnh hưởng trực tiếp đến quan điểm của Marx
Hegel mắc đã lầm khi quan niệm sai về bản chất của nhà nước. Ông cho rằng từ khi
chăn nuôi và trồng trọt xuất hiện, của cải vật chất bắt đầu dư thừa, người ta bắt đầu sử dụng
quyền lực để chiếm hữu các của cải dư thừa đó làm của riêng làm cho chế độ tư hữu xuất
hiện. Khi tư hữu xuất hiện xã hội cũng phân chia giai cấp, hai giai cấp đầu tiên trong lịch sử
đối lập với nhau là chủ nô và nô lê. Để bảo vệ lợi ích của mình các giai cấp đã tiến hành đấu
tranh với nhau. Cuộc đấu tranh có thể dẫn đến nguy cơ các giai cấp tiêu diệt lẫn nhau và sẽ
tiêu diệt toàn bộ xã hội, chính vì thế giai cấp thống trị là giai cấp chủ nhô đã tạo ra bộ máy
trấn áp bạo lực đó chính là nhà nước. Vậy nhà nước ra đời từ sản phẩm mâu thuẫn giai cấp
không điều hòa được. Hegel cho rằng nhà nước ra đời để duy trì xã hội công dân và bảo toàn
các gia đình, để điều hòa mâu thuẫn các giai cấp là sai lầm của ông.
Hegel đứng trên lập trường bảo thủ cải lương, coi nhà nước Đức là chân lý - lập
trường của chủ nghĩa Sô-vanh, đề cao dân tộc Đức, miệt thị dân tộc khác, coi nước Đức là
hiện thân của tinh thần “vũ trụ mới”. Chế độ nhà nước đương thời được Hegel xem nó như
đỉnh cao của sự phát triển của nhà nước và pháp luật.
Theo Hegel, nhà nước là cho tất cả mọi tầng lớp nhưng lịch sử đã chứng minh điều đó
hoàn toàn sai lầm.
Tuy nhiên, bên cạnh những tư tưởng phản tiến bộ, Hegel đã nêu ra nhiều tư tưởng biện
chứng quý báu về sự phát triển của đời sống xã hội. Trong đó, ông đặc biệt quan tâm nghiên
cứu về vấn đề nguồn gốc và bản chất của nhà nước. Hegel tìm nguồn gốc nhà nước từ mâu
thuẫn xã hội. Bản chất của nhà nước là mang bản chất thống trị của giai cấp thống trị về kinh
tế nhưng Hegel cho rằng: “Nhà nước không chỉ là cơ quan hành pháp mà còn là tổng thể các
quy chế kỹ cương, chuẩn mực và mọi lĩnh vực đạo đức, pháp quyền, chính trị, văn hoá,…”
của xã hội, nhờ đó mà xã hội được phát triển bình thường. Vậy trong tư tưởng của Hegel
không mang tính giai cấp
5. Phép biện chứng duy tâm của Hegel
Ông là người đầu tiên trong lịch sử trình bày toàn bộ giới tự nhiên, lịch sử, xã hội,
tinh thần của con người dưới dạng một quá trình, tức là trong quá trình vận động và phát
triển. Tuy nhiên, sự vận động và phát triển trong triết học của ông là sự vận động và phát
triển khép kín, nó giống như toàn bộ hệ thống triết học khép kín của ông.
Ông là người có nhiều tư tưởng biện chứng về quy luật thống nhất và đấu tranh của
các mặt đối lập. Tuy nhiên, mâu thuẫn trong quan niệm của ông ở đây không phải là của bản
thân sự vật mà là của tinh thần thế giới. Hơn nữa ông lại có quan điểm thỏa hiệp trong việc
giải quyêt mâu thuẫn.
Ông có tư tưởng biện chứng về quy luật lượng chất. Tuy nhiên, từ những thay đổi về
lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại trong triết học của ông lại là sự thay đổi
thuần túy của các khái niệm chất, lượng, độ. Biện chứng ở đây là biện chứng mang tính tư
biện, hay biện chứng của câu chữ.
Ông cũng đã có tư tưởng biện chứng về phủ định biện chứng. Tuy nhiên, phủ định
biện chứng mới được thể hiện ở “Tam đoạn thức”, tức là từ “Tiền đề” đến “Phản đề” rồi đến
“Hợp đề”. Điều này, cũng thể hiện trong chính hệ thống triết học của ông: Phần I (tiền đề) ->
Phần II (phản đề) -> Phần III (hợp đề).
Ông cũng đã có tư tưởng biện chứng về các cặp phạm trù: cái riêng – cái chung,
nguyên nhân – kết quả, bản chất – hiện tượng, nội dung – hình thức, tất nhiên – ngẫu nhiên,
khả năng – hiện thực. Tuy nhiên, khi đề cập đến các cặp phạm trù này, ông ám chỉ chúng là
hiện thân của “tinh thần thế giới”.
Ông đưa ra những tư tưởng biện chứng của tự nhiên. Trong Triết học tự nhiên, ông
quan niệm giới tự nhiên là một chỉnh thể thống nhất, trong đó các sự vật có mối liên hệ hữu
cơ với nhau. Ông hiểu tự nhiên như một quá trình phát triển từ trình độ thấp đến trình độ
cao
Ông còn đưa ra những quan điểm biện chứng về con người: Hegel đã lý giải mối
quan hệ thống nhất và mâu thuẫn giữa con người với tự nhiên. Con người là biểu hiện thống
nhất giữa tinh thần và vật chất. Con người vừa là chủ thể, vừa là kết quả của quá trình hoạt
động của mình. Con người bằng hoạt động của mình đã làm cho tiến trình lịch sử nhân loại
được biểu hiện ra. Con người tham dự vào lịch sử, đồng thời là sản phẩm của một thời đại
nhất định. Bản tính con người là bất bình đẳng. Đó là căn nguyên của mọi sự bất công, mâu
thuẫn và xung đột xã hội. Ông lý giải bản chất con người trong mối quan hệ cá nhân – xã
hội.
Ông đưa ra những quan điểm cơ bản về biện chứng của tư duy. Ông phân tư duy ra
thành hai cấp độ khác nhau: Tư duy tự nó và tư duy cho nó. Tư duy là quá trình thống nhất
của ba yếu tố: tư duy cảm tính, tư duy biện chứng và tư duy tư biện. Đặc biệt trong Khoa
học Logic, ông còn nhấn mạnh các nguyên tắc của tư duy, đó là những nguyên tắc hết sức cơ
bản của phép biện chứng: Nguyên tắc thống nhất lịch sử - lôgic; Nguyên tắc khách quan;
Nguyên tắc thừa nhận sự tồn tại của mâu thuẫn; Nguyên tắc đi từ trừu tượng đến cụ thể
Chương 3. VAI TRÒ CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY TÂM
VÀ SỰ RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC MARX
1. Sự mâu thuẫn trong Triết học Hegel
Hegel nhà biện chứng, đồng thời là nhà triết học duy tâm khách quan. Triết học của
ông đầy mâu thuẫn. Nếu phương pháp biện chứng của ông là hạt nhân hợp lý, chứa đựng tư
tưởng thiên tài về sự phát triển, thì hệ thống triết học duy tâm của ông phủ nhận tính chất
khách quan của những nguyên nhân bên trong, vốn có của sự phát triển của tự nhiên và xã
hội. Ông cho rằng khởi nguyên của thế giới không phải là vật chất mà là "ý niệm tuyệt đối"
hay "tinh thần thế giới". Tính phong phú, đa dạng của thế giới hiện thực là kết quả của sự
vận động và sáng tạo của ý niệm tuyệt đối. ý niệm tuyệt đối tồn tại vĩnh viễn. "ý niệm tuyệt
đối", theo nhận xét của Lenin, chỉ là một cách nói theo đường vòng, một cách nói khác về
Thượng đế mà thôi. Hegel đã có công trong việc phê phán tư duy siêu hình và ông là người
đầu tiên trình bày toàn bộ giới tự nhiên, lịch sử và tư duy dưới dạng một quá trình, nghĩa là
trong sự vận động, biến đổi và phát triển không ngừng. Đồng thời trong khuôn khổ của hệ
thống triết học duy tâm của mình. Hegel không chỉ trình bày các phạm trù như chất, lượng,
phủ định, mâu thuẫn mà còn nói đến cả các quy luật như "lượng đổi dẫn đến chất đổi và
ngược lại", "phủ định của phủ định", và quy luật mâu thuẫn. Nhưng tất cả những cái đó chỉ
là quy luật vận động và phát triển của bản thân tư duy, của ý niệm tuyệt đối. Trong các quan
điểm xã hội, Hegel đã đứng trên lập trường của chủ nghĩa sôvanh, đề cao dân tộc Đức, miệt
thị các dân tộc khác, coi nước Đức là "hiện thân của tinh thần vũ trụ mới". Chế độ Nhà
nước Phổ đương thời được Hegel xem nó như đỉnh cao của sự phát triển nhà nước và pháp
luật.
Hệ thống triết học của Hegel (gồm ba bộ phận chính: lôgíc học, triết học về tự nhiên,
triết học về tinh thần) là một hệ thống duy tâm, mà thực chất của nó "là ở chỗ lấy cái tâm lý
làm điểm xuất phát, từ cái tâm lý suy ra giới tự nhiên" (Lenin). Hệ thống triết học duy tâm
đó cùng với các quan điểm chính trị phản động của Hegel đã được các nhà lý luận tư sản kế
thừa và phát triển dưới các hình thức khác nhau. Trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, chủ
nghĩa "Hegel mới" đã trở thành xu thế điển hình của triết học tư sản và là một bộ phận của
hệ tư tưởng phátxít. Tuy nhiên, phép biện chứng của Hegel đã mâu thuẫn với hệ thống triết
học duy tâm của ông và trở thành một trong những nguồn gốc lý luận của triết học Marxxít.
2. Tiền đề cho sự ra đời của Triết Học Marx
Sự ra đời của triết học Marx trước hết có kế thừa những thành quả của triết học cổ
điển Đức. Marx và Engels luôn thừa nhận rằng trong sự phát triển trí tuệ của mình, hai ông
đã chịu ơn nhiều nhà triết học Đức, trong đó nổi bật là Hegel và Feurbach.
Hegel công lao to lớn trong việc phê phán những hạn chế cơ bản của phương pháp
siêu hình, đã xây dựng phép biện chứng thành hệ thống và xem nó là phương pháp luận
đúng đắn của mọi nhận thức khoa học. Nhưng Marx và Engels cũng chỉ ra rằng, triết học
Hegel có những hạn chế lớn, đó là sự giải thích duy tâm về hiện thực; là sự biện hộ cho
những thực tế lịch sử lỗi thời, cho tôn giáo; là triết học tự biện, trừu tượng, xa rời hiện thực
và thực tiễn. Cho nên khi sáng lập triết học của mình Marx và Engels đã không kế thừa toàn
bộ triết học Hegel mà chỉ kế thừa hạt nhân hợp lý, đó là phép biện chứng, đồng thời cải tạo
và xây dựng lại phép biện chứng trên lập trường duy vật. Với tính cách là những bộ phận
hợp thành hệ thống lý luận của triết học Marx, chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng đều có
sự biến đổi về chất so với nguồn gốc của chúng. Không thấy điều đó, mà hiểu chủ nghĩa duy
vật biện chứng như sự lắp ghép cơ học chủ nghĩa duy vật của triết học Phoiơbắc với phép
biện chứng Hegel, sẽ không hiểu được triết học Marx. Để xây dựng triết học duy vật biện
chứng, Marx đã cải tạo cả chủ nghĩa duy vật cũ, cả phép biện chứng của Hegel. Marx viết:
"Phương pháp biện chứng của tôi không những khác phương pháp của Hegel về cơ bản mà
còn đối lập hẳn với phương pháp ấy nữa". Giải thoát chủ nghĩa duy vật khỏi phép siêu hình,
Marx đã làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên "hoàn bị và mở rộng học thuyết ấy từ chỗ nhận
thức giới tự nhiên đến chỗ nhận thức xã hội loài người, chủ nghĩa duy vật lịch sử của Marx
là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học"
KẾT LUẬN
Với một hệ thống triết học tương đối hoàn chỉnh, với tri thức bách khoa, kiến thức
uyên bác và thiên tài của mình, Hegel trở thành nhà triết học lớn nhất thời bấy giờ. Học
thuyết của ông mở ra một giai đoạn mới trong lịch sử triết học.
Không chỉ là đại biểu tiêu biểu của nền triết học cổ điển Đức mà Hegel đã đem lại
cho triết học địa vị vốn có và sứ mệnh cao cả của nó trong đời sống tinh thần nhân loại. Với
những luận cứ sâu sắc và có cơ sở khoa học, Hegel đã làm sáng tỏ đối tượng, chức năng và
phương pháp của triết học, mối quan hệ của triết học với các khoa học khác và qua đó,trình
bày một cách khúc chiết, đúng đắn bản chất của triết học.
Ông đã có công xây dựng phép biện chứng duy tâm với đầy đủ các quy luật cơ bản và
phạm trù của nó mà sau này Karl Marx kế thừa ccari tạo thành phép biện chứng duy vật –
một công cụ không thể thiếu trong hoạt động nhận thức và thực tiễn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình triết học (tập 1) – TS. Bùi Văn Mưa (Chủ biên) – Trường Đại học kinh tế
Tp Hồ Chí Minh
2. “Hạt nhân duy lý” trong triết học Hegel – Trần Đức Thảo – 1956
3. Hiện tượng Luận Tinh Thần - G. W. G. Hegel - Bùi Văn Nam Sơn (dịch và chú giải) -
Nxb. Văn học, 2006
4. Vài lời về biện chứng pháp Hegel – Ngô Văn Tao
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 2
Chương 1. HEGEL VÀ HỆ THỐNG TRIẾT HỌC HEGEL 3
1.Sơ lược về Georg Wilhelm Friedrich Hegel (1770-1831) 3
2.Bối cảnh ra đời của Triết Học Hegel 3
3.Hệ thống triết học Hegel và thành tựu nổi bật 4
Chương 2. PHÉP BIỆN CHỨNG DUY TÂM 5
1.Phép biện chứng duy tâm khách quan về ý niệm tuyệt đối 5
2.Phép biện chứng duy tâm về triết học 5
3.Phép biện chứng duy tâm trong khoa học logic 6
4.Phép biện chứng duy tâm về nhà nước 8
5.Phép biện chứng duy tâm của Hegel 9
Chương 3. VAI TRÒ CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY TÂM VÀ SỰ RA ĐỜI CỦA
TRIẾT HỌC MARX 11
1.Sự mâu thuẫn trong Triết học Hegel 11
2.Tiền đề cho sự ra đời của Triết Học Marx 12
KẾT LUẬN 12
TÀI LIỆU THAM KHẢO 13
MỤC LỤC 14