Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Bài tiểu luận Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Mac

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (277.65 KB, 18 trang )

Trường Đại Học Kinh Tế TP.Hồ Chí Minh
Viện Đào tạo Sau Đại Học

BÀI TIỂU LUẬN
Đề tài 11: “Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và vai
trò của nó đối với sự ra đời của triết học Mac”
TP.HCM tháng 12/2014
HVTH: Bùi Lý Thảo Trinh
STT: 110 Nhóm: 6
Lớp: QTKD1 Khóa: 23
GVPT: TS. Bùi Văn Mưa
Lớp: QTKD1 Nhóm: 6
LỜI MỞ ĐẦU
- Triết học cổ điển Đức là một giai đoạn lịch sử tương đối ngắn nhưng nó
đã tạo ra những thành quả kỳ diệu trong lịch sử triết học. Trước hết, nó đã
từng bước khắc phục những hạn chế siêu hình của triết học duy vật thế kỷ
XVII, XVIII. Thành quả lớn nhất của nó là những tư tưởng biện chứng đã
đạt tới trình độ một hệ thống lý luận – điều mà phép biện chứng cổ đại Hy
Lạp đã chưa đạt tới và chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII – XVIII cũng không
có khả năng tạo ra.
- Tuy nhiên hạn chế lớn nhất của triết học cổ điển Đức là tính chất duy tâm
khách quan của Hêghen, còn về chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc thì xét về
thực chất không vượt qua được trình độ chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII –
XVIII Tây Âu.
- Những hạn chế và thành quả của triết học cổ điển Đức đặc biệt là những
vấn đề trong triết học duy vật nhân bản của Phoiơbắc đã được triết học
Mác khắc phục, kế thừa và nâng lên một trình độ mới của chủ nghĩa duy
vật hiện đại.
- Để tìm hiểu rõ hơn nội dung triết học Phoiơbắc và những vai trò của nó
đến triết học Mac nhóm 6 đã chọn đề tài: “ Nội dung triết học nhân bản
của Phoiơbắc và vai trò của nó đối với triết học Mác”.


- Mục đích: Tìm hiểu nội dung, thành tựu và hạn chế của triết học Phoiơbắc
từ đó tìm ra những vai trò ảnh hưởng của triết học nhân bản Phoiơbắc đến
triết học Mác.
- Do giới hạn của đề tài nên chỉ tìm hiểu nội dung tư tưởng cơ bản và đưa ra
vai trò cơ bản của triết học nhân bản Phoiơbắc đến triết học Mác.
HVTH: Bùi Lý Thảo Trinh Trang 1
Lớp: QTKD1 Nhóm: 6
NỘI DUNG
Chương 1: Những nội dung cơ bản của chủ nghĩa duy vật
nhân bản Phoiơbắc
1.1. Giới thiệu sơ lược về Phoiơbắc:
- Lútvích Phoiơbắc là một đại biểu lỗi lạc của nền triết học cổ điển Đức,
nhà duy vật lớn nhất của triết học thời kỳ truớc Mác, nhà vô thần học, bậc
tiền bối của triết học Mác. Ông sinh năm 1804 trong một gia đình luật sư
nổi tiếng ở Đức. Ông đã theo học ở trường đại học tổng hợp Béclin, tham
gia phái Hegel trẻ. Về sau ông tách ra khỏi phái này, trở thành người phê
phán hệ thống của Hegel, xây dựng hệ thống triết học duy vật riêng của
mình. Các tác phẩm triết học lớn của ông là” Những nguyên lý cơ bản của
triết học tương lai” (1843), Bản chất của cơ đốc giáo”, “Lịch sử triết học”.
Trong các tác phẩm này, Phoiơbắc luận chứng cho những quan điểm duy
vật của ông.
1.2. Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc:
- Năm 1831, Hêgen mất, tám năm sau, Phoiơbắc công bố tác phẩm Góp
phần phê phán triết học Hêgen, qua đó đoạn tuyệt vời thế giới quan duy
tâm, trở thành nhà duy vật. Vấn đề Cải cách triết học của Phoiơbắc thể
hiện trước hết trong việc giải quyết một cách duy vật vấn đề cơ bản của
triết học - mối quan hệ giữa tinh thần và vật chất, tư duy và tồn tại. Trong
khi giải quyết vấn đề này, Phoiơbắc đã đưa thuyết nhân bản đến gần chủ
nghĩa duy vật. Luận điểm xuất phát của triết học Phoiơbắc là giới tự nhiên
tồn tại không lệ thuộc vào ý thức, nó là cơ sở của tồn tại người, ngoài tự

nhiên và con người thì không có gì cả, bản chất của Thượng đế chẳng qua
là sự phản ánh hư ảo bản chất con người.
- Nguyên tắc nhân bản nằm ở tính thống nhất của bản chất con người, tinh
thần và thể xác, trong đó thể xác là bộ phận của thế giới khách quan, và ở
chừng mực nào đó nó bao hàm cả tồn tại của thế giới ấy, xoá bỏ sự tách
rời giữa tinh thần và thể xác do triết học duy tâm và triết học nhị nguyên
tạo ra. "Triết học mới Phoiơbắc viết: biến con người, gồm cả tự nhiên với
tư cách cơ sở của con người, thành đối tượng duy nhất, phổ quát và cao
HVTH: Bùi Lý Thảo Trinh Trang 2
Lớp: QTKD1 Nhóm: 6
nhất của triết học và do đó, biến thuyết nhân bản, trong đó có triết học
thành khoa học phổ quát".
1.2.1. Quan niệm về giới tự nhiên và con người:
* Về giới tự nhiên:
- Vật chất - giới tự nhiên có truớc ý thức, tồn tại vô cùng đa dạng và độc
lập: không gian, thời gian và vận động là thuộc tính cố hữu, là phương
thức tồn tại vật chất - giới tự nhiên. Sự vận động của giới tự nhiên tuân
theo quy luật nhân quả là đời sống sinh học, con người và xã hội. Con
người thống nhất với giới tự nhiên, giới tự nhiên - cơ thể vô cơ của con
người.
- Dựa trên truyền thống duy vật, PhoiơBắc cho rằng: giới tự nhiên vật chất
có trước ý thức, tồn tại vô cùng đa dạng, phong phú và tự nó. Không gian,
thời gian và vận động là thuộc tính cố hữu, là phương thức tồn tại của vật
chất – giới tự nhiên, bản thân giới tự nhiên bị chi phối bởi mối liên hệ
nhân quả nên không ngừng vận động, phát triển trong không gian, thời
gian, theo các quy luật khách quan nội tại; trong những điều kiện nhất
định. Quá trình phát triển của giới tự nhiên sẽ dẫn đến sự ra đời của đời
sống sinh học mà cao hơn là con người và đời sống xã hội của con người.
Con người muốn hiểu giới tự nhiên phải xuất phát từ chính bản thân mình,
thông qua cảm giác và tư duy của chính mình – một đoá hoa rực rỡ của

giới tự nhiên, để nhận thức giới tự nhiên, tức tất cả nhừng gì không phải là
siêu nhiên… => Theo ông, giới tự nhiên là ánh sáng, điện từ, từ tính,
không khí, nước, lửa, đất, động vật, thực vật, là con người, bởi vì con
người là một thực thể hoạt động; trong đó, con người là sản phẩm tiến hoá
cao nhất của giới tự nhiên.
* Về con người:
- Con người trong triết học Phoiơbắc là con người cụ thể bằng xương, bằng
thịt. Bản chất con người là tổng thể những khát vọng, khả năng, nhu cầu
của anh ta. Phoiơbắc cũng nhận thấy ảnh hưởng to lớn của môi trường,
điều kiện sống, hoàn cảnh đối với tư duy và nhận thức của con người. Con
người được Phoiơbắc hiểu theo nghĩa cá thể (individium): mỗi người đều
HVTH: Bùi Lý Thảo Trinh Trang 3
Lớp: QTKD1 Nhóm: 6
có những nét riêng biệt mà không ai có, vì vậy bản chất con người rất đa
dạng. “Tất cả chúng ta là những con người, nhưng mỗi con người lại là
một người khác”.
- Quan niệm của Phoiơbắc về con người được xây dựng trên nền tảng duy
vật, đề cao tính cá thể của con người, nhấn mạnh sự năng động và sáng
tạo của cá nhân con người. Tuy nhiên, hạn chế của Phoiơbắc ở đây là ông
chưa thấy con người được tạo nên và chi phối bởi các mối quan hệ xã hội
như thế nào. Ông chỉ xét con người về mặt sinh học mà thôi (là một bộ
phận của tự nhiên, tách rời các điều kiện kinh tế - xã hội, lịch sử. Ông
không coi trọng thực tế là mỗi người tuy là cá thể nhưng lại sinh ra trong
một hoàn cảnh xã hội nhất định, thuộc một dân tộc và một thời đại lịch sử
nhất định, thuộc một tầng lớp hoặc giai cấp nhất định, thuộc một dân tộc
và một thời đại lịch sử nhất định. Vì vậy theo nhận xét của Engel, con
người của Phoiơbắc là con người phi lịch sử, phi giai cấp…và vì vậy cực
kì trừu tượng.
1.2.2. Quan niệm về nhận thức:
- Ông là người có công lớn trong việc phát triển lý luận nhận thức duy vật.

Ông cho rằng, thế giới khách quan là đối tượng của nhận thức và con
người có khả năng nhận thức được thế giới khách quan, khả năng nhận
thức của con người là vô tận. Ông kiên quyết chống lại thuyết không thể
biết của I.Cantơ.
- Nhận thức theo ông gồm hai giai đoạn: nhận thức cảm tính và nhận thức
lý tính.
- Khách thể của nhận thức – giới tự nhiên và con người chứ không phải lý
tính logic trừu tượng hay thượng đế.
- Chủ thể của nhận thức: con người đang tồn tại có cảm giác và lý trí.
- Cảm tính trực quan là nguồn gốc của tư duy lý luận, tư duy lý luận xử lý
tài liệu cảm tính để khám phá ra chân lý. Chân lý là sự phù hợp của tư
tưởng trong chủ thể với đối tượng được tư tưởng - khách thể. Nhờ vào
năng lực của cảm giác và lý trí mà con người có thể nhận thức đầy đủ giới
tự nhiên, đó là một quá trình lâu dài, thông qua các cá nhân và các thế hệ
khác nhau.
HVTH: Bùi Lý Thảo Trinh Trang 4
Lớp: QTKD1 Nhóm: 6
- Phoiơbắc đã tiếp tục truyền thống cảm giác luận duy vật, chống lại thuyết
không thể biết và lối tư biện trừu tượng. Ông không phủ nhận vai trò của
tư duy trong nhận thức, nhưng ông không thấy được vai trò của thực tiễn
trong nhận thức. Vì không thấy thực tiễn trong động lực phát triển xã hội
nên ông cố đi tìm nó trong tình yêu. Do không xuất phát từ quan điểm
thực tiễn mà trong lĩnh vực xã hội Phoiơbắc cũng như mọi nhà tư tưởng
trước Mác đều sa vào chủ nghĩa duy tâm, quá đề cao sức mạnh tinh thần,
trước hết là giáo dục, đạo đức, pháp luật… mà không thấy vai trò của nền
sản xuất vật chất đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội. Do đó chủ
nghĩa duy vật nhân bản của Phoiơbắc chưa thoát khỏi tính trực quan của
chủ nghĩa duy vật trước Mác.
1.2.3. Quan niệm về tôn giáo:
- Tôn giáo, theo ông, là sản phẩm tất yếu của tâm lý cá nhân và bản chất

con người. Người ta ai cũng sợ chết, cần có niềm tin, và an ủi. Bản chất
của thần học, do vậy, chứa đựng trong nhân bản học, là sản phẩm của sự
tưởng tượng phong phú của con người. Tôn giáo thể hiện sự mềm yếu, bất
lực của con người đối với các vấn đề xã hội.
- Tôn giáo thực chất là sự thể hiện bản chất của con người dưới hình thức
thần bí. Phoiơbắc nói: "Tư tưởng và dụng ý của con người như thế nào thì
chúa của con người như thế. Giá trị của chúa không vượt quá giá trị con
người. Ý thức của Chúa là tự ý thức của con người, nhận thức của chúa là
tự nhận thức của con người". Thực ra "bản chất thần thánh không là cái gì
khác, mà là bản chất của con người, nhưng đã được tinh chế, khách quan
hoá, tách rời với con người hiện thực bằng xương, bằng thịt".
 Tóm lại, tôn giáo là bản chất của con người đã bị tha hoá. "Thánh
thần của con người có trong tinh thần và trái tim của anh
ta". (L.Phoiơbắc: tuyển tập triết học. Matxcơva 1957. T.2. tr. 42 - 43-
Tiếng Nga).
* Một số vấn đề rút ra từ học thuyết của Phoiơbắc về tôn giáo :
- Những quan niệm trên đây của Phoiơbắc về cơ bản đã chỉ ra nguồn gốc
tâm lý, tình cảm và tâm linh của con người đối với tôn giáo, đòng thời cho
HVTH: Bùi Lý Thảo Trinh Trang 5
Lớp: QTKD1 Nhóm: 6
thấy nội dung nhăn bản trong các quan niệm thần thánh nhưng chưa đề
cập đến những cơ sở kinh tế chính trị- xã hội và văn hoá của vấn đề.
- Tuy phê phán kịch liệt tôn giáo, nhưng Phoiơbắc thực tế chỉ phê phán Cơ
đốc giáo. Còn tôn giáo nói chung, theo ông, vẫn là điều cần thiết đối với
đời sống con người. Cho nên thay vào Cơ đốc giáo, con người "cần một
tôn giáo mới", vì chỉ có tín ngưỡng, niềm tin mới an ủi được chúng ta khỏi
những nỗi bất hạnh trong cuộc đời con người. Mặc dù sự an ủi trên là giả
dối nhưng chúng ta không thể làm gì khác và phải chấp nhận sự dối trá đó.
Đúng như Engel nhận xét rằng "Phoiơbắc hoàn toàn không muốn xoá bỏ
tôn giáo, ông muốn hoàn thiện tôn giáo. Ngay cả triết học cũng phải hoà

vào tôn giáo. Thứ tôn giáo mà Phoiơbắc đề cao hiểu theo nghĩa của ông là
tôn giáo tình yêu, là quan hệ thân thiện giữa người và người. Tôn giáo tình
yêu của Phoiơbắc dựa trên triết học nhân bản của ông. Ông cho rằng nó
phản ánh được cái gì đó vĩnh hằng trong con người. Vì vậy, nó cần thiết
phải tồn tại chừng nào xã hội loài người còn tồn tại. Và phải hình thành
nên tình cảm tôn giáo.
- Ông chưa hiểu được các nguồn gốc tâm lý, kinh tế - xã hội, giai cấp, văn
hóa của tôn giáo. Mặc dù ông đã thấy được mối liên hệ giữa chủ nghĩa
duy tâm và tôn giáo.
- Ông cho rằng, xã hội loài người cần đến tôn giáo vì nó có thể đáp ứng
những thiếu hụt mà con người không có được.
- Hơn nữa, ông không muốn khắc phục những điều kiện làm nảy sinh tôn
giáo, muốn thay Cơ đốc giáo bằng một tôn giáo mới – Tôn giáo tình yêu –
khi ấy người với người là thượng đế của nhau.
1.2.4. Quan niệm về đạo đức:
- Xuất phát từ tinh thần nhân bản nên quan niệm về đạo đức của ông cũng
đầy tính nhân bản, với ông khát vọng hạnh phúc là cơ sở của mọi hành vi
của con người. Về bản chất con người cố gắng đạt cái mà mình cho là tốt,
tránh cái mà mình cho là không tốt.
- Cũng vì đứng trên lập trường nhân bản nên ông gắn cảm giác với đạo đức,
bởi lẽ, theo ông điều tốt đem lại cho con người cảm giác vui, hạnh phúc,
thỏa mãn; ngược lại, điều xấu đem lại cảm giác đau đớn, xót xa, dằn vặt
Ông khuyên răn con người không nên tham lam, ích kỷ.
HVTH: Bùi Lý Thảo Trinh Trang 6
Lớp: QTKD1 Nhóm: 6
* Quan niệm về đạo đức của ông về cơ bản có tinh thần nhân văn, vì con
người. Tuy nhiên, cũng còn có những hạn chế, chẳng hạn:
- Ông cho rằng các hiện tượng phi đạo đức chỉ là những hiện tượng ngẫu
nhiên trong xã hội, bằng tình yêu sẽ xây dựng đạo đức mới, đạo đức có sự
thống nhất giữa lợi ích cá nhân và xã hội. Đặc biệt, ông đã xây dựng nên

một thứ đạo đức trừu tượng, tách rời đời sống xã hội, phi giai cấp, phi lịch
sử, thứ đạo đức vĩnh hằng cho mọi thời đại. Về cơ bản ông chỉ nói đến
tính nhân loại của đạo đức, chưa nói đến tính dân tộc, tính giai cấp, tính
lịch sử của đạo đức.
Chương 2: Những giá trị, hạn chế và vai trò của chủ nghĩa duy vật
Phoiơbắc đối với sự ra đời của triết học Mác
2.1. Những giá trị của chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc:
- Phoiơbắc đã khôi phục và phát triển thêm chủ nghĩa duy vật thế kỉ 18
trong hoàn cảnh chủ nghĩa duy tâm thống trị ở phương Tây. Ông trình bày
sáng rõ nhiều quan điểm duy vật và phê phán triệt để chủ nghĩa duy tâm
và cơ đốc giáo.
- Ông biết đặt con người vào đúng tâm điểm phân tích triết học.
- Triết học của ông chứa đầy tính duy vật và nhân bản, nó là cội nguồn tư
tưởng của triết học Mác.
- Chủ nghĩa duy vật nhân bản của Phoiơbắc là đóng góp to lớn vào cuộc
đấu tranh chống lại việc giải thích duy tâm, nhị nguyên luận, thậm chí cả
chủ nghĩa duy tâm tầm thường về vấn đề con người. Song, nguyên lý nhân
HVTH: Bùi Lý Thảo Trinh Trang 7
Lớp: QTKD1 Nhóm: 6
bản học của Phoiơbắc không triệt để, vì ông hiểu con người chỉ là những
cá nhân trừu tượng, là thực thể thuần tuý tự nhiên - sinh vật. Ông không
thấy được mặt xã hội của con người trong hoạt động biến đổi hiện thực.
- Mặt tích cực trong triết học nhân bản của Phoiơbắc còn ở chỗ ông đấu
tranh chống các quan niệm tôn giáo chính thống của đạo thiên chúa, đặc
biệt là quan niệm về Thượng đế. Trái với các quan niệm tôn giáo và thần
học cho rằng Thượng đế tạo ra con người, ông khẳng định chính con
người tạo ra Thượng đế. Khác với Hêghen nói về sự tha hoá của ý niệm
tuyệt đối. Phoiơbắc nói về sự tha hoá của bản chất con người vào Thượng
đế. Ông lập luận rằng bản chất tự nhiên của con người là muốn hướng tới
cái chân, cái thiện nghĩa là hướng tới cái gì đẹp nhất trong một hình tượng

đẹp nhất về con người, nhưng trong thực tế những cái đó co người không
đạt được nên đã gửi gắm tất cả ước muốn của mình vào hình tượng
Thượng đế; từ đó ông phủ nhận mọi thứ tôn giáo và thần học về một vị
Thượng đế siêu nhiên đứng ngoài sáng tạo ra con người, chi phối cuộc
sống con người.
2.2. Những hạn chế của chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc:
- Phoiơbắc hiểu về phép biện chứng, lý giải đối tượng triết học, phân tích
bản chất con người, hiểu thực tiễn và xác định vai trò của nó trong nhận
thức, trong đời sống xã hội…còn hời hợt và siêu hình, quan niệm về xã
hội còn đầy tính duy tâm, thái độ đối với tôn giáo không nhất quán.
- Quan niệm về con người rất trừu tượng, phi lịch sử (giai cấp, dân tộc); chỉ
quan tâm đến mặt tự nhiên siêu hình mà không chú ý mặt xã hội và điều
kiện chính trị xã hội của con người; tuyệt đối hóa tình yêu và coi tình yêu
là bản chất của con người.
- Coi nhận thức là một quá trình tĩnh tại, thụ động của chủ thể tiếp nhận
hình ảnh của khách thể; coi thực tiễn mang tính thấp hèn, cần được loại ra
khỏi nhận thức, trục xuất ra khỏi hệ thống triết học, không hiểu hoạt động
khoa học cũng là hoạt động thực tiễn, không thấy được vai trò to lớn của
thực tiễn đối trong quá trình nhận thức hay hoàn thiện nhân cách con
người, thúc đẩy phát triển sản xuất nói riêng, xã hội nói chung.
HVTH: Bùi Lý Thảo Trinh Trang 8
Lớp: QTKD1 Nhóm: 6
- Đề cao sức mạnh tinh thần (giáo dục, đạo đức, pháp luật), không thấy
được nguồn gốc, động lực phát triển và phương tiện cải tạo xã hội.
- Triết học của Phoiơbắc không sâu, còn nhiều quan niệm siêu hình, phiến
diện trong lý giải đối tượng triết học, trong việc phân tích bản chất con
người, trong việc tìm hiểu thực tiễn và xác định vài trò của nó trong nhận
thức và cuộc sống… Đặc biệt trong việc xác định nguồn gốc, động lực
phát triển và phương tiện cải tạo xã hội. Quan điểm của Phoiơbắc còn đầy
tính duy tâm, thái độ đối với tôn giáo của ông không nhất quán.

- Trong quan hệ đối với triết học của Hêghen, ông có thái độ phủ định sạch
trơn, không thấy được thành tựu quý giá của Hêghen là phép biện chứng
để kế thừa và phát triển. Ông hiểu tính quy luật, tính tất yếu, tính nhân
quả một cách siêu hình. Cho nên chủ nghĩa duy vật nhân bản của ông
còn mang nặng tính siêu hình.
- Những hạn chế của nguyên tắc nhân bản trong thế giới quan của Phoiơbắc
còn thể hiện rõ trong việc nghiên cứu tôn giáo và đạo đức. Ở lĩnh vực này,
ông lại rơi vào lập trường duy tâm thể hiện trong việc giải quyết vấn đề
tôn giáo và ý định đưa ra những nguyên tắc đạo đức chung cho mọi dân
tộc, mọi thời đại lịch sử.
2.3. Vai trò của chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc đối với triết học Mác:
- Các Mác và Ph.Ăngghen đã từng là những người theo học triết học
Hêghen và nghiên cứu triết học Phoiơbắc. Qua đó, hai ông đã nhận thấy:
Tuy học thuyết triết học của Hêghen mang quan điểm của chủ nghĩa duy
tâm nhưng chứa đựng cái “hạt nhân hợp lý” của phép biện chứng. Còn
học thuyết triết học Phoiơbắc tuy còn mang nặng quan niệm siêu hình
nhưng nội dung lại thấm nhuần quan điểm duy vật. Các nhà sáng lập triết
học Mác đã kế thừa hạt nhân hợp lý trong triết học Phoiơbắc, cải tạo, lột
bỏ cái vỏ thần bí để xây dựng nên lí luận mới của phép biện chứng. Hai
ông đã kế thừa chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc, khắc phục tính siêu hình
và những hạn chế lịch sử khác của nó để xây dựng nên lí luận mới của chủ
nghĩa duy vật. Từ đó tạo ra cơ sở để hai ông xây dựng nên học thuyết triết
học mới, trong đó chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng thống nhất một
HVTH: Bùi Lý Thảo Trinh Trang 9
Lớp: QTKD1 Nhóm: 6
cách hữu cơ chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc đã giúp Mác và Ăngghen
đoạn tuyệt với chủ nghĩa duy tâm của Hêghen và phái Hêghen trẻ. Mác và
Ănnghen đã cải tạo chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc phát triển lên một
hình thức mới cao nhất đó là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử.

 Triết học của Hêghen và triết học Phoiơbắc là hai nguồn gốc trực tiếp về
lý luận đối với sự hình thành của triết học Mác.
- Quan niệm của Phoiơbắc về con người kể cả xét theo khía cạnh cá thể
được coi là điểm mạnh nhất của ông cũng phải nhường bước cho một số
nhà tâm sinh lý học đương thời và sau ông như Freud, ở khía cạnh xã hội,
khía cạnh mà Phoiơbắc hầu như không đề cập đến đã được Mác mở rộng
nghiên cứu. Để nhấn mạnh tính xã hội của con người Các Mác đã nêu lên
luận đề nổi tiếng trong luận cương về Phoiơbắc “ Bản chất con người
không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong
tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã
hội.”
* Các vấn đề hạn chế của triết học duy vật nhân bản Phoiơbắc được phát triển
thêm trong triết học Mác:
1. Cách tiếp cận giá trị luận về con người là cần thiết, nhưng chưa đủ cơ sở
đề lý giải bản chất thực sự của con người. Chính vì thế mà trong thời kỳ
xác lập những tư tưởng nền tảng của triết học mới, C.Mác đã nêu ra hai
phạm trù lớn trong một tuyên ngôn triết học của mình - phạm trù thực tiễn
và phạm trù bản chất con người. Thống nhất hai phạm trù đó sẽ hiểu được
điểm xuất phát và mục đích cuối cùng của triết học Mác. Cái cần có trong
triết học mang tính cải cách của Phoiơbắc chỉ dừng lại ở những nét phác
thảo đơn giản, sơ lược và đầy mâu thuẫn. Đóng góp lớn nhất của Phoiơbắc
chính là ở chỗ, ông đã vượt qua một thói quen tư duy để hình thành cách
suy nghĩ mới, cả trong quan niệm về tự nhiên, về lý luận nhận thức lẫn
trong cách hiểu về con người. "Triết học hiện đại từ bỏ tư tưởng kinh
viện " tuyên bố đó của Phoiơbắc trong: “Những nguyên nhân cơ bản của
triết học về tương lai” tự nó đã thể hiện thiên hướng cải cách tích cực của
HVTH: Bùi Lý Thảo Trinh Trang 10
Lớp: QTKD1 Nhóm: 6
ông. Triết học cần từ bỏ tính sách vở, những biện luận thuần tuý của tư
duy để đến với cuộc sống, được vật chất hoá trong hoạt động thực tiễn của

con người. Cái cần có trong dự án cải cách triết học của Phoiơbắc - sự kết
hợp giữa chủ nghĩa duy vật và thuyết nhân bản đã được hiệu chỉnh, hoàn
thiện, phát triển lên trình độ cao, trình độ của chủ nghĩa duy vật biện
chứng triệt để và khoa học.
- Trung tâm thế giới quan mới do C.Mác và Ph.Ăngghen đặt nền móng là
chủ nghĩa duy vật về lịch sử. Theo các ông, con người không phải bước ra
từ sâu thẳm của giới tự nhiên thành một sinh thể tự nhiên phổ quát như
L.Phoiơbắc nhận định, mà nó trở thành như vậy trong tiến trình lịch sử.
Con người khác với động vật trước hết không phải bởi nó có ý thức, tư
duy như L.Phoiơbắc nói, mà bởi sự bắt buộc phải lao động sản xuất nhằm
tạo ra cho mình các phương tiện sống. Trong quá trình sản xuất đó, con
người khám phá ra sức mạnh của tự nhiên, chuyển nó thành lực lượng lao
động xã hội, tạo nên nội dung của lịch sử thế giới. Sự khám phá đó được
tiến hành bởi các cá nhân có những nhu cầu tự nhiên – xã hội xác định và
những năng lực hoạt động của họ trong phạm vi những hình thái kinh tế –
xã hội được chuyển giao từ thế hệ này qua thế hệ khác. Với nghĩa như
vậy, C.Mác và Ph.Ăngghen viết: “Những tiền đề xuất phát của chúng tôi,
không phải là những tiền đề tuỳ tiện, không phải là giáo điều, đó là những
tiền đề hiện thực mà người ta chỉ có thể bỏ qua trong trí tưởng tượng thôi.
Đó là những cá nhân hiện thực, là hoạt động của họ và những điều kiện
sinh hoạt vật chất của họ. Tiền đề đầu tiên của toàn bộ lịch sử nhân loại thì
dĩ nhiên là sự tồn tại của những cá nhân con người sống. Vì vậy, điều cụ
thể đầu tiên cần phải xác định là tổ chức cơ thể của những cá nhân ấy và
mối quan hệ mà tổ chức cơ thể ấy tạo ra giữa họ với phần còn lại của tự
nhiên”. Dựa trên tiền đề xuất phát đúng đắn đó, C.Mác và Ph.Ăngghen
nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của nhân cách. Chỉ có trong
cộng đồng, cá nhân mới có được những phương tiện để có thể phát triển
toàn diện những năng khiếu của mình và do đó, chỉ có trong cộng đồng,
mới có thể có tự do cá nhân”. Như vậy, sự tồn tại của mỗi cá nhân không
thể tách khỏi cộng đồng, vì đây là môi trường sống, môi trường hoạt động,

HVTH: Bùi Lý Thảo Trinh Trang 11
Lớp: QTKD1 Nhóm: 6
môi trường sản xuất của chính cá nhân. Mối quan hệ giữa cá nhân và xã
hội giống như mối quan hệ giữa cái riêng, cái đặc thù, cái ngẫu nhiên với
cái chung, cái phổ quát – tất yếu, trong đó yếu tố xã hội đóng vai trò quyết
định. Nếu không hiểu mối quan hệ biện chứng này thì dễ rơi vào quan
điểm duy tâm, siêu hình – không hiểu thực chất của tính đa dạng trong đời
sống xã hội. Với nghĩa như vậy, C.Mác và Ph.Ăngghen khẳng định:
“Những cá nhân luôn luôn xuất phát từ bản thân mình – dĩ nhiên là xuất
phát từ những cá nhân ở trong khuôn khổ những điều kiện và quan hệ lịch
sử nhất định, chứ không phải xuất phát từ cá nhân “thuần tuý” như những
nhà tư tưởng vẫn hiểu. Do không hiểu được mối quan hệ giữa đời sống
của mỗi cá nhân với đời sống của xã hội nói chung, đặc biệt là sự phân
công lao động, nên “quan niệm của L.Phoiơbắc về thế giới cảm giác được
chỉ giới hạn một mặt ở sự ngắm nhìn thế giới đó và mặt khác, ở cảm giác
đơn thuần. L.Phoiơbắc nói “con người với tính cách là con người”, chứ
không nói “con người lịch sử, hiện thực”, “con người với tính cách là con
người”.
2. Thứ hai, L.Phoiơbắc chỉ nhìn thấy sự khác biệt cơ bản giữa con người và
các loài động vật khác về phương diện nhận thức mà không thấy rằng, sự
khác biệt đó được bắt đầu từ hành vi sản xuất vật chất. Đây là một hạn
chế mang tính phổ biến của chủ nghĩa duy vật trước Mác, mà điển hình là
chủ nghĩa duy vật của L.Phoiơbắc. Vận dụng quan điểm của chủ nghĩa
duy vật biện chứng vào việc xem xét lịch sử, C.Mác và Ph.Ăngghen cho
rằng, “Tiền đề đầu tiên của toàn bộ lịch sử nhân loại thì dĩ nhiên là sự tồn
tại của những cá nhân con người sống. Theo đó, sự khác biệt giữa con
người và con vật về phương diện tư duy như quan niệm của L.Phoiơbắc chỉ
là sự khác biệt mang tính phái sinh mà thôi, còn nguyên nhân cơ bản của sự
khác biệt đó nằm ngay trong đời sống vật chất của con người”.
3. L.Phoiơbắc không nhìn thấy mối quan hệ biện chứng giữa đời sống vật

chất và đời sống tinh thần, chính vì vậy, ông không thể lý giải được một
cách duy vật quá trình bộ óc của con người sản sinh ra ý thức và tư duy
như thế nào. Phê phán quan điểm này của L.Phoiơbắc, C.Mác và
Ph.Ăngghen khẳng định một cách dứt khoát rằng, “Sự sản xuất ra những ý
HVTH: Bùi Lý Thảo Trinh Trang 12
Lớp: QTKD1 Nhóm: 6
niệm, những quan niệm và ý thức thì lúc đầu là trực tiếp gắn liền mật thiết
với hoạt động vật chất và sự giao tiếp vật chất của con người – ngôn ngữ
của cuộc sống hiện thực. Ở đây, những quan niệm, tư duy, sự giao tiếp
tinh thần của con người xuất hiện ra còn là sản phẩm trực tiếp của các
quan hệ vật chất của họ… Chính con người là kẻ sản xuất ra những quan
niệm, ý niệm, v.v. của mình, song đây là những con người hiện thực, đang
hành động, đúng như họ bị quy định bởi một sự phát triển nhất định của
những lực lượng sản xuất của họ và bởi sự giao tiếp phù hợp với sự phát
triển ấy, kể cả những hình thức rộng rãi nhất của những sự giao tiếp đó”.
Như vậy, chúng ta thấy rằng, giữa L.Phoiơbắc và các nhà kinh điển của
chủ nghĩa Mác có sự khác biệt cơ bản trong quan niệm về con người.
L.Phoiơbắc cho rằng, tư duy, ý thức là sản phẩm trực tiếp, tất yếu của bộ
óc con người. C.Mác và Ph.Ăngghen không phủ nhận ý kiến này, song
các ông đi một bước xa hơn khi nhấn mạnh rằng: “Những cá nhân nhất
định, hoạt động sản xuất theo một phương thức nhất định, đều nằm trong
những quan hệ xã hội và chính trị nhất định”, do vậy, tư duy, ý thức còn là
sản phẩm của những mối quan hệ đó, là sự phản ánh sinh động đời sống
xã hội. Từ đó, có thể kết luận rằng: “Những cá nhân là như thế nào, điều
đó phụ thuộc vào những điều kiện vật chất của sự sản xuất của họ”
4. “Hoà tan bản chất tôn giáo vào bản chất con người”, L.Phoiơbắc đã đi
đến kết luận duy tâm rằng, động lực vận động của lịch sử xã hội là sự
thực hiện những khát vọng cá nhân, mà cụ thể là tính ích kỷ của con
người còn lịch sử nhân loại chính là sự thay thế lẫn nhau của các hình
thức tôn giáo. Với kết luận như trên, L.Phoiơbắc đã dành cho chủ nghĩa

duy tâm và thần học nơi ẩn nấp khá an toàn. Nghiên cứu quá trình vận
động của lịch sử xã hội loài người từ thời cổ đại đến đương thời, C.Mác
và Ph.Ăngghen nhận thấy rằng, lịch sử không phải là sự thay thế lẫn nhau
của các hình thức tôn giáo, mà là sự thay thế của các hình thái kinh tế – xã
hội và động lực của lịch sử chính là đấu tranh giai cấp. Các ông khẳng
định: “Không phải sự phê phán mà cách mạng mới là động lực của lịch sử,
của tôn giáo, của triết học và của mọi lý luận khác. Quan niệm đó chỉ ra
rằng lịch sử không kết thúc bằng việc tự quy thành “Tự ý thức”, coi đó là
HVTH: Bùi Lý Thảo Trinh Trang 13
Lớp: QTKD1 Nhóm: 6
“Tinh thần của tinh thần”, rằng mỗi giai đoạn của lịch sử đều gặp một kết
quả vật chất nhất định, một tổng số nhất định những lực lượng sản xuất”.
Như vậy, lịch sử không phải được thực hiện bằng các khát vọng cá nhân
mà lịch sử chính là một quá trình hiện thực vật chất, vì “sự biến đổi lịch
sử thành lịch sử toàn thế giới không phải là hành vi trừu tượng nào đó của
“tự ý thức”, của tinh thần thế giới hay của một con ma siêu hình nào đó,
mà là một hành động hoàn toàn vật chất, có thể kiểm nghiệm bằng kinh
nghiệm, một hành động mà mỗi cá nhân - đúng như cá nhân đó đang tồn
tại trong đời sống thực tế, đang ăn uống và mặc quần áo, - đều là một bằng
chứng”.
 Sau khi phê phán những hạn chế như đã nêu trên trong triết học
L.Phoiơbắc, C.Mác và Ph.Ăngghen đã phát biểu một cách tổng quát quan
niệm duy vật lịch sử của mình: “Triết học Đức là triết học từ trên trời đi
xuống đất, ở đây chúng ta từ dưới lên.
KẾT LUẬN
- Các nhà sáng lập triết học Mác đã kế thừa hạt nhân hợp lý trong triết học
Phoiơbắc, cải tạo, lột bỏ cái vỏ thần bí để xây dựng nên lí luận mới của
phép biện chứng. Hai ông đã kế thừa chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc,
khắc phục tính siêu hình và những hạn chế lịch sử khác của nó để xây
dựng nên lí luận mới của chủ nghĩa duy vật. Từ đó tạo ra cơ sở để hai ông

xây dựng nên học thuyết triết học mới, trong đó chủ nghĩa duy vật và phép
biện chứng thống nhất một cách hữu cơ chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc
đã giúp Mác và Ăngghen đoạn tuyệt với chủ nghĩa duy tâm của Hêghen
và phái Hêghen trẻ. Mác và Ănnghen đã cải tạo chủ nghĩa duy vật của
Phoiơbắc phát triển lên một hình thức mới cao nhất đó là chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
HVTH: Bùi Lý Thảo Trinh Trang 14
Lớp: QTKD1 Nhóm: 6
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Triết Học phần 1 : Đại cương về lịch sử triết học – Khoa lý luận chính trị
tiểu ban triết học trường đại học kinh tế thành phố Hồ Chí Minh. Ts Bùi
Văn Mưa ( chủ biên )
- Giáo trình triết học Mác - Lênin ( Hội đồng trung ương chỉ đạo biên soạn
giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh), NXB CTQG, H, 1999.
- Giáo trình triết học Mác - Lênin ( Bộ Giáo dục và Đào tạo), NXB CTQG,
H, 2002.
- Các Mác, Phri đích Ăng-ghen – Tuyển tập (Tập 6) – NXB Sự thật – năm
1984.
- Lút vích Phoi-ơ-bắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức-
diendankienthuc.net
HVTH: Bùi Lý Thảo Trinh Trang 15
Lớp: QTKD1 Nhóm: 6
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
NỘI DUNG 2
Chương 1: Những nội dung cơ bản của chủ nghĩa duy vật 2
nhân bản Phoiơbắc 2
1.1. Giới thiệu sơ lược về Phoiơbắc: 2
1.2. Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc: 2

1.2.1. Quan niệm về giới tự nhiên và con người: 3
1.2.2. Quan niệm về nhận thức: 4
1.2.3. Quan niệm về tôn giáo: 5
1.2.4. Quan niệm về đạo đức: 6
Chương 2: Những giá trị, hạn chế và vai trò của chủ nghĩa duy vật
Phoiơbắc đối với sự ra đời của triết học Mác 7
2.1. Những giá trị của chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc: 7
2.2. Những hạn chế của chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc: 8
2.3. Vai trò của chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc đối với triết học
Mác: 9
KẾT LUẬN 14
TÀI LIỆU THAM KHẢO 15
HVTH: Bùi Lý Thảo Trinh Trang 16

×