Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

CHỦ NGHĨA DUY VẬT NHÂN BẢN PHOIƠBẮC VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ VỚI SỰ RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC MÁC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (222.79 KB, 19 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TPHCM
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề tài:
CHỦ NGHĨA DUY VẬT NHÂN BẢN
PHOIƠBẮC VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ
VỚI SỰ RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC MÁC
Giảng viên hướng dẫn: TS. BÙI VĂN MƯA
Học viên thực hiện : NGUYỄN ANH TUẤN
Số thứ tự : 114
Nhóm 6 - Lớp cao học Đêm 1 – K23
TP.HCM, THÁNG 12 - 2014
MỤC LỤC
Lời mở đầu ………….…… ………………………………………………………………….… 1
Chương 1: Giới thiệu sơ lược về Lútvích Phoiơbắc và những nội dung
cơ bản chủ nghĩa duy vật nhân bản …………………………………………………….… 2
1.1. Giới thiệu sơ lược về Phoiơbắc ………………………………………………………… 2
1.2. Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc …………………………….…………………….3
1.2.1. Quan niệm về giới tự nhiên và con người ………………………………… 3
1.2.2. Quan niệm về nhận thức ……………………………………………………… 5
1.2.3. Quan niệm về tôn giáo ………………………………………………………… 5
1.2.4. Quan niệm về đạo đức …………………………………… ……………………7
Chương 2: Những giá trị, hạn chế và vai trò của chủ nghĩa duy vật Phoiơbắc
đối với sự ra đời của triết học Mác …………………………………………………………7
2.1.Những giá trị của chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc …………………………….7
2.2. Những hạn chế của chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc ……………………… 10
2.3. Vai trò của chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc đối với sự ra đời
của triết học Mác ……………………………………………………………………………… 15
Kết luận ………………………………………………………………………………………… 16
Tài liệu tham khảo …………………………………………………………………………….17


Tiểu luận Triết học
LỜI MỞ ĐẦU
Nhân loại luôn nhắc tới các nhà tư tưởng tiến bộ trong lịch sử xã hội loài
người, những người gắn suy nghĩ của mình với khát vọng vươn tới một cuộc sống tốt
đẹp cho con người. Những tư tưởng tiến bộ đó của họ luôn được các thời đại lịch sử
tiếp theo phục hồi, phát triển và làm phong phú thêm nhờ nội dung xã hội mới, nội
dung thể hiện tính tất yếu lịch sử và những nhu cầu xã hội cao hơn. Lútvích Phoiơbắc
với tư tưởng nhân đạo trong những quan niệm của ông về tôn giáo và sự giải phóng
con người là một trong những người như vậy. Ông vốn là người mang tư tưởng
không khoan dung theo lối nhân đạo chủ nghĩa đối với mọi sự áp bức con người,
luôn đặt niềm tin vào khả năng vô tận của lý trí con người coi khát vọng chân lý là
cái không tương dung với chủ nghĩa giáo điều, song ông lại sống trong một thời đại
mà sự thống trị tinh thần thuộc về tôn giáo và các khái niệm của “tinh thần tuyệt
đối”, ông đã chống lại sự thống trị đó. Lútvích Phoiơbắc đối lập với Heghen, người
coi toàn bộ thế giới hiện thực chỉ là hiện thân của “tinh thần tuyệt đối” được hiểu như
một lực lượng siêu nhiên nhưng Lútvích Phoiơbắc thì cho rằng con người không phải
là nô lệ của thượng đế hay “tinh thần tuyệt đối” mà là sản phẩm của tự nhiên, là kết
quả phát triển của tự nhiên. Theo ông, nhiệm vụ cao cả của triết học là đem lại cho
con người một quan niệm mới về chính bản thân mình, một cuộc sống hạnh phúc và
hơn nữa, tiến hành cuộc đấu tranh lý luận cho việc giải phóng con người.
Xuất phát từ quan điểm đó mà Lútvích Phoiơbắc cho rằng triết học phải xuất
phát từ chính con người, đem lại hạnh phúc cho con người. Theo ông, con người mới
có tư duy và chỉ khi nào xuất phát từ chính con người thì vấn đề về tư duy và tồn tại
mới được giải quyết một cách đúng đắn. Do đó, đối tượng nghiên cứu của triết học
mới là con người, và khoa học nghiên cứu bản chất con người là nhân bản học, nên
triết học mới đó là triết học nhân bản hay nhân bản học phải là khoa học cơ sở và
chung nhất cho mọi ngành khoa học. Triết học mới mà Lútvích Phoiơbắc đã xây
dựng là triết học duy vật nhân bản.
Việc tìm hiểu quan niệm về con người trong triết học Lútvích Phoiơbắc có ý
nghĩa giúp ta có cái nhìn toàn diện về lịch sử quan niệm về con người trong triết học

nói chung và những ưu điểm, đóng góp lẫn những hạn chế của ông nói riêng và vai
trò của triết học duy vật nhân bản với triết học của Mác.
Nguyễn Anh Tuấn – Lớp đêm 1 K22 1
Tiểu luận Triết học
Chương 1: Giới thiệu sơ lược về Lútvích Phoiơbắc và những nội dung
cơ bản chủ nghĩa duy vật nhân bản
1.1. Giới thiệu sơ lược về Phoiơbắc
Lútvích Phoiơbắc (1804-1872) sinh ra trong một gia đình luật sư nổi tiếng, đã
từng tham gia phái Hêghen trẻ, về sau tách khỏi phái này rồi trở thành người phê
phán hệ thống của Hêghen và xây dựng hệ thống triết học duy vật của riêng mình,
ông là nhà triết học duy vật duy nhất và cũng là đại biểu cuối cùng trong nền triết học
cổ điển Đức, là bậc tiền bối của Mác, các tác phẩm của ông như “Phê phán triết học
Heghen”, “Bản chất của đạo cơ đốc”, “Luận cương sơ bộ về cải cách triết học”, “Cơ
sở triết học tương lai”, “Bản chất của tôn giáo”… đã làm sống lại chủ nghĩa duy vật
thế kỷ XVII-XVIII và làm sinh động thế giới quan duy vật khoa học thời bấy giờ.
Ông là người đã đem đến sự kết thúc đầy ý nghĩa toàn bộ nền triết học phương Tây
cổ điển nói chung, triết học cổ điển Đức nói riêng.
Tư tưởng cải cách triết học ở Phoiơbắc được hình thành từ năm 1829, khi ông
vừa hoàn thành Luận án Tiến sĩ và bắt đầu giảng môn logic học và siêu hình học tại
Erlangen. Năm 1831, Hêghen mất và tám năm sau, Phoiơbắc công bố tác phẩm góp
phần phê phán triết học Hêghen, qua đó đoạn tuyệt với thế giới quan duy tâm, trở
thành nhà duy vật. Vấn đề cải cách triết học được ông bàn đến ở hầu hết các tác
phẩm sau đó, nhưng nổi bật nhất là trong ba tác phẩm kế tiếp nhau: gồm Bản chất
của Cơ đốc giáo (1841), Luận cương sơ bộ về cải cách triết học (1842), Cơ sở triết
học tương lai (1843). Đây cũng là các tác phẩm có sức thu hút lớn đối với Mác thời
trẻ bởi tính kiên định, phân minh về thế giới quan và thiên hướng chính trị dân chủ,
nhân văn của chúng.
Luận điểm xuất phát của triết học Phoiơbắc là giới tự nhiên tồn tại không lệ
thuộc vào ý thức, nó là cơ sở của tồn tại người, ngoài tự nhiên và con người, không
có gì cả, bản chất của Thượng đế chẳng qua là sự phản ánh hư ảo bản chất con người.

Nguyên tắc nhân bản nằm ở tính thống nhất của bản chất con người, tinh thần và thể
xác, trong đó thể xác là bộ phận của thế giới khách quan, và ở chừng mực nào đó nó
bao hàm cả tồn tại của thế giới ấy.
Nguyễn Anh Tuấn – Lớp đêm 1 K22 2
Tiểu luận Triết học
Khác với những người theo chủ nghĩa duy lý, Lútvích Phoiơbắc cho rằng con
người khác với con vật không chỉ ở trí tuệ mà cả ở cảm xúc. Cảm xúc của con người
khác về chất với cảm giác vốn có ở động vật. Sứ mệnh của lý tính không phải là ở
việc lấn át bản tính cảm tính của con người mà là ở chỗ phát triển nó, phát triển nhân
tính. Đời sống con người trước hết là đời sống cảm tính, hạnh phúc con người khổng
thể có được bên ngoài sự đa dạng, sự phong phú của hoạt động cảm tính và tình cảm.
1.2. Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc
1.2.1. Quan niệm về giới tự nhiên và con người :
Tiếp thu những thành tựu của khoa học tự nhiên trên nền tảng của chủ nghĩa
duy vật nhân bản, Phoiơbắc cho rằng, con người không phải là sản phẩm của Thượng
đế như các nhà thần học quan niệm, nó cũng không phải là sự tha hóa của ý niệm
tuyệt đối như Hêghen nói, mà là sản phẩm của giới tự nhiên. Dựa trên truyền thống
duy vật, Phoiơbắc cho rằng: giới tự nhiên vật chất có trước ý thức, tồn tại vô cùng
đa dạng, phong phú và tự nó; không gian, thời gian và vận động là thuộc tính cố hữu,
là phương thức tồn tại của vật chất - giới tự nhiên; trong những điều kiện nhất định,
quá trình phát triển của giới tự nhiên sẽ dẫn đến sự ra đời của đời sống sinh học mà
cao hơn là con người và đời sống xã hội của con người; con người muốn hiểu giới tự
nhiên phải xuất phát từ chính bản thân mình, thông qua cảm giác và tư duy của chính
mình.
Giới tự nhiên, theo Phoiơbắc, có tính chất vật chất, vật thể, tính cảm giác
được. Vật chất không do ai sáng tạo ra, luôn luôn đã và sẽ tồn tại, nghĩa là vĩnh viễn,
nó không có khởi điểm và kết thúc, nghĩa là vô hạn. Cần tìm hiểu nguyên nhân của
tự nhiên từ chính tự nhiên. Nếu Xpinôda tuyên bố thực thể là causa sui - nguyên
nhân tự thân, thì Phoiơbắc theo cách hiểu đó cũng khẳng định "tự nhiên là causa sui".
Nếu Hêgen xem tự nhiên là thứ ý niệm đã tha hoá, hay tinh thần hoá đá, chết cứng,

thiếu sáng tạo, thì Phoiơbắc lại nhấn mạnh yếu tố sản sinh và phát triển của nó. Tự
nhiên không phải là bản thể được nhào nặn từ cái tuyệt đối, thượng đế nào đó, mà là
bản thể độc lập, không cần đến bất kỳ giá đỡ thần thánh nào. Sự hình thành thế giới
nói chung, Trái đất, Mặt trời là quá trình tự nhiên. "Cú hích ban đầu của Chúa" mà
Galilê và Niutơn hình dung, đối với Phoiơbắc, là sản phẩm của trí tưởng tượng khôi
hài. Nếu Hêgen xác lập ranh giới không thể vượt qua giữa thế giới vô cơ và thế giới
Nguyễn Anh Tuấn – Lớp đêm 1 K22 3
Tiểu luận Triết học
hữu cơ, tự nhiên và tinh thần, thì Phoiơbắc lại từ lập trường của chủ nghĩa duy vật
mà khẳng định rằng, không có cái gì, kể cả sự sống, lại không hình thành từ vật chất.
Bên cạnh đó những dữ liệu do hoá học, sinh vật học và sinh lý học đem đến đều được
Phoiơbắc sử dụng thành công trong việc phê phán cả chủ nghĩa duy tâm sinh lý học
lẫn chủ nghĩa duy vật tầm thường.
Phoiơbắc cũng cho rằng không thể tách con người ra khỏi giới tự nhiên, vì
con người là sản phẩm tất yếu cao nhất của giới tự nhiên, còn giới tự nhiên là cơ
sở không thể thiếu của đời sống con người. Do đó, theo ông thì con người vừa mang
bản tính cá nhân, và con người - cá nhân cũng mang bản tính cộng đồng, có bản chất
nằm trong tình yêu.
Do mang bản tính cá nhân, mà mỗi con người là một cá thể sinh học đặc biệt
có lý trí, có ý chí, có trái tim của riêng mình để nhận thức, để khát vọng đam mê,
để rung động cảm xúc Với bản tính đó, mỗi con người tiềm tàng một năng lực sáng
tạo kỳ vĩ, năng lực này bắt nguồn từ trong cá tính cá nhân của mỗi con người, chứ
không phải xuất phát từ Thượng đế.
Do mang bản tính cộng đồng, mà mỗi con người cá nhân bị ràng buộc với
những người khác. Hạnh phúc của mỗi cá nhân không là hạnh phúc đơn độc của mỗi
con người mà là hạnh phúc được kiếm tìm trong sự hòa hợp với mọi người, trong
cộng đồng.
Bản tính vừa cá nhân vừa cộng đồng của con người, theo Phoiơbắc, là cơ sở
của tính ích kỉ hợp lý - thống nhất tính ích kỉ cá nhân với tính ích kỉ cộng đồng xã
hội. Phoiơbắc quan niệm rằng: “Chúng ta sẽ không thể là con người nếu không biết

yêu; và một đứa trẻ chỉ trở thành người lớn khi nó biết yêu; tình yêu phụ nữ là tình
yêu phổ quát, ai không yêu phụ nữ người đó không yêu con người”.
Nhìn chung, quan niệm của Phoiơbắc về con người thể hiện quan điểm của
giai cấp tư sản muốn khẳng định cá tính sáng tạo của mỗi con người. Nó có ưu điểm là
đã quan tâm đến con người (chủ yếu mặt tự nhiên - sinh học); song, nó còn có hạn chế
là đã tuyệt đối hóa tình yêu, coi tình yêu là bản chất con người mà không chú ý mặt
lịch sử - xã hội, không thấy điều kiện chính trị-xã hội mà con người phải sống trong
đó.
Nguyễn Anh Tuấn – Lớp đêm 1 K22 4
Tiểu luận Triết học
1.2.2. Quan niệm về nhận thức:
Khi đứng vững trên quan điểm duy vật về khả năng con người nhận thức được
và nhận thức ngày càng đầy đủ thế giới, Phoiơbắc cho rằng, giới tự nhiên và con
người chứ không phải lý tính logic trừu tượng hay Thượng đế là khách thể của nhận
thức. Chủ thể nhận thức cũng không phải là lý tính logic trừu tượng mà là con người
sống động, tồn tại trong thực tế, có cảm giác và lý trí. Cảm tính trực quan là nguồn
gốc của tư duy lý luận, còn tư duy lý luận xử lý tài liệu cảm tính để khám phá ra chân
lý. Chân lý là sự phù hợp giữa tư tưởng trong chủ thể với đối tượng được tư tưởng -
khách thể. Nhờ vào năng lực của cảm giác và lý trí mà con người có khả năng nhận
thức đầy đủ giới tự nhiên, nhưng đó là một quá trình lâu dài, thông qua các cá nhân và
các thế hệ khác nhau.
1.2.3. Quan niệm về tôn giáo:
Có thể nói, tư tưởng cơ bản bao quát toàn bộ triết học tôn giáo của Phoiơbắc
là chủ nghĩa vô thần được xây dựng trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa duy vật nhân
bản.
* Quan niệm của Phoiơbắc về nguồn gốc tôn giáo:
- Nguồn gốc tâm lý của tôn giáo:
Theo Phoiơbắc việc nghiên cứu nguồn gốc của tôn giáo phải xuất phát từ việc
nghiên cứu bản chất con người và đời sống hiện thực của nó. Muốn làm được việc đó
thì cần phải nhờ vào sức mạnh của lý tính. Đời sống con người phải lệ thuộc vào giới

tự nhiên để tồn tại.
- Nguồn gốc nhận thức của tôn giáo:
Quan niệm về nguồn gốc nhận thức của tôn giáo ở Phoiơbắc gắn liền một
cách trực tiếp với quan điểm nhận thức của ông, theo đó thì nhận thức của con người
là kết quả tác động của thế giới bên ngoài lên các giác quan nhận biết, làm phát sinh
ra cảm giác. Ông cho rằng việc phát sinh ra các quan niệm về tôn giáo nói chung về
Thượng đế nói riêng gắn liền với sự phát triển của tư duy trừu tượng. Nhờ sự phát
triển của tư duy trừu tượng, con người đã khái quát hóa, trừu tượng hóa các sự vật
hiện tượng riêng lẻ trong giới tự nhiên thành những khái niệm chung. Nhưng sai lầm
Nguyễn Anh Tuấn – Lớp đêm 1 K22 5
Tiểu luận Triết học
của con người ở chỗ là tuyệt đối hóa các khái niệm, biến chúng thành những tồn tại
tinh thần độc lập.
- Nguồn gốc xã hội của tôn giáo:
Phoiơbắc cho rằng, tôn giáo không đơn giản là những ảo tưởng phi lý hoang
đường mà còn là những mơ ước, khát vọng đời thường của con người. Còn Thượng
đế chỉ là tập hợp những giá trị, mơ ước, khát vọng mà con người muốn có. Như vậy
theo Phoiơbắc, tôn giáo là sản phẩm tất yếu của tâm lý và nhận thức của con người;
không phải Thượng đế sinh ra con người mà chính con người đã sinh ra Thượng đế.
* Quan niệm của Phoiơbắc về bản chất tôn giáo:
- Mối quan hệ giữa tôn giáo với chính trị:
Là một người có tư tưởng tự do cấp tiến, Phoiơbắc cho rằng tự do chính trị
trong lịch sử quá khứ và lịch sử đương đại luôn có mối quan hệ ràng buộc với tôn
giáo, những người làm chính trị đặc biệt là các vị vua trong triều đại phong kiến luôn
có tư tưởng thần thánh hóa các chính sách chính trị để dễ bề cai trị.
- Mối quan hệ giữa tôn giáo với đạo đức:
Phoiơbắc cho rằng đạo đức là lĩnh vực quan hệ giữa người với người trong thế
giới hiện thực sinh động, nó không liên quan gì tới thế giới bên kia. Trong đạo đức,
con người thiết lập quan hệ của nó với bản thân mình, với những người thân cận.
Còn trong tôn giáo, con người thiết lập quan hệ với một tồn tại tách khỏi bản tính con

người, tức là thần thánh, thần thánh đối với con người như một lý tưởng đạo đức bù
đắp những gì mà con người còn thiếu hụt .
- Mối quan hệ giữa tôn giáo và triết học duy tâm:
Cả chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo đều tuyệt đối hóa tinh thần, coi nó như là
một thực thể tồn tại độc lập tuyệt đối tách khỏi vật chất; cả hai đều tuyệt đối hóa
nhân tố chủ quan, đề cao vai trò của trí tưởng tượng, đi đến quan điểm tách rời tư
duy khỏi tồn tại, cái chung khỏi cái riêng. Ngoài ra cả hai đều có vai trò tiêu cực
trong đời sống xã hội, chúng đưa đến cho con người những nhận thức sai lầm về mối
quan hệ giữa con người và thế giới bảo vệ những quan niệm cổ hủ, lạc hậu, sai lầm.
Nguyễn Anh Tuấn – Lớp đêm 1 K22 6
Tiểu luận Triết học
1.2.4. Quan niệm về đạo đức:
Trong vấn đề đạo đức, Phoiơbắc hoàn toàn duy tâm cho rằng lòng mong muốn
hạnh phúc là bẩm sinh của con người, do đó nó phải là cơ sở của hạnh phúc. Và để
thực hiện lòng mong muốn hạnh phúc đó, Phoiơbắc đòi hỏi phải có sự tự hạn chế
hợp lý bản thân mình và tình yêu giữa người với người lại trở thành những quy tắc
cơ bản của đạo đức. Bằng sự bóc lột giai cấp trong xã hội có đối kháng giai cấp và sự
bất bình đẳng xã hội, Ănghen phê phán quan điểm đạo đức của Phoiơbắc "Nó được
gọt giũa cho thích hợp với mọi thời kì, mọi dân tộc và mọi hoàn cảnh và chính vì thế,
nó không thể đem áp dụng được ở đâu cả, cả đối với thế giới hiện thực" và Ănghen
cho rằng : "Trong thực tế mỗi giai cấp và cả mỗi nghề nghiệp đều có đạo đức riêng
của mình". Như vậy quan niệm về đạo đức của Phoiơbắc vẫn chưa thoát khỏi sự trừu
tượng, vì ông hiểu con người một cách trừu tượng, phi lịch sử, không thấy con người
là sản phẩm của xã hội, của lịch sử và con người là chủ thể của hoạt động.
Chương 2: Những giá trị, hạn chế và vai trò
của chủ nghĩa duy vật Phoiơbắc đối với sự ra đời của triết học Mác
2.1. Những giá trị của chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc:
Triết học Phoiơbắc đã khôi phục được truyền thống duy vật thế kỉ XVIII trong
hoàn cảnh chủ nghĩa duy tâm thống trị đời sống tinh thần ở Phương Tây, và phát
triển chủ nghĩa duy vật thêm một bước. Ông đã trình bày sáng rõ nhiều quan điểm

duy vật; ông phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa duy tâm và Cơ đốc giáo; ông biết đặt con
người vào đúng tâm điểm phân tích triết học. Triết học của ông chất chứa đầy tính
duy vật khả tri và nhân bản, nó là một cội nguồn tư tưởng của triết học Mac sau này.
Theo đánh giá của Mac và Ănghen thì triết học của L.Phoiơbắc có những giá
trị sau:
- Phê phán những quan điểm sai lầm của chủ nghĩa duy tâm cũng như của nhị
nguyên luận trong việc tách đôi thể xác và tinh thần, tồn tại và tư duy, L.Phoiơbắc
khẳng định rằng: "Quan hệ thực sự của tồn tại đối với tư duy là: tồn tại – chủ thể
(sujective), tư duy – thuộc tính (prelicate). Tư duy xuất phát từ tồn tại, chứ không
Nguyễn Anh Tuấn – Lớp đêm 1 K22 7
Tiểu luận Triết học
phải tồn tại xuất phát từ tư duy, cơ sở của tồn tại nằm ngay trong tồn tại, tồn tại chính
là cảm tính, là nguyên lý, trí tuệ, là sự tất yếu và chân lý; bản chất của tồn tại với tư
cách một tồn tại chính là bản chất của giới tự nhiên". Tại sao tồn tại là chủ thể, còn
tư duy là thuộc tính của chủ thể đó? Để trả lời câu hỏi này, theo L.Phoiơbắc, chúng
ta cần sự giúp sức của sinh lý học và câu trả lời là: "Con người chỉ có thể suy nghĩ
nhờ đầu óc tồn tại cảm tính của mình, lý tính có cơ sở cảm tính vững vàng trong đầu
óc, trong bộ não, trong sự tập trung của các giác quan" và "Tinh thần là sản phẩm có
sau và hơn nữa là sản phẩm của trí tưởng tượng và trừu tượng, tinh thần phát triển
cùng với thể xác, với con người nói chung; tinh thần liên quan với cảm giác, với đầu
óc, với các giác quan của cơ thể".
- Sau khi luận chứng và khẳng định tồn tại là chủ thể, tư duy là thuộc tính, ý
thức là sản phẩm của bộ óc con người, L.Phoiơbắc đã tìm hiểu sâu hơn bản chất tự
nhiên – sinh học của con người. "Bản chất chung của con người là gì? Những nhân
tính cơ bản trong con người là gì? Đó là lý tính, ý chí và trái tim. Trong ý chí, tư duy
và tình cảm luôn chứa đựng bản chất tối cao, tuyệt đối của con người và mục đích
tồn tại của nó, con người tồn tại để nhận thức, yêu thương và mong muốn. Nhưng mục
đích của lý tính, của ý chí, của tình yêu là để làm cho con người trở thành người tự do".
Với luận điểm này, ông muốn chứng minh rằng, bản chất chung của con người là tổng
hoà mọi khát vọng chính trị, mọi năng lực nhận thức và nhu cầu tự nhiên – sinh học trong

quá trình phát triển lịch sử lâu dài của con người.
- Mọi mong muốn chính trị, khát vọng tự nhiên của con người, theo quan
điểm của L.Phoiơbắc, không phải xuất phát từ tư tưởng thuần tuý, mà chúng phản
ánh đời sống hiện thực và do đời sống đó quy định. Đây là luận điểm mới so với
đương thời, nhấn mạnh điều kiện sinh hoạt vật chất quy định suy nghĩ và tư tưởng
của con người.
- Nhấn mạnh tính cá thể của con người, song L.Phoiơbắc cũng hé mở một ý
tưởng cho rằng, trong quá trình sống, con người giao tiếp với những người khác, với
cộng đồng xã hội. Do tiếp xúc với xã hội mà từ một tồn tại thuần tuý vật lý, con
người trở thành một tồn tại chính trị, nói chung trở thành một cái gì đó khác với tự
nhiên, tồn tại đó chỉ quan tâm đến bản thân mình. Con người – L.Phoiơbắc viết – là
một tồn tại của tự do, tồn tại có nhân cách, tồn tại của luật pháp. Vấn đề quan trọng
Nguyễn Anh Tuấn – Lớp đêm 1 K22 8
Tiểu luận Triết học
hơn là bản chất đích thực của con người, tức là những yếu tố quy định sự tồn tại của
nó với tư cách một sinh thể có tính loài, hay nói theo cách của C.Mác, là tính xã hội
của con người. Bởi vì "Khi con người sinh ra từ giới tự nhiên, nó mới chỉ là một sinh
vật tự nhiên đơn thuần chứ không phải là người. Con người là sản phẩm của văn hoá
và của lịch sử" và chỉ trong mối quan hệ xã hội thì con người mới là con người với ý
nghĩa đầy đủ của từ này.
- Từ việc khẳng định con người là sản phẩm của văn hoá, của lịch sử,
L.Phoiơbắc đưa ra quan điểm cho rằng, ích kỷ không chỉ mang tính cá nhân như các
nhà đạo đức học trước ông tuyên bố, mà còn mang tính xã hội. Nhận xét về quan
điểm mới này của L.Phoiơbắc, V.I.Lênin cho rằng, đây là "Phôi thai của chủ nghĩa
duy vật lịch sử". Tiến xa hơn một bước nữa, L.Phoiơbắc coi tính ích kỷ của con
người như là một động lực thúc đẩy sự phát triển của lịch sử xã hội. Những lời lẽ có
tính tuyên chiến với xã hội tư bản này được L.Phoiơbắc nói ra vào thời điểm lịch sử
khi Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản của C.Mác và Ph.Ăngghen mới ra đời đã phần
nào phản ánh tư tưởng xã hội chủ nghĩa của ông.
- Quan niệm coi con người vừa như một cá thể chứa đầy tham vọng cá nhân,

vừa như một sản phẩm của văn hoá và lịch sử là cơ sở lý luận để L.Phoiơbắc xem
xét mối quan hệ giữa người và thần. Yếu tố quan trọng hàng đầu tạo tiền đề cho sự
xuất hiện tôn giáo đó là trạng thái tâm lý của con người. Đối với ông, Thượng đế
không phải là thực thể sinh lý hay thực thể vũ trụ, mà chỉ là một thực thể tâm lý.
- Dựa trên việc phân tích nguồn gốc phát sinh của tôn giáo, L.Phoiơbắc kết
luận: "Không phải Thượng đế đã sáng tạo nên con người theo hình dáng của mình
như đã miêu tả trong Kinh Thánh, mà chính con người đã sáng tạo nên Thượng đế
theo hình dáng của mình". Như vậy, có thể nói, L.Phoiơbắc đã truy tìm bản chất của
tôn giáo trong bản chất của con người. Ông viết: "Bản chất thần thánh không là cái gì
khác như là bản chất con người, bản chất đó đã được gột rửa, được giải phóng khỏi
những giới hạn cá nhân, nghĩa là khỏi những con người vật lý hiện thực, được khách
quan hoá, được nhìn nhận như một bản chất độc lập xa lạ. Bởi vậy, mọi sự xác
định về bản chất thần thánh đều có liên quan đến việc xác định bản chất con người".
- L.Phoiơbắc lên tiếng phản đối quan điểm của các nhà thần học cho rằng,
dường như phủ định Thượng đế là một bước dẫn tới sự tiêu diệt quan hệ đạo đức.
Nguyễn Anh Tuấn – Lớp đêm 1 K22 9
Tiểu luận Triết học
Ông cho rằng, tôn giáo đã xoá nhoà ranh giới quan hệ giữa người với người, đưa con
người thoát khỏi hạnh phúc trần gian; rằng, đạo đức và tôn giáo, niềm tin và tình yêu
là những cái đối lập nhau. Theo L.Phoiơbắc, tình yêu đồng loại có thể loại trừ sự
kính Chúa và ngược lại. Bởi vậy, để có một xã hội tốt đẹp thì phải tiến hành cải cách
tôn giáo.
- Quan niệm về con người trong triết học L.Phoiơbắc như đã trình bày ở trên,
theo đánh giá của A.G.Spirkin: "Chính là điểm xuất phát cho những lập luận của
C.Mác về con người và bản chất con người". Bởi vì, bằng những quan niệm đó,
người mở đường cho chủ nghĩa duy vật nhân bản đã giáng một đòn phá tan mâu
thuẫn giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm khách quan, "Đưa một cách
không úp mở chủ nghĩa duy vật trở lại ngôi vua" và khẳng định một cách dứt khoát
rằng: "Tự nhiên tồn tại độc lập đối với mọi triết học. Nó là cơ sở trên đó con người
chúng ta – bản thân chúng ta cũng là sản phẩm của tự nhiên - đã sinh trưởng". Có thể

nói, C.Mác và Ph.Ăngghen luôn đánh giá cao triết học của L.Phoiơbắc nói chung,
chủ nghĩa duy vật nhân bản của ông nói riêng; tự thừa nhận là môn đồ và chào đón
quan điểm mới đó của ông một cách nhiệt thành.
Việc phân tích nguồn gốc tôn giáo từ phương diện xã hội là một bước tiến
vượt bậc của Phoiơbắc so với các nhà duy vật Pháp thế kỉ XVIII. Triết học tôn giáo
của Phoiơbắc đã có ảnh hưởng khá sâu sắc đến sự hình thành chủ nghĩa vô thần của
Mac. Chính triết học của Phoiơbắc đã giúp Mác thoát khỏi triết học duy tâm huyền bí
của Hêghen để đến với chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa vô thần. Tác phẩm của
Phoiơbắc "Bản chất đạo cơ đốc" ra đời đã giáng một đòn phá tan ngay mâu thuẫn
giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm khách quan của Hêghen. Trong tác
phẩm "Gia đình thần thánh" có thể thấy Mác đã đón chào quan điểm mới một cách
nhiệt liệt như thế nào, mặc dầu Mác vẫn có những ý kiến bảo lưu có tính chất phê
phán.
2.2. Những hạn chế của chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc:
Triết học của Phoiơbắc không sâu, còn nhiều quan niệm siêu hình, phiến diện
trong lý giải đối tượng triết học, trong việc phân tích bản chất con người, trong việc
tìm hiểu thực tiễn và xác định vai trò của nó trong nhận thức và cuộc sống Đặc
biệt, trong việc xác định nguồn gốc, động lực phát triển và phương diện cải tạo xã
Nguyễn Anh Tuấn – Lớp đêm 1 K22 10
Tiểu luận Triết học
hội, quan điểm của Phoiơbắc còn đầy tính duy tâm. Thái độ đối với tôn giáo của ông
không nhất quán Điều này thể hiện như sau:
- Do phủ nhận hệ thống duy tâm của triết học Hêghen nên ông phủ nhận luôn
phép biện chứng; hơn nữa, ông hiểu biện chứng rất hời hợt - phép biện chứng không
phải là sự độc thoại của một nhà tư tưởng với bản thân mình mà là sự đối thoại giữa
Tôi và Anh.
- Do đứng trên quan điểm nhân đạo chung chung mà quan niệm về con người
rất trừu tượng, phi lịch sử; nghĩa là xem xét con người với tư cách một cá nhân thuần
tuý, biệt lập, tách khỏi cơ sở tồn tại hiện thực của nó – phương thức sản xuất; ông chỉ
quan tâm đến mặt tự nhiên - sinh học mà không chú ý mặt xã hội và điều kiện chính

trị - xã hội của con người; tuyệt đối hóa và coi tình yêu là bản chất con người .Theo
C.Mác và Ph.Ăngghen, so với các nhà duy vật "thuần túy", L.Phoiơbắc đã có ưu
điểm lớn là ông thấy rằng, con người cũng là một "đối tượng của cảm giác" chứ
không phải là "hoạt động cảm giác được". Tuy nhiên, hạn chế lớn của ông là không
xem xét con người trong mối quan hệ xã hội nhất định của họ, trong những điều kiện
sinh hoạt hiện có của họ, những điều kiện làm cho họ trở thành những con người
đúng như họ đang tồn tại trong thực tế. Nghĩa là, L.Phoiơbắc không bao giờ tới được
những con người hành động đang tồn tại thực sự, mà ông vẫn cứ dừng lại ở một sự
trừu tượng. Ở ông, con người "hiện thực, cá thể, bằng xương, bằng thịt" chỉ đóng
khung trong tình cảm thôi và hoàn toàn không biết đến những "quan hệ con người"
nào khác, ngoài tình yêu và tình bạn được lý tưởng hoá. C.Mác và Ph.Ăngghen đã
đưa ra kết luận rằng: "Khi Phoiơbắc là nhà duy vật thì ông không bao giờ đề cập tới
lịch sử; còn khi ông xem xét đến lịch sử thì ông không phải là nhà duy vật. Ở
L.Phoiơbắc, lịch sử và chủ nghĩa duy vật hoàn toàn tách rời nhau". Trung tâm thế
giới quan mới do C.Mác và Ph.Ăngghen đặt nền móng là chủ nghĩa duy vật về lịch
sử. Theo các ông, con người không phải bước ra từ sâu thẳm của giới tự nhiên thành
một sinh thể tự nhiên phổ quát như L.Phoiơbắc nhận định, mà nó trở thành như vậy
trong tiến trình lịch sử. Con người khác với động vật trước hết không phải bởi nó có
ý thức, tư duy như L.Phoiơbắc nói, mà bởi sự bắt buộc phải lao động sản xuất nhằm
tạo ra cho mình các phương tiện sống. Trong quá trình sản xuất đó, con người khám
phá ra sức mạnh của tự nhiên, chuyển nó thành lực lượng lao động xã hội, tạo nên
nội dung của lịch sử thế giới. Sự khám phá đó được tiến hành bởi các cá nhân có
Nguyễn Anh Tuấn – Lớp đêm 1 K22 11
Tiểu luận Triết học
những nhu cầu tự nhiên – xã hội xác định và những năng lực hoạt động của họ trong
phạm vi những hình thái kinh tế – xã hội được chuyển giao từ thế hệ này qua thế hệ
khác. Với nghĩa như vậy, C.Mác và Ph.Ăngghen viết: "Những tiền đề xuất phát của
chúng tôi, không phải là những tiền đề tuỳ tiện, không phải là giáo điều; đó là những
tiền đề hiện thực mà người ta chỉ có thể bỏ qua trong trí tưởng tượng thôi. Đó là
những cá nhân hiện thực, là hoạt động của họ và những điều kiện sinh hoạt vật chất

của họ. Tiền đề đầu tiên của toàn bộ lịch sử nhân loại thì dĩ nhiên là sự tồn tại của
những cá nhân con người sống. Vì vậy, điều cụ thể đầu tiên cần phải xác định là tổ
chức cơ thể của những cá nhân ấy và mối quan hệ mà tổ chức cơ thể ấy tạo ra giữa
họ với phần còn lại của tự nhiên".
- Do bỏ qua hoạt động thực tiễn nên Phoiơbắc coi nhận thức là một quá trình
tĩnh tại, thụ động của chủ thể tiếp nhận hình ảnh của khách thể mà không phải là quá
trình mang tính thực tiễn năng động, sáng tạo thế giới của con người - chủ thể nhận
thức. Phoiơbắc không chỉ không thấy được vai trò của thực tiễn đối với nhận thức mà
ông cũng không thấy được vai trò to lớn của thực tiễn đối với sự hoàn thiện con
người, thúc đẩy phát triển sản xuất nói riêng, xã hội nói chung. Vì không thấy trong
thực tiễn động lực phát triển xã hội nên ông cố đi tìm nó trong tình yêu.
- L.Phoiơbắc chỉ nhìn thấy sự khác biệt cơ bản giữa con người và các loài
động vật khác về phương diện nhận thức mà không thấy rằng, sự khác biệt đó được
bắt đầu từ hành vi sản xuất vật chất.
Đây là một hạn chế mang tính phổ biến của chủ nghĩa duy vật trước Mác, mà
điển hình là chủ nghĩa duy vật của L.Phoiơbắc. Vận dụng quan điểm của chủ nghĩa
duy vật biện chứng vào việc xem xét lịch sử, C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng: "Tiền
đề đầu tiên của toàn bộ lịch sử nhân loại thì dĩ nhiên là sự tồn tại của những cá nhân
con người sống. Hành động lịch sử đầu tiên của những cá nhân đó, hành động mà
nhờ đó họ khác với loài vật, không phải là việc họ tư duy mà là việc họ bắt đầu sản
xuất ra những tư liệu sinh hoạt cần thiết cho họ… Có thể phân biệt con người với
súc vật, bằng ý thức, bằng tôn giáo, nói chung bằng bất cứ cái gì cũng được. Bản
thân con người bắt đầu tự phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản
xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình – đó là một bước tiến do tổ chức cơ thể con
người quy định. Sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con người đã gián
Nguyễn Anh Tuấn – Lớp đêm 1 K22 12
Tiểu luận Triết học
tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình". Theo đó, sự khác biệt giữa con người
và con vật về phương diện tư duy như quan niệm của L.Phoiơbắc chỉ là sự khác biệt
mang tính phái sinh mà thôi, còn nguyên nhân cơ bản của sự khác biệt đó nằm ngay

trong đời sống vật chất của con người.
- L.Phoiơbắc không nhìn thấy mối quan hệ biện chứng giữa đời sống vật chất
và đời sống tinh thần, chính vì vậy, ông không thể lý giải được một cách duy vật quá
trình bộ óc của con người sản sinh ra ý thức và tư duy như thế nào.
Phê phán quan điểm này của L.Phoiơbắc, C.Mác và Ph.Ăngghen khẳng định
một cách dứt khoát rằng: "Sự sản xuất ra những ý niệm, những quan niệm và ý thức
thì lúc đầu là trực tiếp gắn liền mật thiết với hoạt động vật chất và sự giao tiếp vật
chất của con người – ngôn ngữ của cuộc sống hiện thực. Ở đây, những quan niệm, tư
duy, sự giao tiếp tinh thần của con người xuất hiện ra còn là sản phẩm trực tiếp của
các quan hệ vật chất của họ… Chính con người là kẻ sản xuất ra những quan niệm, ý
niệm, v.v. của mình, song đây là những con người hiện thực, đang hành động, đúng
như họ bị quy định bởi một sự phát triển nhất định của những lực lượng sản xuất của
họ và bởi sự giao tiếp phù hợp với sự phát triển ấy, kể cả những hình thức rộng rãi
nhất của những sự giao tiếp đó". Như vậy, chúng ta thấy rằng, giữa L.Phoiơbắc và
các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác có sự khác biệt cơ bản trong quan niệm về con
người. L.Phoiơbắc cho rằng, tư duy, ý thức là sản phẩm trực tiếp, tất yếu của bộ óc
con người. C.Mác và Ph.Ăngghen không phủ nhận ý kiến này, song các ông đi một
bước xa hơn khi nhấn mạnh rằng: "Những cá nhân nhất định, hoạt động sản xuất theo
một phương thức nhất định, đều nằm trong những quan hệ xã hội và chính trị nhất
định". Do vậy, tư duy, ý thức còn là sản phẩm của những mối quan hệ đó, là sự phản
ánh sinh động đời sống xã hội. Từ đó, có thể kết luận rằng: "Những cá nhân là như
thế nào, điều đó phụ thuộc vào những điều kiện vật chất của sự sản xuất của họ".
- "Hoà tan bản chất tôn giáo vào bản chất con người", L.Phoiơbắc đã đi đến
kết luận duy tâm rằng, động lực vận động của lịch sử xã hội là sự thực hiện những
khát vọng cá nhân, mà cụ thể là tính ích kỷ của con người; còn lịch sử nhân loại
chính là sự thay thế lẫn nhau của các hình thức tôn giáo.
Với kết luận như trên, L.Phoiơbắc đã dành cho chủ nghĩa duy tâm và thần học
nơi ẩn nấp khá an toàn. Nghiên cứu quá trình vận động của lịch sử xã hội loài người
Nguyễn Anh Tuấn – Lớp đêm 1 K22 13
Tiểu luận Triết học

từ thời cổ đại đến đương thời, C.Mác và Ph.Ăngghen nhận thấy rằng lịch sử không
phải là sự thay thế lẫn nhau của các hình thức tôn giáo, mà là sự thay thế của các
hình thái kinh tế – xã hội và động lực của lịch sử chính là đấu tranh giai cấp. Các ông
khẳng định: "Không phải sự phê phán mà cách mạng mới là động lực của lịch sử, của
tôn giáo, của triết học và của mọi lý luận khác. Quan niệm đó chỉ ra rằng lịch sử
không kết thúc bằng việc tự quy thành "Tự ý thức", coi đó là "Tinh thần của tinh
thần", rằng mỗi giai đoạn của lịch sử đều gặp một kết quả vật chất nhất định, một
tổng số nhất định những lực lượng sản xuất". Như vậy, lịch sử không phải được thực
hiện bằng các khát vọng cá nhân mà lịch sử chính là một quá trình hiện thực vật chất,
vì "sự biến đổi lịch sử thành lịch sử toàn thế giới không phải là hành vi trừu tượng
nào đó của "tự ý thức", của tinh thần thế giới hay của một con ma siêu hình nào đó,
mà là một hành động hoàn toàn vật chất, có thể kiểm nghiệm bằng kinh nghiệm, một
hành động mà mỗi cá nhân - đúng như cá nhân đó đang tồn tại trong đời sống thực
tế, đang ăn uống và mặc quần áo - đều là một bằng chứng".
Đánh giá về mặt hạn chế của triết học tôn giáo Phoiơbắc , Ăngghen viết: "Chủ
nghĩa duy tâm thực sự của Phoiơbắc lộ rõ khi chúng ta nghiên cứu tới triết học tôn
giáo và đạo đức học của ông, Phoiơbắc hoàn toàn không muốn xóa bỏ tôn giáo; ông
muốn hoàn thiện nó, bản thân triết học cũng hòa vào tôn giáo". Theo Phoiơbắc, tôn
giáo là mối quan hệ thương yêu giữa người và người; mối quan hệ này cho đến nay,
vẫn đi tìm chân lý của nó từ sự phản ánh huyền ảo của hiện thực - ở sự trung gian
của một ông thần hay nhiều ông thần, tức là là những hình ảnh huyền ảo của các
thuộc tính của con người - nhưng ngày nay đã tìm thấy chân lý ấy một cách trực tiếp
không cần có trung gian, trong tình thương yêu giữa Tôi và Anh. Và chính vì thế mà
theo Phoiơbắc thì cuối cùng tình yêu nam nữ là một trong những hình thức cao nhất
của việc thực hành tôn giáo mới của ông. Tình yêu đối với Phoiơbắc bao giờ cũng là
một ông thần lắm phép lạ có thể giúp vượt mọi khó khăn của đời sống thực tiễn và
giúp như thế trong một xã hội chia thành những giai cấp có quyền lợi đối lập hẳn với
nhau. Do đó, những vết tích cuối cùng của tính chất cách mạng trong tính triết học
của ông đều biến mất hết và chỉ còn lai cái điệp khúc cũ kĩ : "Hãy yêu nhau đi, hãy
ôm hôn nhau đi, không cần phân biệt nam nữ và đẳng cấp - thật là một giấc mơ thiên

hạ thuận hòa". Với trái tim nhân hậu và lòng nhiệt thành cứu vớt con người của
mình, Phoiơbắc không hiểu được rằng, trong một xã hội đầy bất công, đầy khổ đau
Nguyễn Anh Tuấn – Lớp đêm 1 K22 14
Tiểu luận Triết học
và bất hạnh thì việc loại bỏ tôn giáo là điều không tưởng. Và giấc mơ thiên hạ thuận
hòa cũng không thể nào thực hiện được.
Triết học cổ điển Đức không chỉ là thành tựu to lớn của tư tưởng nhân loại mà
nó còn là tiền đề lý luận của triết học Mac nói riêng, chủ nghĩa Mac nói chung.
Phương pháp biện chứng duy vật - linh hồn của chủ nghĩa Mac - là kết quả cải biến
chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc .
2.3. Vai trò của chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc đối với sự ra đời của triết
học Mác
Từ những ưu điểm và hạn chế trong chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc như
trên ta có thể thấy được vai trò của nó đối với triết học Mác: Triết học Phoiơbắc như
là một cội nguồn tư tưởng của triết học Mác, triết học tôn giáo của Phoiơbắc đã có
ảnh hưởng khá sâu sắc đến sự hình thành chủ nghĩa vô thần của Mác, đã giúp Mác
thoát khỏi triết học duy tâm huyền bí của Hêghen để đến với chủ nghĩa duy vật và
chủ nghĩa vô thần. Những người phê phán chủ nghĩa Mác hiện nay lại đem đối lập nó
với chủ nghĩa nhân đạo của Phoiơbắc, kiến giải tư tưởng này theo tinh thần phủ định
tầm quan trọng của những đối lập giai cấp, song tư tưởng nhân đạo của của Phoiơbắc
không phải là sự phủ định tầm quan trọng của việc phân chia xã hội thành các giai
cấp đối kháng mà ông chống lại “sự phân đôi theo kiểu đối kháng” đó của xã hội,
theo Phoiơbắc cái này mâu thuẫn với bản tính của con người, với bản chất đích thực
của con người và như vậy nó là sự tha hóa của con người. Lần đầu tiên trong lịch sử
triết học, triết học Mác đã tạo ra được sự gắn kết chặt chẽ giữa lý luận với thực tiễn
chính nhờ vào quan điểm coi con người là trung tâm của Phoiơbắc. Nhưng ở
Phoiơbắc con người chỉ mới thuần túy về mặt sinh vật, chưa phải con người với tính
cách là chủ thể hoạt động cải tạo thế giới. Mác đã tiếp nối quan điểm đó và từ đó tìm
ra các phương tiện, các biện pháp để cải tạo thế giới bằng cách mạng, lấy hoạt động
thực tiễn cải tạo xã hội, cải tạo thế giới của con người là điểm xuất phát và thông qua

quá trình hoạt động thực tiễn để hoàn thiện hệ thống lý luận của mình. Chúng ta cũng
đều biết rằng quá trình hình thành triết học Mác đã diễn ra dưới ảnh hưởng của chủ
nghĩa duy vật nhân bản của Phoiơbắc. Như vậy chúng ta có thể khẳng định rằng
L.Phoiơbắc mãi tồn tại với tư cách là bậc tiền bối của chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa
duy vật nhân bản của ông là một trong những tiền đề lý luận của triết học Mác.
Nguyễn Anh Tuấn – Lớp đêm 1 K22 15
Tiểu luận Triết học
KẾT LUẬN
Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa nhân bản là tư tưởng bao trùm toàn bộ triết
học Phoiơbắc. Là một người có tư tưởng cách tân triết học, Phoiơbắc cho rằng, triết
học là một khoa học về thực tại trong chân lý và tính tổng thể của nó. Tính tổng thể
không gì khác ngoài giới tự nhiên, và điều này chỉ biết được nhờ sự cảm nhận thông
qua sự tác động của các hiện tượng tự nhiên bên ngoài (ánh sáng, màu sắc, mùi vị )
lên các giác quan nhận biết của con người (mắt, tai, mũi, ).
Chủ nghĩa vô thần là tư tưởng chủ đạo và nét độc đáo trong triết học
Phoiơbắc. Ông luôn có một tư tưởng nhất quán: Sự nghiên cứu, phán xét tôn giáo là
cơ sở, điều kiện tất yếu để khám phá bản tính con người và ngược lại. Nghiên cứu
một cách căn bản lịch sử hình thành và phát triển của tôn giáo đã cho Phoiơbắc cơ sở
lý luận vững vàng để khẳng định rằng, chủ nghĩa phiếm thần và tôn giáo đa thần
phản ánh sự lệ thuộc con người vào giới tự nhiên cũng như nhân cách hóa các hiện
tượng tự nhiên, từ đó mà phát sinh ra biểu tượng về thần sông, thần núi, Phoiơbắc
cho rằng: thượng đế là sản phẩm sáng tạo của tư duy trừu tượng con người, là hình
ảnh con người được hiện thực được lý tưởng hóa nhưng không phải vì mục đích làm
đẹp thêm cuộc sống trần gian, mà ngược lại, ngăn trở việc thực hiện các lý tưởng nơi
trần thế. Từ đó, nhà triết học dám tuyên chiến với thần thánh này đã đề xuất tư tưởng
cách tân tôn giáo bằng cách thay thế tình yêu của Thượng đế bằng tình yêu con
người, niềm tin thượng đế bằng niềm tin vào chính con người. Triết học Phoiơbắc
hàm chứa trong mình tính mâu thuẫn: ông chỉ duy vật ở nửa dưới, còn nửa trên vẫn
là duy tâm.
Như vậy, chủ nghĩa duy vật nhân bản của Phoiơbắc đã trở thành một tiền đề lý

luận quan trọng cho sự hình thành triết học Mác. Tuy nhiên, Mác và Ăngghen chỉ
tiếp nhận những hạt nhân hợp lý, phê phán những hạn chế, lọc bỏ tất cả những yếu tố
bất hợp lý của họ như tính duy tâm khách quan, tính bảo thủ (Hêghen) phương pháp
nhìn nhận siêu hình về xã hội (Phoiơbắc ).
Nguyễn Anh Tuấn – Lớp đêm 1 K22 16
Tiểu luận Triết học
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Triết học phần 1: Đại cương về lịch sử triết học – Khoa lý luận chính trị
tiểu ban triết học trường đại học kinh tế thành phố Hồ Chí Minh. Ts Bùi Văn Mưa
(chủ biên )
2. Đại cương triết học Phật giáo Việt Nam, tập 1, NXB Khoa học xã hội, HN, 2002.
3. Giáo trình triết học Mác - Lênin ( Hội đồng trung ương chỉ đạo biên soạn giáo
trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh), NXB
CTQG, H, 1999.
4. Giáo trình triết học Mác - Lênin ( Bộ Giáo dục và Đào tạo), NXB CTQG, H, 2002.

Nguyễn Anh Tuấn – Lớp đêm 1 K22 17

×