Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Chủ nghĩa duy vật nhân bản của Phoiơbắc và vai trò của nó đối với triết học Mác

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.67 KB, 14 trang )

MỤC LỤC
Mục lục 1
Lời nói đầu 2
I. CHỦ NGHĨA DUY VẬT NHÂN BẢN CỦA PHOIƠBẮC: 3
1. Những nét chính về Phoiơbắc: 3
2. Chủ nghĩa duy vật nhân bản của phoiơbắc: 4
2.1/ Các nguyên lý nhân bản và quan điểm về con người trong triết học
của Phoiơbắc: 5
2.2/ Quan điểm về đạo đức học và học thuyết về tôn giáo của Phoiơbắc: 7
2.3/ Một số nhận xét về triết học nhân bản của Phoiơbắc: 10
II. VAI TRÒ CỦA CHỦ NGHĨA NHÂN BẢN PHOIƠBẮC ĐỐI VỚI TRIẾT
HỌC MÁC: 12
III. KẾT LUẬN: 13
Tài liệu tham khảo: 14
Trang 1
LỜI MỞ ĐẦU
Triết học ra đời và phát triển cho đến nay đã có lịch sử gần 3000 năm. Sự phát triển
những tư tưởng triết học của nhân loại là một quá trình không đơn giản. Cuộc đấu tranh
giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong việc giải quyết vấn đề cơ bản của
triết học, vấn đề quan hệ giữa tồn tại và tư duy hay giữa vật chất và ý thức. Cuộc đấu
tranh đó diễn ra quyết liệt qua nhiều thế hệ đã tạo nên một kho tàng tri thức phong phú
cho nhân loại.
Trong suốt quá trình phát triển các tư tưởng triết học, các nhà triết học vừa phê phán
vừa kế thừa những thành tựu của nhau để bổ sung và hoàn thiện nội dung triết học.
Triết học Mác cũng không nằm ngoài quy luật đó, triết học Mác là một hệ thống triết
học khoa học và cách mạng, chính vì vậy nó trở thành thế giới quan và phương pháp
luận của giai cấp công nhân và nhân loại tiến bộ trong thời đại mới. Triết học Mác kế
thừa một cách có phê phán những thành tựu tư duy nhân loại, sáng tạo nên chủ nghĩa
duy vật triết học triệt để. Hai nhà triết học ảnh hưởng lớn đến sự ra đời và phát triển
của triết học Mác là Heghen và Phoiơbắc. Triết học Mác kế thừa phép tư duy biện
chứng của Heghen và chủ nghĩa duy vật nhân bản của Phoiơbắc.


Vì vậy, việc tìm hiểu các tư tưởng cơ sở cho triết học Mác sẽ giúp chúng ta hiểu rõ
và vận dụng tốt hơn chủ nghĩa Mác vào thực tiển hiện nay. Do đó, tác giả viết tiểu luận
này nhằm tìm hiểu “Chủ nghĩa duy vật nhân bản của Phoiơbắc và vai trò của nó
đối với triết học Mác”.
Tác giả
Nguyễn Hữu Ngọc
Trang 2
I. CHỦ NGHĨA DUY VẬT NHÂN BẢN CỦA PHOIƠBẮC:
1. Những nét chính về Phoiơbắc:
L.Phoiơbắc là một đại biểu lỗi lạc của nền triết học cổ điển Đức, nhà duy vật lớn
nhất của triết học thời kỳ trước Mác, nhà vô thần, bậc tiền bối của triết học Mác. Ông
sinh năm 1804 trong một gia đình luật sư nổi tiếng ở Đức. Ông đã theo học ở trường
đại học tổng hợp Beclin, tham gia phái Hegel trẻ. Về sau ông tách khỏi phái này, trở
thành người phê phán hệ thống của Hegel, xây dựng hệ thống triết học duy vật riêng
của mình. Các tác phẩm triết học lớn của ông là "Những nguyên lý cơ bản của triết học
tương lai" (l843); "Bản chất của cơ đốc giáo", "lịch sử triết học". Trong các tác phẩm
này Phoiơbắc luận chứng cho những quan điểm duy vật của ông.
Triết học L.Phoiơbắc, một mặt, phản ánh những đặc trưng của thời đại ông; mặt
khác, đó cũng chính là cuộc đời ông, cuộc đời của một con người giàu lòng trắc ẩn, vị
tha và luôn khát khao tình người, nhưng ngay từ khi mới bước vào sự nghiệp đã bị bạc
đãi, phải sống khổ hạnh và cô đơn trong cái biển sục sôi của các cuộc cách mạng xã hội
và cách mạng khoa học thời bấy giờ. Chính những điều kiện lịch sử - xã hội và bản
thân đó đã tạo nên mặt mạnh, mặt tích cực và cũng là nét đặc thù nhất của triết học
L.Phoiơbắc - tính nhân bản sâu sắc, đồng thời cũng đưa đến những hạn chế, khiếm
khuyết trong triết học của ông, như vứt bỏ phép biện chứng, tuyệt đối hóa tình yêu, duy
tâm siêu hình về con người và xã hội. Đúng như Ph.Ăngghen đã viết: “Đó là lỗi tại
những điều kiện thảm hại ở nước Đức hồi đó, những điều kiện đã khiến cho những ghế
giáo sư triết học đều do bọn chiết trung chủ nghĩa chuyên giết rệp chiếm đoạt hết, còn
L.Phoiơbắc, người vượt tất cả những bọn đó một trời một vực, lại buộc phải nông dân
hóa và rầu rĩ trong một làng nhỏ. Nếu như L.Phoiơbắc vẫn không tiếp thu được quan

điểm lịch sử về tự nhiên … và trút bỏ được tất cả cái gì là phiến diện trong chủ nghĩa
duy vật Pháp, thì đó không phải là lỗi tại ông”.
L.Phoiơbắc là một nhà duy vật nhân bản. Triết học nhân bản của ông được thể hiện
sâu sắc trong học thuyết về tôn giáo và đạo đức học. Ông phê phán triết học duy tâm
nói chung và triết học duy tâm của Hegghen nói riêng; ông vạch ra bản chất của tôn
giáo và mối quan hệ họ hàng giữa chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo. Ngoài ra, L.Phoiơbắc
còn là một nhà văn hóa nổi tiếng của nước Đức. Ông đặc biệt coi trọng việc truyền bá
học vấn đến dân chúng. Một yêu sách có tính chất cương lĩnh của ông là “Đừng làm
Trang 3
cho con người trở thành ngoan đạo, mà phải giáo dục họ. Hãy phổ biến học vấn đến
mọi giai cấp, mọi tầng lớp. Đó là nhiệm vụ của thời đại”.
Ông coi học vấn không chỉ là phương tiện đấu tranh chống lại những mê tín tôn
giáo, mà còn là chìa khóa mở mang sự hiểu biết, dẫn đến tự do và hạnh phúc cho con
người. Trên cơ sở học vấn, L.Phoiơbắc tin tưởng rằng, có thể phát triển văn hóa hòa
bình đến mọi giai cấp, mọi tầng lớp trong xã hội. Về điều này, C.Mác đã nhận xét rằng,
L.Phoiơbắc đã thay thế “cái tư biện say rượu” bằng “triết học tỉnh táo”.
L.Phoiơbắc còn là người đại diện cho dòng tư tưởng không tưởng, hòa bình, cải
lương, có ảnh hưởng đến phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân Đức lúc bấy giờ.
Ông chủ trương cải cách nước Đức bằng con đường hòa bình cải lương và nhân đạo.
Tuy nhiên, trong thực tế, điều đó đã không mang lại hiệu quả. Bản thân L.Phoiơbắc
không trực tiếp tham gia vào cuộc đấu tranh chính trị và cũng không chấp nhận chủ
nghĩa Mác, mặc dù về cuối đời, ông có chú ý đến sách báo xã hội chủ nghĩa.
L.Phoiơbắc đã gia nhập Đảng xã hội dân chủ Đức và còn đọc cả Tư bản của C.Mác,
nhưng trước sau ông vẫn là một nhà triết học và nhà văn hóa của dân tộc Đức, không
tham gia vào chính trường. Thậm chí, ngay cả khi cuộc cách mạng tư sản Đức nổ ra
(1848), ông vẫn đứng ngoài cuộc đấu tranh chính trị. L.Phoiơbắc còn từ chối cả việc
tham gia vào tổ chức của bộ máy nhà nước ở địa phương nơi ông sinh sống.
Với tư cách là một nhà triết học, L.Phoiơbắc đã có công lao to lớn và quan trọng
trong việc khôi phục và phát triển chủ nghĩa duy vật theo chiều hướng tiến bộ, “đưa
một cách không úp mở chủ nghĩa duy vật trở lại ngôi vua” như Ph.Ăngghen đã nhận

xét, đồng thời giải phóng các nhà triết học đương thời khỏi chủ nghĩa duy tâm của
Heghen, trong đó có cả C.Mác và Ph.Ăngghen.
2. Chủ nghĩa duy vật nhân bản của phoiơbắc:
Triết học duy vật của L.Phoiơbắc là sự kế tục và phát triển tư tưởng triết học của các
duy vật thế kỷ XVII-XVIII ở Tây Âu. Song, sự khác nhau giữa ông và các bậc tiền bối
là ở chỗ, ông đã nhìn thấy được tính chất sinh động, muôn màu, muôn vẻ, đa dạng của
thế giới vật chất – giới tự nhiên, đồng thời, ông cũng thừa nhận rằng, con người bằng
các giác quan đã nhận thức được thế giới đó.
Tính nhân bản trong triết học L.Phoiơbắc trước hết được thể hiện ở những nguyên lý
nhân bản và toàn bộ triết học của ông đã dựa trên những nguyên lý này.
Trang 4
2.1/ Các nguyên lý nhân bản và quan điểm về con người trong triết học của
Phoiơbắc:
Nguyên lý nhân bản thức nhất là triết học trước hết phải gắn kết bền chặt với khoa
học tự nhiên, đặc biệt là các bộ môn của sinh vật học, như cổ sinh học, sinh lý học; các
môn địa lý học, địa chất học, v.v., vì đó là những khoa học cho ta cơ sở để hiểu biết
đúng đắng về tự nhiên, về con người. Theo L.Phoiơbắc, sự kết hợp giữa triết học và
khoa học tự nhiên là sự kết hợp bền vững hơn, sâu sắc hơn và có lợi hơn là sự kết hợp
gượng ép đang tồn tại giữa triết học và thần học. Bằng sự kết hợp này, triết học nhân
bản mới có thể bảo đảm được tính khoa học, tính chân thật, giản dị và trong sáng của
mình.
Nguyên lý nhân bản thứ hai nói về nguồn gốc tự nhiên của con người. L.Phoiơbắc
khẳng định, con người có nguồn gốc từ tự nhiên, là sản phẩm của một quá trình tiến
hóa lâu dài của thế giới vật chất – điều mà các nhà triết học duy vật trước ông chưa
mấy ai nói đến. Với nguyên lý nhân bản này, ông đã chốt lại quan điểm duy vật của
mình về con người, chỉ rõ mối quan hệ chặt chẽ, sự gắn bó hữu cơ giữa con người với
phần thế giới còn lại. L.Phoiơbắc đã vạch ra sai lầm nghiêm trọng của chủ nghĩa duy
tâm cũng như của tôn giáo bằng sự khẳng định “tư duy chỉ có thể xuất hiện từ cõi tự
nhiên”. Sai lầm của quan điểm duy tâm và tôn giáo là sai lầm mang tính chất ý thức hệ,
bởi theo ông, tư duy vốn là thuộc tính cơ bản của con người đã bị chủ nghĩa duy tâm và

tôn giáo tách ra khỏi con người để rồi biến nó thành một sức mạnh siêu việt, linh
thiêng, sáng tạo ra thế giới vật chất, sáng tạo ra thế giới con người, thống trị cả tự nhiên
lẫn con người.
Nguyên lý nhân bản thứ ba và cũng là nguyên lý quan trọng nhất của triết học
Phoiơbắc: con người là trung tâm và cùng với giới tự nhiên, con người cũng là đối
tượng nghiên cứu chủ yếu của chủ nghĩa duy vật. Theo ông, con người là một sinh vật
có hình thể vật chất ở trong không - thời gian và chỉ có như vậy, con người mới có
năng lực quan sát và suy nghĩ, nghĩa là có khả năng nhận thức thế giới. Con người có
đầy đủ các giác quan để nhận thức thế giới xung quanh mình.
Khi giải quyết vấn đề cơ bản của triết học, L.Phoiơbắc đã đứng hắn trên lập trường
của chủ nghĩa duy vật. Ông khẳng định rằng, quan hệ thật sự của tư duy đối với tồn tại
là: tồn tại - chủ thể, tư duy - thuộc tính. Sự thừa nhận tư duy là thuộc tính cơ bản của
con người của L.Phoiơbắc, một mặt, đã chống lại quan niệm coi tư duy như một thực
Trang 5
thể độc lập và đối lập với con người của chủ nghĩa duy tâm và nhị nguyên luận; mặt
khác, là tiền đề để ông đưa ra nguyên lý nhản bản thứ tư - con người là một chỉnh thể
và thống nhất, là sự thống nhất giữa linh hồn và thể xác hay giữa tinh thần và thể chất.
Tính chỉnh thể và sự thống nhất giữa tinh thần và thể chất của con người đã được ông
quan niệm như là bản chất tự nhiên vốn có ở mỗi con người. Từ đó, L.Phoiơbắc đi đến
khẳng định, bản chất con người là thống nhất, giống nhau và không thay dổi. Ông còn
chỉ rõ, chỉ có về mặt lý luận mới có thể hình dung ra sự tách biệt giữa tinh thần và thể
chất, còn trong cuộc sống hiện thực, tinh thần và thể chất luôn gắn bó chặt chẽ và phụ
thuộc lần nhau.
Đối lập với triết học Hegel, Phoiơbắc cho rằng con người không phải là nô lệ của
thượng đế hay tinh thần tuyệt đối mà là sản phẩm cao nhất của tự nhiên; con người là
biểu hiện của sự phát triển hoàn thiện nhất của giới tự nhiên. Vì vậy, nhận thức con
người là nền tảng và chìa khoá để nhận thức thế giới. Phoiơbắc nói rằng, phải giải
quyết vấn đề quan hệ tư duy - tồn tại trên lập trường duy vật. Tư duy là chức năng của
một dạng vật chất có tổ chức cao là cơ thể người. Bản thân con người cụ thể là sự
thống nhất giữa thể xác của anh ta với tư duy là chức năng của cơ thể đó, giữa cấu trúc

và chức năng, giữa giải phẫu và sinh lý. Coi con người là sự thể hiện hoàn hảo mối
quan hệ tư duy - tồn tại, Phoiơbắc khẳng định chỉ có thể giải quyết vấn đề vật chất -
tinh thần trong nhân bản học, quy các vấn đề triết học thành các vấn đề quan hệ giữa
các ngành khoa học nghiên cứu giải phẫu và sinh lý, cấu trúc và chức năng. Chân lý,
theo phoiơbắc, không phải là CNDV hay CNDT chân lý chỉ có thể là nhân bản học,
tức học thuyết về con người.
Con người trong triết học phoiơbắc là con người cụ thể bằng xương, bằng thịt. Bản
chất con người là tổng thể những khát vọng, khả năng, nhu cầu của anh ta. Phoiơbắc
cũng nhận thấy ảnh hưởng to lớn của môi trường, điều kiện sống, hoàn cảnh đối với tư
duy và ý thức con người. Ông quả quyết rằng trong cung điện người ta suy nghĩ khác
trong lều tranh. Rằng nếu cơ thể một người đói chất thì trong đầu óc và trái tim anh ta
cũng không có chất cho đạo đức và các quan niệm khác. Tuy nhiên, hạn chế của
Phoiơbắc ở đây là ông chưa thấy con người xã hội, không thấy rằng con người được
tạo nên và bị chi phối bởi các quan hệ xã hội như thế nào. Ông chỉ xét con người về
mặt sinh học mà thôi (là một bộ phận của tự nhiên, tách rời các điều kiện kinh tế - xã
hội và lịch sử).
Trang 6
2.2/ Quan điểm về đạo đức học và học thuyết về tôn giáo của Phoiơbắc:
Phoiơbắc đã vận dụng những nguyên lý nhân bản trên để xây dựng nên đạo đức học
và học thuyết về tôn giáo với những nét đặc trưng sâu sắc và độc đáo, thể hiện rõ ràng
lập trưòng triết học nhân bản của ông.
a) Về đạo đức học:
Phoiơbắc đã chỉ rõ, nguồn gốc hay điều kiện đầu tiên của đạo đức là cảm giác:
"Tiếng nói của cảm giác là mệnh lệnh tuyệt đôi đầu tiên". Lòng khát khao hạnh phúc là
cơ sở cho mọi hành vi của con người, nhưng hành vi đó như thế nào thì lại phụ thuộc
vào cảm giác của họ. Nhờ có cảm giác, con người nhận biết được tốt, xấu, hạnh phúc
và bất hạnh, vui sướng và đau khổ, vinh và nhục, V.V., từ đó mà quyết định hành vi của
mình. Hơn nữa, L.Phoiơbắc còn khẳng định, ở đâu không có cảm giác, thì ở đó không
có đạo đức.
L.Phoiơbắc đã xây dựng đạo đức học của mình dựa trên hai quy tắc cơ bản: một

là, để đạt đến hạnh phúc, con người phải biết hạn chế những nhu cầu của mình một
cách hợp lý; và hai là, phải có tình yêu trong mối quan hệ giữa người, và người.
Về quy tắc thứ nhất, theo L.Phoiơbắc, con người luôn có khát vọng vươn tới hạnh
phúc, song lòng khát khao hạnh phúc của mỗi người không phải lúc nào cũng có thể
thực hiện một cách vô điều kiện, mà luôn phải chịu hai sự uốn nắn. Sự uốn nắn thứ
nhất là do hậu quả tự nhiên của hành vi của người đó. Bởi lẽ, ở mỗi con người đều có
những giới hạn nhất định vể mặt sức lực, về tài nàng và trí tuệ, và như L.Phoiơbắc đã
viết, "sau trác táng thì đến chán chường. Sau thói quen chơi bời quá độ thì đến bệnh
tật". Như vậy, sự uốn nắn thứ nhất này hoàn toàn là do những yếu tố thuần tuý tự
nhiên, sinh học quy định; nó có thể không giống nhau ở những người khác nhau. Sự
uốn nắn thứ hai là do hậu quả xã hội của những hành vi của ngưòi đó. Sống trong xã
hội, con người có nhiều mối quan hệ với những người khác, mà tất cả mọi người ai
cũng có lòng khát khao đạt đến hạnh phúc. Bởi vậy, nếu một người vì để đạt đến hạnh
phúc cho riêng mình đã không tôn trọng hay làm xúc phạm đến hạnh phúc của người
khác, thì lập tức họ sẽ bị người khác trả thù, nghĩa là, họ sẽ bị người khác phản kháng
lại, thậm chí, hạnh phúc của họ còn bị phá hoại. Từ đó, L.Phoiơbấc đã rút ra kết luận
hết sức sâu sắc rằng, nếu chúng ta muốn thỏa mãn lòng mong muốn hạnh phúc của bản
thân thì cần phải biết đánh giá đúng hậu quả của hành vi mà mình làm, nghĩa là, phải
biết tự hạn chế nhu cầu của mình một cách hợp lý, phải tuân theo hai uốn nắn tự nhiên
Trang 7
và xã hội; đồng thời phải biết tôn trọng những người khác cũng có quyền bình đẳng với
chúng ta trong việc mưu cầu hạnh phúc. Đó mới là con người có đạo đức.
Quy tắc thứ hai trong đạo đức học của ông là đạo đức phải dựa trên cơ sở tình yêu
giữa người, và người. L.Phoiơbắc coi tình yêu như bản chất của con người, như mục
đích của cuộc sống, thậm chí ông còn quy tình yêu thành lực lượng quyết định sự tiến
bộ của xã hội nói chung, của đạo đức nói riêng. Ông đã tuyên truyền cho một "tình yêu
phổ biến" mà nhờ nó, có thể giải quyết được mọi mối bất hòa giữa người và người và
do đó, cũng có thể giải quyết được mọi mâu thuẫn, dù là mâu thuẫn đối kháng trong xã
hội.
L.Phoiơbắc không thừa nhận có đạo đức cá nhân. Theo ông, đạo đức cá nhân, thứ

đạo đức chỉ thực hiện riêng cho một người, là hoàn toàn bịa đặt. Ở đâu mà ngoài cái
"Tôi" ra không có cái "Anh", không có người khác, thì ở đấy không thể nói đến đạo
đức. Đạo đức chân chính không hề chỉ biết đến hạnh phúc của mình mà không đếm xỉa
đến hạnh phúc của người khác, không biết và không muốn có hạnh phúc riêng biệt nào
tách rời và không phụ thuộc vào hạnh phúc của người khác Đạo đức chân chính chỉ
biết thứ hạnh phúc chung, có tính chất tập thể
Xuất phát từ đạo đức "nhân loại học", L.Phoiơbắc coi sự bất công, bất bình đẳng xã
hội chỉ là hiện tượng ngẫu nhiên đi chệch khỏi bản chất chân thật của con ngưòi. Điều
này, theo ông, có thể khắc phục được bằng cách giáo dục hay bằng cách thấm nhuần
"tôn giáo mới" - Tình yêu giữa "Tôi" với "Anh". Ông hy vọng rằng, nhờ thứ "đạo đức
tình yêu" đó mà con người có thể giải quyết được những sự bất hoà và bất công trong
xã hội.
Đạo đức học của L.Phoiơbắc rất trừu tượng. Nó hoàn toàn tách khỏi đời sống xã
hội, khỏi quá trình lịch sử. Bởi lẽ, con người chỉ là một sinh vật, nó có bản chất tự
nhiên giống nhau và không thay đổi trước những biến cố của lịch sử xã hội. Đúng như
Ph.Ăngghen đã nhận xét, đạo đức học của L.Phoiơbắc ‘‘được gọt giũa cho thích hợp
vói mọi thời kỳ, mọi dân tộc, mọi hoàn cảnh, và chính vì thế mà không bao giờ nó có
thể áp dụng được ở đâu cả. Và đối với thế giới hiện thực, nó cũng bất lực như cái mệnh
lệnh tuyệt đối của Cantơ vậy"
b) Học thuyết về tôn giáo:
Tính nhân bản trong triết học L.Phoiơbắc còn được thể hiện sâu sắc ở học thuyết về
tôn giáo. Để xây dựng học thuyết về tôn giáo, trước hết, L.Phoiơbắc đã tiến hành phê
Trang 8
phán tôn giáo và chủ nghĩa duy tâm của Hêgen nói riêng, chủ nghĩa duy tâm nói chung,
ông vạch ra mối quan hệ thân thiết và đồng hành giữa chủ nghĩa duy tâm của Hêgen
với tôn giáo (Thiên Chúa giáo). L.Phoiơbắc phủ nhận sự tồn tại bẩm sinh của những
tình cảm tôn giáo trong con ngưòi; ông vạch rõ nguồn gốc, bản chất của tôn giáo, sự
phát triển của tôn giáo đi từ những biểu tượng vật chất tự nhiên - (Ngẫu tượng giáo) có
tính chất khu vực đến những biểu tượng tinh thần, phổ biến trong phạm vi rộng lớn trên
toàn thế giới. Nhìn chung, sự phê phán tôn giáo của L.Phoidbắc đã vượt hẳn lên so với

tất cả những nhà triết học trước ông ở chỗ, ông đã bám sát lấy con người, coi con người
là trung tâm, là chủ thể sáng tạo ra tôn giáo, chứ không phải tôn giáo làm ra con người.
Chính vì vậy mà L.Phoiơbắc chủ trương thủ tiêu hết mọi tôn giáo có thần, có Thượng
đế, thiết lập nên một thứ tôn giáo mới - tôn giáo không có Thượng đế, mà "Người là
Thần đối với người", về điều này, Ph.Ảngghen đã nhận xét: "Phoiơbắc hoàn toàn
không muốn xóa bỏ tôn giáo, ông muốn hoàn thiện tôn giáo. Bản thân triết học cũng
phải hoà vào tôn giáo".
Trong học thuyết về tôn giáo của mình, L.Phoiơbắc cũng nói nhiều về tình yêu
giữa người và người. Mối quan hệ thân thiết, tình yêu thương giữa người và người đã
được L.Phoiơbắc tôn phong thành một tôn giáo, thậm chí cả khi đó chỉ là mối quan hệ
giữa hai người với nhau. Đối với ông, tôn giáo là sự thể hiện căn bản nhất cái bản chất
tình cảm yêu thương chân thực của con người. L.Phoiơbác đặc biệt đề cao tình yêu
nam - nữ, coi đó là một trong những hình thức cao nhất trong việc thực hiện tôn giáo
mới của ông. "Theo học thuyết của Phoiơbắc, tôn giáo là mối quan hệ thương yêu giữa
người với người; mối quan hệ này, cho đến nay, vẫn đi tìm chân lý của nó ở sự phản
ánh huyền ảo của hiện thực - ở sự trung gian của một ông thần hay nhiều ông thần, tức
là những hình ảnh huyền ảo của các thuộc tính của con người - nhưng ngày nay đã tìm
thấy chân lý ấy, một cách trực tiếp không cần có trung gian, trong tình thương yêu giữa
"Tôi" và "Anh". Chính vì thế mà theo Phoiơbắc thì cuối cùng tình yêu nam nữ là một
trong những hình thức cao nhất, nếu không phải là hình thức cao nhất, của việc thực
hành tôn giáo mới của ông”.
Tôn giáo, theo ông, là sản phẩm tất yếu của tâm lý cá nhân và bản chất con người.
Người ta ai cũng sợ chết, cần có niềm tin, và an ủi. Bản chất của thần học, do vậy, chứa
đựng trong nhân bản học, là sản phẩm của sự tưởng tượng phong phú của con người.
Tôn giáo thể hiện sự mềm yếu, bất lực của con người đối với các vấn đề xã hội.
Trang 9
Tôn giáo thực chất là sự thể hiện bản chất của con người dưới hình thức thần bí.
Phoiơbắc nói: "Tư tưởng và dụng ý của con người như thế nào thì chúa của con người
như thế. Giá trị của chúa không vượt quá giá trị con người. Ý thức của Chúa là tự ý
thức của con người, nhận thức của chúa là tự nhận thức của con người". Thực ra "bản

chất thần thánh không là cái gì khác, mà là bản chất của con người, nhưng đã được tinh
chế, khách quan hóa, tách rời với con người hiện thực bằng xương, bằng thịt".
Tóm lại, tôn giáo là bản chất của con người đã bị tha hoá. "Thánh thần của con
người có trong tinh thần và trái tim của anh ta".
Những quan niệm trên đây của Phoiơbắc về cơ bản đã chỉ ra nguồn gốc tâm lý, tình
cảm và tâm linh của con người đối với tôn giáo, đồng thời cho thấy nội dung nhăn bản
trong các quan niệm thần thánh nhưng chưa đề cập đến những cơ sở kinh tế chính trị-
xã hội và văn hoá của vấn đề.
Đây cũng là hạn chế chung của các nhà tư tưởng trước Mác trong việc lý giải
nguồn gốc và bản chất của tôn giáo.
Đạo đức và tôn giáo trong triết học duy vật của L.Phoiơbắc là đạo đức và tôn giáo
trần gian, biểu hiện thông qua mối quan hệ giữa người và người đang sống trong hiện
thực. Con người với cái tinh túy nhất và cũng là đặc trưng cơ bản nhất là tình cảm, là
tình yêu thương, là cái trục xuyên suốt toàn bộ triết học của ông; nó tạo nên cái bản sắc
nhân bản đặc thù phân biệt ông với các bậc tiền bối. Tình yêu của con người đối với
con người là đặc trưng, là điểm mạnh của triết học Phoiơbắc. Tuy nhiên, sự tuyệt đối
hoá tình yêu đến mức thần thánh hoá nó, coi nó như một phương thuốc bách bệnh, có
thể chữa lành tất cả mọi bệnh tật trong xã hội, dù đó là xã hội nào, thì lại là một điểm
yếu, một hạn chế của ông. Ph.Ăngghen đã nhận xét và đánh giá: "Nhưng tình yêu!
Vâng, đối với Phoiơbắc, thì tình yêu, ở đâu và bao giờ cũng là một ông thần có lắm
phép lạ có thể giúp người ta vượt qua mọi khó khán của đời sống thực tiễn và điều đó
đã diễn ra trong một xã hội chia thành những giai cấp có lợi ích đối lập hẳn với nhau!
Do đó, những vết tích cuối cùng có tính chất cách mạng trong triết học của ông đều
biến mất hết, và chỉ còn lại cái điệp khúc cũ kỹ: Hãy yêu nhau đi, hãy ôm nhau đi,
không cần phân biệt nam nữ và đẳng cấp - Thật là giấc mơ thiên hạ thuận hòa".
2.3/ Một số nhận xét về triết học nhân bản của Phoiơbắc:
- Triết học nhân bản của Phoiơbắc bộc lộ những hạn chế. Khi ông đòi hỏi triết học
mới - triết học nhân bản - phải gắn liền với tự nhiên thì đồng thời đã đứng luôn trên lập
Trang 10
trường của chủ nghĩa tự nhiên để xem xét mọi hiện tượng thuộc về con người và xã

hội. Con người trong quan niệm của Phoiơbắc là con người trừu tượng, phi xã hội,
mang những đặc tính sinh học bẩm sinh. Triết học nhân bản của ông chứa đựng những
yếu tố của chủ nghĩa duy tâm. Ông nói rằng, bản tính con người là tình yêu, tôn giáo
cũng là một tình yêu. Do vậy, thay thế cho một tôn giáo sùng một vị Thượng đế siêu
nhiên cần xây dựng một tôn giáo mới phù hợp với tình yêu của con người. Ông cho
rằng cần phải biến tình yêu thương của con người thành quan hệ chi phối mọi quan hệ
xã hội khác, thành lý tưởng xã hội. Trong điều kiện của xã hội tư sản Đức thời đó, với
sự phân chia giai cấp thì chủ nghĩa nhân đạo về tình yêu thương con người trở thành
chủ nghĩa nhân đạo trừu tượng, duy tâm.
- Công lao to lớn của Phoiơbắc ở chỗ, ông không chỉ đấu tranh chống chủ nghĩa
duy tâm mà còn đấu tranh chống lại những người duy vật tầm thường. Ông đã có quan
niệm đúng đắn là, không thể quy các hiện tượng tâm lý về các quá trình lý – hoá; công
nhận con người có khả năng nhận thức được thế giới. Ông đã kịch liệt phê phán những
người theo chủ nghĩa hoài nghi và thuyết không thể biết. Trong sự phát triển lý luận
nhận thức duy vât, Phoiơbắc đã biết dựa vào thực tiễn là tổng hợp những yêu cầu về
tinh thần, về sinh lý mà chưa nhận thức được nội dung cơ bản của thực tiễn là hoạt
động vật chất của con người, là lao động sản xuất vật chất, đấu tranh giai cấp và hoạt
động thực tiễn của nó là cơ sở của nhận thức cảm tính và lý tính.
- Như vậy, Phoiơbắc đã có những đóng góp xuất sắc vào lịch sử đấu tranh của chủ
nghĩa duy vật chống lại chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo. Ông đã vạch ra mối liên hệ giữa
chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo, chỉ ra sự cần thiết phải đấu trnah loại bỏ tôn giáo hữu
thần, coi đó là sự tha hoá bản chất của con người. Ông đã có công khôi phục và phát
triển chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII, XVIII.
- Tuy nhiên trong lúc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm của triết học Hêghen,
Phoiơbắc lại vứt bỏ luôn phép biện chứng của Hêghen. Cũng như các nhà triết học giai
đoạn trước Mác, Phoiơbăc rơi vào duy tâm khi giải quyết các vấn đề xã hội.
- Mặc dù triết học của Phoiơbắc có những hạn chế, nhưng cuộc đấu tranh của ông
chống lại chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo nói chung đã có ý nghĩa lịch sử to lớn. Vì vậy,
triết học của Phoiơbắc trở thành một trong những nguồn gốc lý luận của chủ nghĩa Mác.
Trang 11

II. VAI TRÒ CỦA CHỦ NGHĨA NHÂN BẢN PHOIƠBẮC ĐỐI VỚI TRIẾT
HỌC MÁC:
1) Tính nhân bản - hạt nhân hợp lý và quý giá nhất, là một đặc điểm lớn nhất, quan
trọng nhất của triết học nhân bản Phoiơbắc, là một trong những tiền đề quan trọng để
C.Mác và Ph.Ăngghen tiếp tục đi sâu vào nghiên cứu bản chất con người và con đường
giải phóng con người.
2) Quan điểm của Phoiơbắc về con người có điểm hợp lý ở chỗ nó được xây dựng
trên nền tảng duy vật. Hơn nữa nó đề cao tính cá thể của con người, nhấn mạnh sự
năng động và sáng tạo cá nhân của con người cũng như những lợi ích, nhu cầu cá nhân
của con người. Tuy nhiên, hạn chế của Phoiơbắc là ở chỗ ông không nhận thấy bản
chất xã hội của con người, cũng như vai trò của hoạt động thực tiễn con người trong
nhận thức và cải tạo thế giới. Ông không coi trọng một thực tế là mỗi người tuy là cá
thể nhưng lại sinh ra trong một hoàn cảnh xã hội nhất định; thuộc một tầng lớp hoặc
giai cấp nhất định, thuộc một dân tộc và một thời đại lịch sử nhất định. Những hạn chế
này cũng là tiền đề để Mác và Ăngghen tiếp tục nghiên cứu và phát triển những quan
điểm về con người, giai cấp và đấu tranh giai cấp.
3) Mác và Phoiơbắc đều xuất phát từ con người "triết học của ông là triết học về con
người ","con người hiện thực là đối tượng triết học ". Song con người mà Mác và
Phoiơbắc lấy làm điểm xuất phát lại có sự khác nhau căn bản về nội dung.
Vận dụng phép biện chứng duy vật Mác đã kiểm soát bản chất của con người bắt
nguồn từ hoạt động của họ và từ điều kiện sinh hoạt của họ. Ông nhìn thấy tiền đề thứ
nhất của mọi sự sinh tồn của loài người là tư liệu sinh hoạt vật chất, hoạt động lịch sử
thứ nhất của loài người là lao động sản xuất. Khi xét về bản chất của con người không
xem xét nó một cách cô lập và phiến diện mà đặt nó vào mối quan hệ với tự nhiên, xã
hội và con người, vì trong cuộc sống hiện thực của chúng ta bao gồm một cơ cấu ba
mặt: tự nhiên, xã hội, con người. Ba mặt của cơ cấu này được nối với nhau bằng quan
hệ hết sức chặt chẽ, trong đó chủ yếu là mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, với
xã hội. Đấy là một thể hoàn chỉnh hợp thành thế giới của con người, trong đó con
người vừa là điểm xuất phát vừa là khâu trung gian của những mối quan hệ ấy vì thiếu
nó thì tất cả các mối quan hệ trên sẽ trở thành vô nghĩa, tự nhiên là cái có trước con

người, sinh ra con người. Cho đến ngày nay, tuy đã ra đời trên dưới một triệu năm
Trang 12
nhưng muốn hay không con người vẫn phải sống dựa vào tự nhiên như hết thảy mọi
sinh vật khác. Nhưng con người sở dĩ trở thành con người là ở chỗ nó không chỉ sống
dựa vào tự nhiên, Ph.Ăngghen là người đầu tiên đã chỉ ra được bước chuyển biến từ
vượn thành người là nhờ vào việc chế tạo ra công cụ lao động, những công cụ này nối
dài bàn tay con người giúp con người có thể giành thêm những vật phẩm mà thiên
nhiên không trực tiếp ban phát. Như vậy con người không chỉ thích ứng với thiên nhiên
mà còn cải tạo thiên nhiên nữa, quá trình con người cải tạo thiên nhiên cũng chính là
quá tŕnh con người trở thành con người.
Nếu như con người vừa là sản phẩm của tự nhiên, vừa là sản phẩm của xă hội thì
trong con người cũng có hai mặt không thể tách rời, đó là mặt tự nhiên và mặt xã hội.
Như vậy, con người chính là một thực thể sinh học - xã hội (gọi là thực thể sinh học bởi
vì nó là một cơ thể sống, gọi là thực thể xã hội bởi vì thực thể này mang tính chất xã
hội). Điều kiện để con người sinh sống là lao động sản xuất và tư liệu sinh hoạt vật
chất. Lao động là cơ sở hình thành các quan hệ xã hội trong tiến trình khách quan của
sự phát triển lịch sử. Nó vừa là tiền đề cho sự tổng hòa quan hệ xã hội, vừa là kết quả
của tổng hòa xã hội đó, cá nhân riêng lẻ cũng thông qua hoạt động của bản thân mình
mà thực hiện quan hệ xã hội với người khác, từ đó thu được bản chất xã hội của bản
thân mình.
Như vậy bản chất của con người không phải là trừu tượng mà là hiện thực, không
phải là tự nhiên mà là lịch sử, không phải là cái vốn có trong mỗi cá thể riêng lẻ mà là
tổng hòa của toàn bộ các quan hệ xã hội. Tư tưởng đó là sự vận dụng triệt để chủ nghĩa
duy vật vào lý luận về con người: tồn tại xã hội và ý thức xã hội quyết định sự tồn tại
cá nhân và ý thức cá nhân. Như thế có nghĩa là những mối quan hệ trong một hệ thống
xã hội nhất định quyết định sự tồn tại của cá nhân, quyết định những nhu cầu và mục
đích hoạt động của cá nhân.
III. KẾT LUẬN:
- Chủ nghĩa duy vật nhân bản của Phoiơbắc có vai trò quan trọng đối với triết học
Mác, nó là tiền đề để Mác và Ăngghen đi sâu vào nghiên cứu bản chất con người và

con đường giải phóng con người.
- Việc tìm hiểu cơ sở hình thành nền tảng của triết học Mác, cụ thể là chủ nghĩa nhân
bản của Phoiơbắc, giúp chúng ta hiểu sâu sắc hơn chủ nghĩa Mác và vận dụng nó vào
thực tiển một cách uyển chuyển và hợp lý hơn.
Trang 13
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ môn triết học, trường Đại học khoa học Huế (1998), Hướng dẫn ôn tập triết
học Mác – Lênin, tại truy cập ngày
05/12/2012.
2. Friedrich Engels(1820-1895), Lút-vích phoi-ơ-bắc và sự cáo chung của triết học
cổ điển Đức, tại />vich-phoi-o-bac-va-su-cao-chung-cua-triet-hoc-co-dien-duc.html truy cập ngày
05/12/2012.
3. Nguyễn Huy Hoàng (2006), Quan điểm chung của L.Phoiơbắc về văn hóa và con
người, tại truy cập ngày 05/12/2012.
4. Phạm Thị Ngọc Trầm (2004), L.Phoiơbắc và triết học nhân bản của ông, tại
www.vjol.info/index.php/phil/article/view/7988 truy cập ngày 05/12/2012.
5. ThS. Trịnh Đình Thanh, Triết học phương Tây, tại
http://www. triethoc .googlecode.com/files/ TrietHoc PhuongTay1.doc truy cập ngày
05/12/2012.
Trang 14

×