Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (227.09 KB, 21 trang )

lời mở đầu
Xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới trong đó có cả lĩnh vực tài
chính ngày càng phát triển trong những thập kỷ gần đây, và dần hoàn thiện các
“luật chơi” cho các quốc gia tham gia vào quá trình này. Đứng trước xu hướng
đó các quốc gia chịu cả những thách thức lẫn hưởng các thời cơ thuận lợi,
nhưng các nước đang phát triển rõ ràng là chịu nhiều khó khăn hơn cả và dễ bị
chịu những tác động xấu của toàn cầu hoá. Trước năm 1997 không một nhà
kinh tế hay một chính trị gia nào có thể nghĩ rằng một cuộc khủng hoảng kinh
tế lại diễn ra ở châu á, một khu vực với những sự phát triển thần kỳ của các nền
kinh tế con rồng. Thế nhưng một khu vực được coi là sẽ trở thành trung tâm
phát triển của kinh tế thế giới ở thế kỷ 21 lại phải đối mặt với một cuộc khủng
hoảng với quy mô và mức độ phá hoại lớn như vậy.
Để hỗ trợ cho quá trình toàn cầu hoá các nước, dẫn đầu là các nước tư bản
phát triển, đã thiết lập những thể chế kinh tế quốc tế có quy mô rộng lớn và
những mục tiêu lớn lao.
Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) một tổ chức lớn nhất thế giới hoạt động trong
lĩnh vực tài chính tiền tệ đã thể hiện vai trò của mình trong suốt gần nửa thế kỷ
qua và đã hoạt động rất tích cực trong cuộc khủng hoảng châu á, góp sức đưa
khu vực ra khỏi cuộc khủng hoảng.
Hiện nay cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ đã đi qua nhưng nhìn lại diễn
biến và vai trò của IMF trong cuộc khủng hoảng là một việc rất cần thiết và
quan trọng bởi vì qua đó mới có thể hiểu được nguyên nhân của cuộc khủng
hoảng và quan trọng hơn là để rút ra bài học kinh nghiệm cho tương lai và cải
cách IMF sao cho có thể dự báo và khắc phục khủng hoảng tốt hơn. Với tinh
thần đó bài khoá luận sẽ tập trung nghiên cứu nguồn gốc của cuộc khủng
hoảng và đánh giá về vai trò của IMF. Do sự hạn chế về kiến thức, tài liệu và
1
thời gian bài khoá luận không thể tránh khỏi thiếu sót. Rất mong được sự phê
bình góp ý của thầy cô bộ môn kinh tế.
I-/ Một vài đặc điểm và mục đích của IMF.
Quỹ tiền tệ quốc tế là tổ chức tiền tệ - tín dụng liên chính phủ. Quỹ được


thành lập trên cơ sở Nghị quyết của Hội nghị quốc tế về tiền tệ - tài chính của
Liên Hợp Quốc họp tháng 07 năm 1994 tại Bretton Woods (Mỹ) với đại diện
của 44 nước tham gia. Từ ngày 1/ 3/ 1947 tổ chức IMF bắt đầu đi vào hoạt
động chính thức. Hiện nay có 181 nước là thành viên của IMF.
Nguồn vốn hoạt động chủ yếu của Quỹ là do các nước thành viên đóng
góp. Tuy nhiên trong trường hợp cần thiết, Quỹ cũng có thể vay vốn trên các
thị trường tài chính quốc tế để phục vụ việc cung cấp những khoản cho vay tài
trợ. Quỹ còn có sự phối hợp chặt chẽ với ngân hàng quốc tế về tái thiết và phát
triển (International Bank for Recontruction and Development - IBRD) cũng
được thành lập tại hội nghị Bretton Woods trong việc ổn định các quan hệ
thanh toán tiền tệ quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi cho tăng trưởng và phát triển
kinh tế của các nước thành viên. IMF đã xây dựng một hạn mức cho vay và
hạn mức đóng góp đối với các thành viên. Tiêu chuẩn để xác định mức đóng
góp là tiềm năng kinh tế và vị trí của mỗi nước trong nền kinh tế thế giới số
phiếu biểu quyết của mỗi nước tuỳ thuộc vào mức độ đóng góp của các nước
đó cho IMF. Nước Mỹ, nền kinh tế lớn nhất thế giới đóng góp phần nhiều nhất
cho IMF chiếm khoảng 18% tổng số cổ phần nên quyền lực của Mỹ ở IMF là
lớn nhất.
Mục đích của IMF: IMF hỗ trợ tín dụng cho các nước thành viên để triển
khai các dự án phát triển kinh tế - xã hội khắc phục thâm hụt trong cán cân
thanh toán quốc tế, giải quyết những khó khăn tài chính bất thường xảy ra do
ảnh hưởng của thiên nhiên hoặc để ổn định giá những mặt hàng nguyên nhiên
liệu chiến lược và điều chỉnh quan hệ tiền tệ giữa các nước hội viên.
2
IMF chỉ cho vay với điều kiện là thành viên đó sử dụng tiền vay có hiệu
quả. Vì vậy nước đi vay cam kết đề xướng một loạt các cải cách mà sẽ xoá bỏ
nguồn gốc của khó khăn thanh toán và chuẩn bị nền tảng cho tăng trưởng kinh
tế cùng với yêu cầu xin cấp một khoản vay, đối tượng vay tiềm năng sẽ trình
bày với IMF một kế hoạch cải cách điển hình là cam kết hạ thấp giá trị đồng
tiền của mình do với các đồng tiền khác (nếu như đồng tiền của nước này bị

định giá cao hơn giá trị) khuyến khích xuất khẩu và giảm chi tiêu chính phủ.
Khi quốc gia nào gặp khó khăn trong vấn đề trả nợ nước ngoài thì IMF đề
ra “chương trình điều chỉnh cơ cấu” bằng cách giảm phát nền kinh tế và giảm
chi tiêu của chính phủ nhằm giúp các nước này lấy lại sự kiểm soát đối với nền
kinh tế. Mặc dù có những vấn đề khó khăn với nền kinh tế quốc gia nhưng khi
nền kinh tế được “điều chỉnh” tìh mọi thứ sẽ trở nên tốt hơn. Nhưng trên thực
tế chương trình này đòi hỏi chính phủ nước đi vay phải giảm chi tiêu dịch vụ,
tư nhân hoá, giảm thuế nhập khẩu, giảm trợ cấp chính phủ. Điều này làm các
công ty nước ngoài dễ dàng kiểm soát nền kinh tế nước đi vay.
II-/ Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á.
1-/ Một số diễn biến.
Ngày 2/ 7/ 1997 sau khi tung ra gần 24 tỷ USD để giữ giá đồng Baht
nhưng không thành công, ngân hàng trung ương Thái Lan buộc phải tuyên bố
thả nổi đồng Baht mở đầu cho cuộc khủng hoảng tài chính châu á. Trong điều
kiện liên kết kinh tế giữa các nước ASEAN hiện nay khá chặt chẽ việc đồng
Baht giảm giá lập tức tác động đến đồng tiền các nước khác trong khu vực.
Cuộc khủng hoảng lan rộng sang Malaysia, Philippines rồi Indonesia và
Singapore sau đó lan tiếp sang Hàn Quốc, Nhật Bản, Hồng Kông và rồi cả
nước Nga gây nên những khủng hoảng trầm trọng trên thị trường tài chính
nước này, các đồng tiền nước này bị mất giá chóng mặt. Các nhà đầu tư nước
ngoài từ Âu Mỹ rút khỏi thị trường châu á nói chung và ASEAN nói riêng để
chuyển sang các khu vực khác có vẻ ổn định hơn (chu chuyển vốn vào các
nước đang phát triển ở châu á giảm hơn 60 tỷ USD và chỉ còn 40 tỷ USD trong
3
năm 1997). Cuộc khủng hoảng làm phá sản hàng vạn các công ty khắp châu á
trong đó có các tập đoàn lớn trong nhiều lĩnh vực như ngân hàng, điện tử và
công nghiệp. Các nước bị ảnh hưởng nặng bởi cuộc khủng hoảng hầu hết đều
có mức tăng trưởng âm và có tỷ lệ thất nghiệp cao. Đến 6/ 4/ 1998 IMF cho
rằng thời điểm tồi tệ nhất của cuộc khủng hoảng kinh tế ở châu á đã qua.
Nhưng cuộc khủng hoảng lại tiếp tục với nhiều diễn biến khó lường trước được

cuốn các quốc gia trong khu vực châu á vào những nỗ lực vượt bậc. Hội nghị
các thứ trưởng tài chính và thống đốc ngân hàng nhà nước nhóm G7 và 11
nước châu á - Thái Bình Dương tại Tôkyô thảo luận về việc ổn định đồng Yên
và ngăn chặn cuộc khủng hoảng tiền tệ lần thứ 2 tại khu vực và tìm cách khôi
phục nền kinh tế Nhật Bản đang thoái chưa từng có trong 23 năm.
Các dấu hiệu hồi phục kinh tế bắt đầu xuất hiện từ tháng 4/ 1999, chấm
dứt một thời gian dài mà chỉ nghe thấy tin tức về sự sụt giá của các đồng tiền,
tăng trưởng âm...Tại hôi nghị cấp cao ASEAN + 3 diễn ra ở Manila
(Philippines) các nhà lãnh đạo châu á tuyên bố cuộc khủng hoảng kinh tế đã
qua. Sự hồi phục diễn ra mạnh nhất ở Malaysia, Singapore, Hàn Quốc và Thái
Lan trong đó Hàn Quốc dẫn đầu với mức tăng GDP 9% so với mức âm 6%
năm 1998. Tốc độ tăng trưởng GDP của các quốc gia ASEAN năm 1999 đạt
3% so với âm 7,5% năm 1998. Đặc biệt là lòng tin của các nhà đầu tư vào châu
á tăng với số vốn đầu tư tăng nhanh.
2-/ Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng.
2.1. Nguyên nhân bên trong.
2.1.1. Thực hiện chế độ tỷ giá hối đoái không linh hoạt.
Nhiều nước mới nổi ở châu á đã gắn đồng tiền của mình với đồng đôla Mỹ
và đồng thời thực hiện chính sách nới lỏng việc kiểm soát trao đổi buôn bán
ngoại tệ bằng cách cho phép người dân trong nước thực hiện các khoản vay
bằng đồng USD Mỹ và người nước ngoài buôn bán đồng nội tệ khá tự do. Việc
thực hiện chế độ tỷ giá cố định và nới lỏng kiểm soát ngoại tệ này nhằm
4
khuyến khích kinh tế phát triển cao từ khía cạnh tài chính bằng cách khuyến
khích dòng chảy tư bản bên ngoài vào và tạo ra các cơ hội đầu tư nhiều hơn
cho các nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên dòng chảy tư bản lớn vào khu vực đã
tạo ra sự chênh lệch tỷ giá hối đoái. Việc giá các đồng nội tệ được định giá cao
hơn giá trị thực làm cho sức cạnh tranh của các nền kinh tế này bị suy giảm so
với các quốc gia khác đồng thời bị chịu các đợt đầu cơ vào dự đoán các đồng
tiền này sẽ bị giảm giá vào tương lai gần.

2.1.2. Dựa quá nhiều vào nợ - đặc biệt là nợ ngắn hạn.
Các nước Đông Nam á là những nước xuất khẩu lớn bao gồm cả hàng chế
tạo và có thể dễ dàng bù đắp cho nợ nước ngoài lớn. Tuy nhiên là chỉ có thu
nhập từ xuất khẩu thì chưa đủ để trả nợ đặc biệt là vào những năm đầu thập kỷ
90 xuất khẩu của các nước này gặp khó khăn do thị trường đã bão hoà sức cạnh
tranh giảm. Khi dự trữ ngoại tệ không đủ lớn để trả nợ gốc và lãi đến hạn thì
các nước này đã tuyên bố tình trạng khủng hoảng cần sự giúp đỡ quốc tế.
Nợ nước ngoài và dự trữ ngoại hối (đến cuối năm 1997)
Đơn vị: tỷ USD
Nước Tổng số nợ
Nợ ngắn hạn
(trong tổng số nợ)
Dự trữ
ngoại hối
Thái Lan 91,7 65 27,0
Indonesia 137,4 60 16,6
Hàn Quốc 154,4 70 20,4
Malaysia 44,1 55 21,7
2.1.3 Sự hình thành bong bóng kinh tế.
Trong nền kinh tế nội địa khu vực phi hàng hoá bao gồm các ngành bất
động sản và xây dựng đã dần trở nên có khả năng kiếm được nhiều lợi nhuận
so với khu vực kinh doanh hàng hoá cũng chính vì vậy mà các nguồn lực đã
được phân bổ nhiều hơn vào khu vực phi hàng hoá này. Trong thời kỳ này các
khoản đầu tư mới và trợ giúp về vốn thường tập trung vào lĩnh vực bất động
sản và các ngành phi kinh doanh hàng hoá khác. Trong khi đó sự yếu kém về
5
quản lý của các tổ chức tài chính và sự nơi lỏng trong kiểm tra và giám sát của
các tổ chức này đã góp phần vào sự phát triển quá mức của khu vực phi thương
mại. Kết quả là những khoản vốn được tập trung vào lĩnh vực không sinh lời đã
trở thành những khoản nợ khó đòi hoặc không thể đòi được. Tổng mức nợ khó

đòi của các nền kinh tế ASEAN đã lên tới 130 - 140% GDP. Khi đồng tiền bị
phá giá khu vực bất động sản bị sụp xuống thì bản cân đối của các công ty tài
chính các ngân hàng bị phơi ra, vỡ nợ lan nhanh.
2.1.4. Sự yếu kém của hệ thống tài chính ngân hàng.
Các ngân hàng thuộc các nước ASEAN đã chi và đầu tư mà không tính đến
khả năng cạnh tranh với nước ngoài đã đảm bảo và khích lệ các công ty trong
nước vay không cần giới hạn dùng các quan hệ “tín chấp” thay cho các quan hệ
thế chấp tài sản quá lạc quan khi đánh giá cao vai trò của các đồng nội tệ...chỗ
mạnh và đồng thời cũng là chỗ yếu của các nước Đông á là mối liên hệ giữa
chính quyền ngân hàng và doanh nghiệp. Mối liên kết chặt chẽ này nhằm vào
việc thực hiện các mục tiêu và đề án phát triển lớn lao do nhà nước đề ra. Chính
sự liên kết này làm cho các thể chế kiểm soát và đánh giá tài chính nhiều khi
không cần thiết hoặc trở nên mất hiệu lực, thông tin bị nhiễu hoặc không nhiều
thì chính quyền cũng bằng mọi cách vực dậy các doanh nghiệp trên đà phá sản.
Do hậu quả của những yếu kém đó các thể chế tài chính trong nước phải gánh
chịu những rủi ro lớn tập trung do đầu tư vào những bong bóng kiểu như bất
động sản và những rủi ro về lãi suất và tỷ giá hối đoái về mặt nghĩa vụ nợ.
2.2. Nguyên nhân bên ngoài.
2.2.1. Tự do hoá dòng chảy tư bản. Toàn cầu hoá gây khủng hoảng.
Di chuyển vốn quốc tế là một trong những nội dung cơ bản của các giao
dịch kinh tế quốc tế tạo nên sự lưu động các yếu tố sản xuất và các loại tiền
vốn trên thị trường thế giới. Từ những năm 80 xu thế toàn cầu hoá thị trường
tiền vốn quốc tế phát triển rất mạnh đã tăng cường ảnh hưởng của lưu động
tiền vốn quốc tế đối với tình hình kinh tế thế giới. Hơn nữa do tiền vốn ký hiệu
6
ngày càng phát triển đặc biệt loại tiền vốn ngắn hạn quốc tế được gọi là “vốn
lang thang” qúa lớn trong tổng số vốn lưu động trên thị trường thế giới đã làm
tăng tính biến động của nền kinh tế thế giới. Hiện nay có khoảng 1500 tỷ USD
được gọi là “vốn lang thang” trên thế giới hình thành lực lượng đầu cơ mạnh
dễ gây nên những biến động tài chính tiền tệ quốc tế. Sự xuất hiện tiền điện tử

tạo điều kiện làm cho tiền và hàng không còn giữ mối quan hệ đáng phải có,
dẫn đến rối loạn hệ thống tài chính tiền tệ. Các dòng chảy tư bản ngắn hạn đều
có đặc điểm chung là có thể biến dổi cả nền kinh tế tức là chúng tăng mạnh lên
khi nền kinh tế đang phát triển và rút đi nhanh chóng khi nền kinh tế có dấu
hiệu bất ổn.
2.2.2. Đầu cơ quốc tế.
Các đồng tiền của các nước trong khu vực Đông á đã chịu các đợt tấn
công của các nhà đầu cơ tài chính quốc tế làm đồng tiền mất giá liên tục kể cả
khi ngân hàng trung ương can thiệp lớn cộng với sự giúp đỡ quốc tế. Ngoài ra
còn có các tác động của một số thế lực tài chính phương Tây. Họ muốn làm
giảm giá đồng tiền các nước Đông á để một là nâng cao giá trị đồng USD để có
lợi về kinh tế cho nước giàu; hai là dễ bề thúc ép các nước này chuyển đổi cơ
cáu kinh tế và cả chính trị.
III-/ Các biện pháp khắc phục khủng hoảng của IMF.
ở các nước bị cuộc khủng hoảng hoành hành, tình trạng sụt giá tiền tệ
cũng như chứng khoán diễn ra mang tính chất dây chuyền nghiêm trọng và khó
chặn đứng. Người ta đổ xô đi mua USD Mỹ và các ngoại tệ mạnh trong khi các
nhà đầu tư hối hả chuyển vốn ra nước ngoài. Cho đến đầu năm 1998 cuộc
khủng hoảng đẩy lên cao tới cao trào hoảng loạn, kèm theo sự sụp đổ của tiền
tệ là sự rối loạn thị trường chứng khoán. Các nền kinh tế châu á chao đảo đặc
biệt nghiêm trọng tập trung vào 3 nước Hàn Quốc, Indonexia và Thái Lan.
chính phủ của các nước này lâm vào tình trạng thiếu hụt ngoại tệ nặng nề để
ngăn chặn quá trình phá giá và giải quyết nợ nước ngoài, trong khi đó nguồn
7
đầu tư từ nước ngoài không những giảm mạnh mà còn có xu hướng rút ra càng
làm tình hình thêm khó khăn. Đứng trước tình hình này một số quốc gia lâm
vào khủng hoảng đã đề nghị IMF trợ giúp.
Với mục đích là cung cấp cho các nước hội viên và tín dụng ngắn hạn và
trung hạn khi gặp khó khăn về tiền tệ do cán cân thanh toán thiếu hụt, IMF đã
lập ra các kế hoạch giúp những nước yêu cầu sự giúp đỡ, đồng thời còn để cứu

cả các bên tư nhân nước ngoài khỏi bị vỡ nợ nếu những nước này không được
IMF cấp tiền. Trong chương trình cứu giúp của mình IMF đã đề ra các mục
tiêu chính là : kiên quyết ngăn chặn việc trốn tránh thi hành các nghĩa vụ với
nước ngoài (hàm ý nghĩa trả nợ nước ngoài); khôi phục lại cân bằng tài chính
trong đó đảm bảo cân bằng ngân sách là quan trọng, kiềm chế lạm phát gia
tăng; tái lập và củng cố dự trữ ngoại hối; cải cách hệ thống ngân hàng nâng cao
hiệu quả hoạt động và độ tin cậy của hệ thống này; xoá bỏ độc quyền tiến hành
cải cách sâu rộng khu vực phi tài chính trong nước; khống chế sự suy giảm sản
lượng.
Để thực hiện các mục tiêu này, IMF cung cấp cho các nước thành viên
những khoản vay khổng lồ để hỗ trợ chương trình cải cách này. IMF phê duyệt
khoảng 26 tỷ SDR tương đương khoảng 36 tỷ USD trợ giúp các nước yêu cầu
hỗ trợ, khởi đầu việc huy động khoảng 77 tỷ USD tài chính bổ sung từ nguồn
đa phương và song phương để hỗ trợ cho các chương trình cải cách này. Sự trợ
giúp này giúp các quốc gia gặp khủng hoảng, tạm thời ngăn chặn việc xuống
giá tiếp tục của các đồng tiền và tái lập, củng cố dự trữ ngoại hối và quan trọng
là giúp thực hiện các nghĩa vụ quốc tế, giúp các nhà đầu tư nước ngoài nhận
được món nợ từ các bên tư nhân lẫn nhà nước ở các nước gặp khủng hoảng.
Bê cạnh việc trợ giúp tài chính, IMF giúp đỡ 3 quốc gia bị ảnh hưởng nhất
- Indonesia, Hàn Quốc và Thái Lan - giàn xếp các chương trình cải cách kinh tế
có khả năng phục hồi lòng tin và được IMF ủng hộ. Chương trình cải cách kinh
tế này nhằm xoá bỏ nguồn gốc của khó khăn thanh toán, ngăn chặn sự lan
truyền của khủng hoảng, khắc phục khủng hoảng và chuẩn bị nền tảng cho tăng
8

×