BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
KHOA PHÁP LUẬT KINH TẾ
BÀI TẬP HỌC KÌ
BỘ MÔN : LUẬT NGÂN HÀNG
ĐỀ SỐ 4 : Cách thức yêu cầu thực hiện nghĩa vụ bảo
lãnh trong bảo lãnh ngân hàng
HỌ VÀ TÊN: Lê Huy Khang
MSSV: KT 33E 005
Nhóm: KT 33E 1 – 1
Lớp: KT 33E
Khoa: Pháp luật kinh tế
HÀ NỘI 3 – 2011
Bảo lãnh là một dạng nghiệp vụ ngân hàng hiện đại, xuất hiện vào
những năm 60 của thế kỷ 20 trong thị trường nội địa nước Mỹ và đến những
năm 70 bắt đầu được sử dụng trong các giao dịch thương mại quốc tế. Kể từ
đó đên nay, với khả năng ứng dụng rộng rãi trong các loại giao dịch (tài
chính, phi tài chính, thương mại, phi thương mại), vị trí bảo lãnh ngân hàng
ngày càng được củng cố một cách chắc chắn ở trong nước và quốc tế, doanh
số bảo lãnh của các ngân hàng trên thế giới gia tăng nhanh chóng.
ở Việt Nam, khi nền kinh tế bắt đầu hội nhập (đầu năm 90), các hoạt
động của ngân hàng cũng đa dạng hơn, trong đó nghiệp vụ bảo lãnh và tái
bảo lãnh cũng ra đời và phát triển. Để tạo điều kiện cho hoạt động bảo lãnh
ngân hàng phát triển, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ban hành các văn
bản pháp lý cho hoạt động này như: QĐ 192/NH-QĐ (17/91992) về bảo
lãnh và tái bảo lãnh vay vốn nước ngoài, QĐ 196/NH14 (16/91994) về quy
chế nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng, QĐ 283/2000/QĐ-NHNN14 (25/8/2000)
về quy chế bảo lãnh ngân hàng để thay thế các văn bản trước đây.
Nội Dung
I. Tổng quan về hoạt động bảo lãnh ngân hàng
1. khái niệm bảo lãnh ngân hàng.
Trong pháp luật dân sự ở nước ta, khái niệm bảo lãnh được nêu trong điều
366 của Bộ luật dân sự: “ Bảo lãnh là việc người thứ ba (người bảo lãnh )
cam kết với bên có quyền (người nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay
cho bên có nghiã vụ (người được bảo lãnh), nếu khi đến hạn mà người được
bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ….”
Trong pháp lệnh hợp đồng kinh tế: “Bảo lãnh tài sản là sự bảo đảm bằng tài
sản thuộc quyền sở hữu của người nhận bảo lãnh để chịu trách nhiệm tài sản
thay cho người được bảo lãnh khi người này vi phạm hợp đồng kinh tế đã ký
kết….” Từ đó khái niệm chung về bảo lãnh được xác định như sau:
“Bảo lãnh là sự cam kết của người nhận bảo lãnh sẽ thực hiện đầy đủ các
nghĩa vụ và quyền lợi nếu người xin bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng với bên yêu cầu bảo lãnh”
Theo khoản 12, điều 20, Luật các tổ chức tín dụng thì bảo lãnh Ngân hàng là
cam kết bằng văn bản của tổ chức tín dụng với bên có quyền về việc thực hiện
nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện đúng
nghĩa vụ đã cam kết; khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín
dụng số tiền đã được trả thay.
Như vậy một giao dịch bảo lãnh Ngân hàng bao giờ cũng liên quan đến 3
bên: Ngân hàng bên bảo lãnh, bên được bảo lãnh, và bên thụ hưởng. Quan
hệ giữa các bên được quy định bởi các hợp đồng khác nhau, độc lập với
nhau. Ngân hàng bên bảo lãnh dùng uy tín của mình để đứng ra cam kết thực
hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh trong trường hợp bên được bảo
lãnh không thực hiện nghĩa vụ của mình
Bên được bảo lãnh : là các khách hàng của Ngân hàng được Ngân hàng cam
kết thực hiện thay nghĩa vụ khi vi phạm hợp đồng với đối tác của mình.
Bên nhận bảo lãnh : Là người thụ hưởng bảo lãnh khi bên được bảo lãnh vi
phạm hợp đồng, thì bên nhận bảo lãnh sẽ được Ngân hàng thanh toán khi có
yêu cầu
Bảo lãnh ngân hàng có một số đặc tính hết sức quan trọng đó là tính độc lập
với hợp đồng. Mặc dù mục đích của bảo lãnh ngân hàng là bồi hoàn cho
người thụ hưởng những thiệt hại từ việc không thực hiện hợp đồng của
người được bảo lãnh trong quan hệ hợp đồng nhưng việc thanh toán một bảo
lãnh chỉ hoàn toàn căn cứ vào các điều khoản và các điều kiện như được quy
định trong thư bảo lãnh và ngân hàng không thể dựa vào những quyền kháng
nghị có được từ quan hệ hợp đồng. Như vậy, một khi các điều khoản và điều
kiện của bảo lãnh được đáp ứng thì về mặt pháp lý, người thụ hưởng có
quyền yêu cầu thanh toán tiền mà không cần thiết phải chứng minh các vi
phạm của người được bảo lãnh mà chỉ cần lập chứng từ như yêu cầu của bảo
lãnh. Tuy nhiên, tính độc lập của bảo lãnh là phụ thuộc vào chính các điều
kiện của bảo lãnh. Nếu bảo lãnh quy định việc thanh toán là theo văn bản
yêu cầu của người thụ hưởng thì người thụ hưởng có quyền yêu cầu thanh
toán mà không cần một điều kiện nào, ngân hàng phát hành phải thanh toán
và người được bảo lãnh sẽ bồi hoàn lại cho ngân hàng phát hành. Mặt khác,
bảo lãnh yêu cầu một chứng từ như: Phán quyết của toà án, một quyết định
của trọng tài, văn bản của bên thứ ba xác nhận sự vi phạm của người được
bảo lãnh hay văn bản của người được bảo lãnh hay văn bản của người được
bảo lãnh thừa nhận sự vi phạm của mình thì tính độc lập của bảo lãnh ít
nhiều bị giảm đi. Tính độc lập còn thể hiện ở trách nhiệm thanh toán của
ngân hàng phát hành. Trách nhiệm này hoàn toàn độc lập với mối quan hệ
giữa ngân hàngphát hành với người được bảo lãnh. Nếu như chứng từ hoàn
toàn phù hợp thì ngân hàng không thể từ chối thanh toán vì bất cứ lý do gì
nảy sinh trong quan hệ giữa họ và người được bảo lãnh, những lý do như:
Người được bảo lãnh phá sản, người được bảo lãnh vẫn còn nợ ngân hàng…
2. Chủ thể trong hoạt động bảo lãnh ngân hàng
Khi ngân hàng ( bên bảo lãnh ) thực hiện bảo lãnh thì các quan hệ sau đây
phát sinh:
- Thứ nhất, quan hệ giữa ngân hàng với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh).
- Thứ hai, quan hệ dịch vụ bảo lãnh giữa tổ chức tín dụng với khách hàng
(bên có nghĩa vụ với bên nhận bảo lãnh) phát sinh do thoả thuận giữa các
bên trong việc tổ chức tín dụng sẽ thực hiện nghĩa vụ thay khách hàng và
nghĩa vụ hoàn trả của khách hàng với tổ chức tín dụng.
* Bên bảo lãnh
Theo điều 58, Luật các tổ chức tín dụng, bên bảo lãnh tổ chức tín dụng có đủ
những điều kiện theo luật định, bao gồm:
- Ngân hàng thương mại quốc doanh
- Ngân hàng thương mại cổ phần
- Ngân hàng liên doanh
- Chi nhánh Ngân hàng nước ngoài
- Ngân hàng đầu tư phát triển và một số tổ chức tín dụng khác được
Ngân hàng Nhà nước cho phép thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh đối với
khách hàng.
Ngoài ra, trong trường hợp đặc biệt, Ngân hàng Nhà nước có thể tham gia
với tư cách là người bảo lãnh khi được Chính phủ chỉ định.
Xét về điều kiện chủ thể, một tổ chức tín dụng chỉ được quyền thực hiện
nghiệp vụ bảo lãnh đối với khách hàng khi thỏa mãn các điều kiện sau đây:
- Có tư cách pháp nhân và có người đại diện hợp pháp. Trong nghiệp
vụ bảo lãnh, người đại diện hợp pháp cho tổ chức tín dụng bảo lãnh chỉ có
thể là Tổng giám đốc, Giám đốc (đại diện đương nhiên) hoặc Phó tổng giám
đốc, Phó giám đốc (đại diện theo uỷ quyền). Riêng người được uỷ quyền, về
nguyên tắc không được uỷ quyền lại cho người khác;
- Được Ngân hàng Nhà nước cho phép thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh
đốí với khách hàng (điều kiện này thường được ghi rõ trong giấy phép thành
lập và hoạt động của tổ chức tín dụng do Ngân hàng Nhà nước cấp).
* Bên được bảo lãnh
Theo qui định của pháp luật, không phải mọi tổ chức, cá nhân đều có thể
được các tổ chức tín dụng bảo lãnh. Căn cứ vào các điều khoản của Qui chế
về nghiệp vụ bảo lãnh của các tổ chức tín dụng, những điều kiện đó bao
gồm:
- Là doanh nghiệp hoặc cá nhân được thành lập và hoạt động hợp
pháp tại Việt Nam (bao gồm cả các doanh nghiệp tín dụng), có đủ
năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự;
- Có các giâý tờ tài liệu chứng minh nghĩa vụ cần được bảo lãnh;
- Có đủ uy tín đối với tổ chức tín dụng trên cơ sở các tài sản đem cầm
cố, thế chấp và tình hình tài chính lành mạnh ở thời điểm xin bảo
lãnh.
Sau khi xem xét các điều kiện trên đây, việc chấp nhận bảo lãnh hay không
là quyền của các tổ chức tín dụng.
*Bên nhận bảo lãnh
Theo các qui định hiện hành ở Việt Nam, bên nhận bảo lãnh trong
nghiệp vụ bảo lãnh Ngân hàng được hiểu là người có quyền thụ hưởng một
món nợ do người được bảo lãnh thanh toán từ một nghĩa vụ trong các hợp
đồng (chẳng hạn, hợp đồng về xây dựng cơ bản, hợp đồng tín dụng...) hay
các nghĩa vụ thanh toán ngoài hợp đồng (chẳng hạn, nghĩa vụ nộp thuế,
nghĩa vụ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng...).
Ví dụ :
- Trong bảo lãnh dự thầu xây lắp và cung ứng máy móc thiết bị; bảo
lãnh thực hiện nghĩa vụ của nhà thầu theo hợp đồng xây lắp và cung ứng
máy móc thiết bị; bảo lãnh trách nhiệm bồi thường thiệt hại về chất lượng
sản phẩm trong xây lắp thì bên nhận bảo lãnh chính là chủ thầu;
- Trong bảo lãnh thanh toán tiền xây lắp công trình hay lắp đặt máy
móc thiết bị, bên nhận bảo lãnh chính là nhà thầu;
- Trong bảo lãnh hợp đồng tín dụng, bên nhận bảo lãnh chính là người
cho vay (tổ chức tín dụng)...
Khi tham gia hợp đồng bảo lãnh với các tổ chức tín dụng, bên nhận bảo lãnh
phải thoả mãn những điều kiện chủ thể do pháp luật qui định nhằm góp phần
đảm bảo sự hữu hiệu của hợp đồng. Các điều kiện đó bao gồm:
- Có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự. Đối với người bảo
lãnh là một tổ chức thì tổ chức đó phải có người đại diện hợp pháp có đủ
năng lực và thẩm quyền;
- Có các giấy tờ, tài liệu hay bằng chứng khác chứng minh quyền chủ
nợ trong một nghĩa vụ cần được bảo đảm.
3. Hình thức, nội dung của hoạt động bảo lãnh ngân hàng
Về phương diện hình thức, pháp luật qui định việc bảo lãnh của tổ chức tín
dụng đối với khách hàng phải được lập bằng văn bản. Trong giao dịch bảo
lãnh của tổ chức tín dụng, có hai loại văn bản do các bên lập ra là dơn đề
nghị bảo lãnh và văn bản bảo lãnh.
- Đơn đề nghị bảo lãnh do tổ chức, cá nhân có nhu cầu được bảo lãnh
lập theo mẫu qui định và có ý kiến chấp thuận bảo lãnh của tổ chức tín dụng
được lựa chọn (việc chấp thuận phải được thể hiện bằng chữ kí tay của
người đại diện của tổ chức tín dụng và có đóng dấu của tổ chức tín dụng).
Có thể xem loại văn bản nói trên chính là hình thức của hợp đồng
dịch vụ bảo lãnh được kí kết giữa tổ chức tín dụng bảo lãnh với khách
hàng (người được bảo lãnh);