Tải bản đầy đủ (.doc) (84 trang)

Chấm điểm tín dụng các doanh nghiệp tại Ngân hàng ngoại thương Việt Nam.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (453.81 KB, 84 trang )

Sinh viên: Vũ Thị Hồng Hà Lớp: Ngân hàng 44B
Lời mở đầu
Ngay từ khi ra đời, Ngân hàng thương mại đã luôn chứng tỏ vai trò
quan trọng của nó trên lĩnh vực tiền tệ với nội dung hoạt động chủ yếu là
nhận gửi và cho vay. Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường, khi đồng
vốn được coi là một trong những điều kiện tiên quyết thì nhu cầu về vốn
tín dụng càng cao hơn bao giờ hết.
Công cuộc Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá do Đảng khởi xướng,
nhằm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp vào năm 2020,
tránh nguy cơ tụt hậu ngày càng xa với các nước khác. Trong khi nền
kinh tế còn trong tình trạng lạc hậu, muốn phát triển nhanh, đón đầu công
nghệ, chúng ta cần đầu tư theo chiều sâu, với lượng vốn lớn để thay đổi
máy móc, thiết bị và công nghệ.
Vốn để đầu tư được hình thành từ nhiều nguồn. Với quan điểm
phát huy nội lực thông qua các nguồn trong nước như nguồn từ ngân
sách, dân chúng, các tổ chức trung gian tài chính… trong điều kiện đất
nước còn nghèo, tổng sản phẩm quốc dân (GDP) còn thấp, môi trường
đầu tư còn nhiều hạn chế thì nguồn vốn tín dụng từ các NHTM được coi
là quan trọng nhất.
Muốn đầu tư mang lại hiệu quả cả phương diện vi mô và vĩ mô,
nghĩa là vừa giúp nền kinh tế phát triển, vừa mang lại lợi nhuận cho Ngân
hàng, chúng ta cần có hoạt động tín dụng nói chung, hoạt động tín dụng
trung dài hạn nói riêng, có chất lượng cao. Trên tinh thần đó, em chọn đề
tài:”Chấm điểm tín dụng các doanh nghiệp tại Ngân hàng ngoại
thương Việt Nam”
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
1
Sinh viên: Vũ Thị Hồng Hà Lớp: Ngân hàng 44B
Chương 1/ Tổng quan về phương pháp chấm điểm tín
dụng tại Ngân hàng thương mại(NHTM).
1.1/Sự cần thiết phải chấm điểm tín dụng.


Ngân hàng thương mại(NHTM) là định chế tài chính đóng vai trò
then chốt trong bất kỳ một nền kinh tế nào và cũng là kênh huy động vốn
quan trọng của mọi thành phần tham gia kinh doanh. Để thực hiện được
vai trò của mình, NHTM phải đối mặt với rất nhiều rủi ro trong quá trình
hoạt động như rủi ro về lãi suất, rủi ro về ngoại hối , rủi ro thanh khoản
.v.v. và đặc biệt là rủi ro tín dụng. Rủi ro tín dụng là khách hàng không trả
được đầy đủ cả gốc và lãi của khoản vay, hoặc là việc thanh toán nợ gốc
và lãi không đúng hạn. Rủi ro này xảy ra do một số lý do như :
- Các yếu tố khách quan từ bên ngoài : Thiên tai lũ lụt , động đất ,
cháy nổ. … Các nguyên nhân này nằm ngoài tầm kiểm soát của cả
ngân hàng và khách hàng.
- Lý do từ phía khách hàng: có thể do khả năng quản lý vốn không
tốt của khách hàng dẫn đến hậu quả công ty phá sản , hoặc do đối
tác của khách hàng không trung thực trong kinh doanh v.v.
- Lý do từ phía ngân hàng: do nhân viên tín dụng trình độ yếu kém
không phân tích kỹ lưỡng tình hình khách hàng trước khi quyết
định cho vay, hoặc do nhân viên tín ngân hàng móc ngoặc với
khách hàng để rút vốn của ngân hàng .v.v.
Vì vậy việc xây dựng những chỉ số tổng hợp về độ rủi ro của những
khoản tín dụng để làm cơ sở cho việc hướng dẫn quá trình tạo các khoản
vay mới , báo cáo , giám sát và quản lý rủi ro , phân tích tính đầy đủ vốn
dự trữ cho tổn thất tín dụng, phân tích khả năng sinh lời và định giá tín
dụng là hết sức cần thiết. Các chỉ số này sẽ giúp các NHTM hướng tới
lượng hoá rủi ro tín dụng từ đó nâng cao hơn khả năng quản lý, hiệu quả
sử dụng và phân bổ vốn của mình. Chính vì ưu điểm vượt trội đó, chấm
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
2
Sinh viên: Vũ Thị Hồng Hà Lớp: Ngân hàng 44B
điểm tín dụng và xếp hạng doanh nghiệp đã tự khẳng định tầm quan trong
của mình trong quy trình thẩm định tín dụng. Tại các nước phát triển và

nhiều nước trong khu vực, CĐTD từ lâu đã trở thành một yếu tố thiết yếu
mang tính “truyền thống” trong việc đánh giá rủi ro tín dụng và duy trì kỷ
luật ngân hàng.
1.2/ Khái niệm và mục đích của chấm điểm tín dụng.
1.2.1/ Khái niệm.
CĐTD là một phương thức để đánh giá rủi ro của những đối tượng
đi vay. Theo đó ngân hàng sử dụng phương pháp thông kê, nghiên cứu
dữ liệu để đánh giá rủi ro của người vay. Phương pháp này đưa ra “điểm”
mà ngân hàng có thể sử dụng để xếp loại những người xin vay xét về độ
mạo hiểm. Để tạo dựng một hình mẫu chấm điểm, hay một “bảng điểm”,
thì những nhà kinh tế phân tích những dữ liệu trong quá khứ về sự thực
hiện các khoản vay trước đó để quyết định những đặc điểm của những
người đi vay nào là hữu ích trong việc phỏng đoán xem liệu khoản vay đó
có phát huy tốt tác dụng không. Một hình mẫu được thiết kế tốt sẽ đưa ra
tỷ lệ điểm cao nhiều hơn cho những người đi vay có khả năng sử dụng
vốn vay hiệu quả và ngược lại, tỷ lệ phần trăm điểm thấp nhiều hơn cho
những người đi vay mà những khoản vay ít phát huy tác dụng. Nhưng
không có hình mẫu nào là hoàn hảo, cho nên đôi khi có những đối tác
không tốt lại nhận được điểm cao hơn. Thông tin của những người đi vay
được thu nhận từ những bản đăng ký và từ bưu cục tín dụng những dữ
liệu như thu nhập hàng tháng của doanh nghiệp đi vay, khoản nợ đọng, tài
sản tài chính, khoản thời gian mà doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực
kinh doanh của mình, liệu doanh nghiệp đã từng phạm lỗi trong một
khoản vay trước đó hay không, liệu và loại tài khoản ngân hàng mà doanh
nghiệp đi vay có là tất cả những yếu tố tiềm năng có khả năng đánh giá
được khoản vay mà có thể được sử dụng trong bảng điểm. Phân tích tổng
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
3
Sinh viên: Vũ Thị Hồng Hà Lớp: Ngân hàng 44B
hợp liên quan đến khoản vay từ những biến số ở trên được sử dụng để tìm

ra sự kết hợp của những nhân tố, đoán biết trước được những rủi ro,
những nhân tố nào cần được chú trọng nhiều hơn. Dù có được sự tương
quan giữa những nhân tố này, nhưng sẽ vẫn có một số nhân tố không đưa
đến hình mẫu cuối cùng vì nó có ít giá trị so sánh với những biến sô khác
trong hình mẫu. Trên thực tế theo công ty Issac and Company,Inc., người
dẫn đầu trong việc phát triển hình mẫu chấm điểm này, 50 – 60 biến số có
thể được xem xét khi phát triển hình mẫu thông thường, nhưng chỉ 8 - 12
có thể đưa đến bảng điểm có thể phỏng đoán tốt nhất. Anthony Sauder,
một nhà kinh tế học của Mỹ sử dụng 48 nhân tố để đánh giá xác suất lỗi
tín dụng trong phần lớn (nhưng không phải tất cả) các hệ thống chấm
điểm, điểm cao hơn ám chỉ ít rủi ro hơn, ngân hàng cho vay sẽ đặt điểm
sàn dựa trên tỉ lệ mạo hiểm mà ngân hàng đó sẵn sàng chấp nhận. Hoàn
toàn tuân thủ theo hình mẫu đó, ngân hàng cho vay sẽ chấp nhận cho vay
với những doanh nghiệp có điểm trên điểm sàn, và từ chối những doanh
nghiệp dưới điểm sàn. Mặc dù có nhiều ngân hàng có thể xem xét kỹ hơn
hồ sơ của những người gần điểm sàn trước khi đưa ra quyết định cuối
cùng.
Kể cả một hệ thống chấm điểm tốt cũng không dự đoán chắc chắn
khả năng hoàn trả vốn vay của doanh nghiệp nhưng nó cũng đưa ra được
những dự đoán khá chính xác về sai sót mà một doanh nghiệp đi vay với
những đặc điểm nhất định có thể mắc phải. Để xây dựng một hình mẫu
tốt, những người xây dựng phải có dữ liệu chính xác phản ánh khoản vay
trong cả giai đoạn, trong điều kiện kinh tế tốt và xấu.
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
4
Sinh viên: Vũ Thị Hồng Hà Lớp: Ngân hàng 44B
1.2.2/ Mục đích vai trò của chấm điểm tín dụng.
1.2.2.1 Rủi ro tín dụng , xuất phát điểm của chấm điểm tín
dụng.
Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra những tổn thất mà ngân hàng

phải chịu do khách hàng vay không trả đúng hạn, không trả hoặc không
trả đầy đủ vốn và lãi. Rủi ro này luôn tiềm ẩn và là một tất yếu trong hoạt
động của bất kỳ ngân hàng nào. Các ngân hàng sẽ đặt ra cho mình một
chiến lược quản lý nợ và nếu tỷ lệ tổn thất tín dụng đạt dưới mức dự kiến
của ngân hàng thì đó được coi là một thành công. Để giảm thiểu tổn thất
này , chúng ta cần đi sâu phân tích để tìm ra chiến lược tối thiểu hoá rủi ro
tín dụng.
Rủi ro tín dụng của một khoản vay trong một thời kỳ bao gồm xác
suất vỡ nợ (XSVN) và phần giá trị của khoản vay có thể bị mất nếu
người vay vỡ nợ( GTBM). GTBM của một khoản vay tín dụng phụ thuộc
vào cơ cấu của khoản vay đó , còn XSVN thường phụ thuộc vào người
vay và các ngân hàng thường giả định rằng một con nợ sẽ không trả được
tất cả các khoản nợ của mình nếu người này không trả được khoản nợ
trước đó. Mức tổn thất dự tính (TTDT) bằng tích của XSVN và GTBM
của một khoản vay.
Trong một cuộc nghiên cứu của Ngân hàng Trung ương Australia
được khảo sát đều sử dụng hệ thống xếp hạng theo hai tiêu chi riêng biệt:
một mức xếp hạng phản ánh XSVN, một mức xếp hạng phản ánh GTBM
và một mức xếp hạng tổng hợp phản ánh TTDT. Còn theo một cuộc khảo
sát đối với 50 ngân hàng lớn của Mỹ ( Treasy & Carey, 1998), có khoảng
60% có hệ thống xếp hạng theo một tiêu chí, tức là các ngân hàng này xếp
hạng theo khoản vay(GTBM). Trên thực tế , các ngân hàng nhỏ hơn
thường sử dụng hệthống xếp hạng theo phương thức này. Còn 40% có hệ
thống xếp hạng theo hai tiêu chí, trong đó một mức xếp hạng phản ánh
XSVNcủa người vay và một mức phản ánh TTDT của các khoản vay.
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
5
Sinh viên: Vũ Thị Hồng Hà Lớp: Ngân hàng 44B
Những ngân hàng có hệ thống này thường xác định thứ hạng của người
vay trước, sau đó xác định một mức GTBM chuẩn hoặc bình quân. Tuy

nhiên, cũng có những khoản tín dụng mà GTBM của chúng cao hơn hoặc
thấp hơn mức bình quân do những đặc điểm riêng biệt của từng khoản tín
dụng đó. Các thứ hạng phản ánh GTBM của các khoản vay khác nhau
được cấp cho cùng một người vay có thể khác nhau dựa vào những sự
khác biệt về tài sản thế chấp, mức độ ưu tiên hay những đặc điểm khác
nhau mang tính cơ cấu của khoản vay.
Nói chung hệ thống xếp hạng hai chỉ tiêu tốt hơn so với hệ thống
một tiêu chi bởi vì bằng cách riêng rẽ XSVN và GTBM hệ thống hai tiêu
chí có thể :
- Nâng cao hiệu quả truyền đạt thông tin về rủi ro.
- Giảm bớt xu hướng xếp hạng chủ yếu dựa vào tài sản đảm bảo.
- Thúc đẩy sự phát triển của các công cụ xếp hạng để hỗ trợ trong
quá trình xếp hạng rủi ro.
- Phù hợp hơn với các kỹ thuật phân bổ vốn, dự phòng và định giá
tín dụng dựa vào rủi ro sẽ được phát triển sau này.
- Tăng sự tương thích giữa mức xếp hạng nội bộ và mức xếp hạng
bên ngoài.
Tóm lại hệ thống này có thể tăng tính chính xác và tính thống nhất
trong việc xếp hạng thông qua việc ghi nhận một cách riêng biệt các đánh
giá của ngân hàng về xác suất vỡ nợ và giá trị dự tính bị mất khi xảy ra
rủi ro.
Kết quả của quá trình chấm điểm được sử dụng để hỗ trợ
ngân hàng trong các hoạt động:
- Xác định giới hạn tín dụng cho từng khách hàng. Đây là mức rủi ro
tối đa mà ngân hàng có thể chấp nhận trong từng loại hoạt động tín
dụng hay từng loại nghiệp vụ giao dịch với khách hàng.
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
6
Sinh viên: Vũ Thị Hồng Hà Lớp: Ngân hàng 44B
- Quyết định cấp tín dụng: từ chối hay đồng ý, thời hạn và mức lãi

suất cho vay, và xác định yêu cầu về tài sản đảm bảo.
- Đánh giá hiện trạng khách hàng trong khi khoản tín dụng chưa
được hoàn trả hết. Những đánh giá này cho phép ngân hàng dự
đoán những rủi ro có thể xảy ra đối với khoản vay và chủ động
trong quản lý danh mục tín dụng từ đó trích dự phòng rủi ro.
- Làm cơ sở để xây dựng chính sách khách hàng ( ví dụ : chính sách
về giá cả, chiến lược marketing nhằm vào khách hàng có ít rủi ro
hơn)
Tóm lại mục đích cuối cùng của chấm điểm tín dụng là nâng cao
chất lượng và hiệu quả của hoạt động tín dụng.
Xếp hạng doanh nghiệp là một đòi hỏi tất yếu khách quan
tronghoạt động kinh tế của bất kỳ quốc gia nào trên thế giới. Kết quả của
hoạt động xếp hạng doanh nghiệp phục vụ không chỉ co một cá nhân, tổ
chức mà còn tác động đến rất nhiều chủ thể khác nhau, có quan hệ kinh
doanh hay tín dụng với doanh nghiệp. Xét đến cùng , mục đích cơ bản ,
quan trọng hàng đầu của xếp hạng doanh nghiệp là đưa ra được thứ hạng
của doanh nghiệp dựa trên việc chấm điểm các chỉ tiêu có sẵn để từ đó
đưa ra các kết luận, nhận xét về doanh nghiệp và ra các quyết định chính
xác, kịp thời. Khi công tác xếp hạng doanh nghiệp đạt được những mục
đích đặt ra, nó sẽ tác động tích cực đến doanh nghiệp và các chủ thể liên
quan, đồng thời tăng tính ổn định cho nền kinh tế. Rõ ràng, xếp hạng
doanh nghiệp đang đóng một vai trò to lớn đối với các chủ thể trong nền
kinh tế, quyết định đến việc ra quyết định kinh doanh và đầu tư , và đối
với mỗi chủ thể khác nhau, vai trò này lại được thể hiện trên những khía
cạnh riêng khác biệt.
1.2.2.2/ Vai trò của CĐTD đối với chính bản thân doanh nghiệp .
Công tác xếp hạng doanh nghiệp có một ý nghĩa vô cùng quan
trọng đối với hoạt động của doanh nghiệp. Là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
7

Sinh viên: Vũ Thị Hồng Hà Lớp: Ngân hàng 44B
tình hình sản xuất kinh doanh cũng như tiềm năng phát triển của doanh
nghiệp, kết quả xếp hạng doanh nghiệp đóng vai trò như một thước đo
chính xácvà bao quát nhất, phả ánh “sức khoẻ”trong kinh doanh của
doanh nghiệp. Dựa vào kết quả xếp hạng này, doanh nghiệp có thể đánh
giá được tổng quan tình hình kinh doanh của mình, tìm ra những điểm
mạnh, điểm yếu , từ đó đề ra những biện pháp phương hướng trong tương
lai nhằm mục đích khắc phục những thiếu sót hoặc phát triển hơn nữa
hoạt động của doanh nghiệp. Đây cũng là cơ sở để ban giám đốc đưa ra
các quyết định, chiến lược phát triển doanh nghiệp sao cho phù hợp nhất
với tình hình thực tế và khả năng của doanh nghiệp. Mặt khác, xếp hạng
doanh nghiệp cũng là nhân tố quan trọng tác động đến hiệu quả sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp được xếp hạng tín nhiệm
cao, họ sẽ có được những ưu thế to lớn( mở rộng và ổn định thị trường,
giảm chi phí lãi vay…) đồng thời nâng cao uy tín của mình, củng cố và
xây dựng thương hiệu. Ngược lại, nếu doanh nghiệp bị xếp hạng tín
nhiệm thấp, họ chác chắn sẽ phải chịu những ảnh hưởng theo chiều hướng
xấu, làm giảm uy tín trên thị trường và trở nên khó khăn hơn trong việc
tiếp cận các nguồn vốn. Xuất phát từ những lợi thế và những bất lợi này ,
xếp hạng doanh nghiệp sẽ tạo ra một sức ép tích cực buộc các doanh
nghiệp phải tìm được các biện pháp để đẩy mạnh sản xuất kinh doanh ,
nâng cao hiệu quả quản lý và điều hành, củng cố vị thế thứ hạng của
doanh nghiệp mình, từ đó mà đứng vững trong môi trường cạnh tranh
khốc liệt. Bên cạnh đó, công tác xếp hạng doanh nghiệp sẽ giúp cho các
doanh nghiệp có khả năng tiếp cận nguồn vốn một cách dễ dàng hơn do
hạn chế được tâm lý e ngại của người cho vay, từ đó mà mở rộng hơn nữa
hoạt động kinh doanh sản xuất.
1.2.2.3/ Vai trò đối với nhà đầu tư:
Trước khi quyết định đầu tư vào một doanh nghiệp, mọi nhà đầu tư
phải nghiên cứu, xem xét tình hình hoạt động kinh doanh của doanh

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
8
Sinh viên: Vũ Thị Hồng Hà Lớp: Ngân hàng 44B
nghiệp trong quá khứ và hiện tại dựa trên các tài liệu thu thập đuợc để từ
đó dự đoán được tình hình hoạt động của doanh nghiệp, khả năng thu hồi
vốn gốc, lãi trong thời gian tới. Tuy nhiên, các tài liệu mà các nhà đầu tư
có được thường là rất phức tạp, một nhà đầu tư thông thường thì không
thể đủ khả năng để tiến hành tổng hợp, phân tích được hoặc nếu có phân
tích thì cũng mất nhiều thời gian do đó có thể khi phân tích , xếp hạng
doanh nghiệp xong thì cơ hội đầu tư cũng không còn.
Do vậy việc có sẳn một bảng các chỉ tiêu đánh giá khả năng trả nợ
của doanh nghiệp hoặc kết quả của côngtác xếp hạng doanh nghiệp là cực
kỳ hữu ích đối với các nhà đầu tư . Như vậy khi có bảng các chỉ tiêu xếp
hạng doanh nghiệp hoặc thứ hạng của doanh nghiệp, nhà đầu tư có thể
biết ngay mức độ rủi ro của khoản đầu tư, đây là căn cứ để nhà đầu tư ra
các quyết định đầu tư đúng. Với tư cách là nhà đầu tu, các TCTD cũng sử
dụng xếp hạng doanh nghiệp làm cơ sở cho việc đánh giá rủi ro tronghoạt
động cho vay, là nhân tố quan trọng trong quyết định cho vay. Bên cạnh
đó xếp hạng doanh nghiệp còn là cơ sở để các nhà đầu tư quản lý danh
mục đầu tư. Điều này thực sự có ý nghĩa ở các nước có hoạt động xếp
hạng doanh nghiệp phát triển. Thực vậy, đối với các nước này, việc biết
được một doanh nghiệp đang ở mức độ nào là khá dễ dàng nên sự thay
đổi thứ hạng của doanh nghiệp có ảnh hưởng đến giá trị của doanh
nghiệp( thể hiện thông qua sự lên xuống giá cổ phiếu ). Các nhà đầu tư
dựa vào sự thay đổi này để thay đổi danh mục đầu tư nhằm thu được lợi
nhuận tối đa mà vẫn đảm bảo được mức độ an toàn nhất định.
Các trung gian tài chính là những nhà đầu tư lớn gồm có các tổ
chức chuyên thực hiện bảo lãnh và giao dịch chứng khoán như ngân hàng,
công ty chứng khoán, công ty bảo hiểm…
Do có mối quan hệ thanh toán, tín dụng đối với các doanh nghiệp ,

các trung gian tài chính cũng rất quan tâm đến côngtác xếp hạng doanh
nghiệp bởi kết quả của quá trình này sẽ là cơ sở cho các trung gian tài
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
9
Sinh viên: Vũ Thị Hồng Hà Lớp: Ngân hàng 44B
chính đưa ra các quyết định liên quan đến việc cung cấp tín dụng cho
doanh nghiệp. Không một trung gian nào khi xem xét quyết định cho vay
của mình lại không quan tâm đến tình hình kinh doanh của doanh nghiệp
mà thứ hạng của doanh nghiệp chính là một chỉ tiêu tổng hợp phản ánh
đầy đủ và chính xác nhất . Việc xem xét chỉ tiêu xếp hạng này cho phép
các trung gian tài chính tránh được các sai lầm trong các quyết định của
mình, đó là các quyết định liên quan đến việc cấp tín dụng , thực hiện bảo
lãnh của ngân hàng (đặc biêt là bảo lãnh hoàn trả vốn )…
Bên cạnh đó , thứ hạng của các doanh nghiệp cũng là cơ sở để các
trung gian tài chính dự đoán khả năng tăng giá hoặc giảm giá của các
chứngkhoán do doanh nghiệp phát hành từ đó ra các quyết định đầu tư
hoặc thực hiện dịch vụ tư vấn cho khách hàng của mình. Ví dụ như, đối
với các nhà đầu tư không thích rủi ro sẽ nhận được lời khuyên nên mua
các giấy tờ có giá do các doanh nghiệp có thứ hạng cao trong bảng xếp
hạng doanh nghiệp phát hành và ngược lại. Hay khi thứ hạng cảu một
doanh nghiệp bị giảm sút các nhà đầu tư sẽ nhận được lời khuyên nên bán
các công cụ của doanh nghiệp trước khi giá của chúng giảm sút.
Như vậy, xếp hạng doanh nghiệp có vai trò vô cũng quan trọng, tác
động trực tiếp đến tính ổn định, an toàn và sinh lời trong hoạt động của
trung gian tài chính.
1.3/ Mô hình nghiên cứu về chấm điểm và xếp hạng tín dụng
Một hệ thống chấm điểm tín dụng không chỉ phải phù hợp với công
nghệ và chiến lược kinh doanh mà còn có ảnh hưởng đến chính sách , quy
trình thẩm định tín dụng và giới hạn cho vay của ngân hàng áp dụng nó.
Vì vậy mô hình CĐTD được đưa ra phải chứng tỏ được ưu thế của mình

so với các phương pháp thẩm định rủi ro tín dụng trước đó. Xác định mô
hình có lẽ là bước quan trọng nhất trong các bước xây dựng hệ thống
chấm. Nó đòi hỏi người thực hiện phải tiếp xúc với nhiều đối tượng, phân
tích các dữ liệu sẵn có để trả lời cho câu hỏi: “ Cách chấm này có phù hợp
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
10
Sinh viên: Vũ Thị Hồng Hà Lớp: Ngân hàng 44B
với ngân hàng không?”. Sau đây là một số mô hình đang được sử dụng
rộng rãi bởi nhiều NHTM trong việc xác định thứ hạng rủi ro:
1.3.1/ Mô hình xác định rủi ro theo xác suất vỡ nợ.
Một trong những cách chủ yếu để ước tính được xác suất vỡ nợ
bình quân cho mỗi thứ hạng rủi ro là sử dụng các mô hình thống kê dự
đoán. Các mô hình này được xây dựng trên cơ sở dữ liệu về tổn thất tín
dụng từ các nguồn ( như từ trung tâm tín dụng), thường bao gồm các dữ
liệu tài chính của người vay và thông tin về người vay đã vỡ nợ.Hầu hết
các ngân hàng có hệ thống xếp hạng tín dụng đều dùng những mô hình
này để đưa ra và xem xét lại các thứ hạng tín dụng nội bộ. Để xây dựng
các mô hình này , trứơc hết ngân hàng phải xác định các biến số tài chính
có thể cung cấp các thông tin về XSVN ( như tỉ lệ tài sản Nợ/tài sản Có,
thu nhập ròng/tài sản Có…) BÀng phân tích các số liệu về quá khứ, ngân
hàng ước tính tác động của từng biến số này lên khả năng vỡ nợ của một
mẫu các khoản tín dụng được xem xét. Sau đó những hệ số ước tính này
được áp dụng cho các khoản tín dụng hiện tại để đưa ra một điểm sô phản
ánh về XSVN, tiếp đó, điểm số này được chuyển thành một mức xếp
hạng rủi ro. Mô hình chấm điểm này dựa trên phương pháp xây dựng mô
hình CreditMonitor của KMV hay mô hình RiskCalc của công ty xếp
hạng tín dụng Moody’s.
* Mô hình cơ cấu.
Mô hình của Merton (1974) về dự đoán PD của các công ty có cổ
phiếu được niêm yết trênthị trường chứng khoán đã giúp các NHTM có

một sự thay đổi tư duy mạnh mẽ về rủi ro tín dụng. Mô hình của Merton
là một mô hình RRTD mang tính cơ cấu vì nó xác định XSVN trên cơ sở
cơ cấu vốn và sự biến thiên của giá trị tài sản của một công ty. Theo mô
hình này, một công ty vỡ nợ khi giá trị của các tài sản Nợ lớn hơn giá trị
các tài sản Có vào ngày khoản vay đến hạn. Một mô hình cơ cấu mà các
NH thường sử dụng là phần mềm CreditMornitor của công ty KMV, sử
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
11
Sinh viên: Vũ Thị Hồng Hà Lớp: Ngân hàng 44B
dụng thông tin của thị trường về công ty( giá cổ phiếu) để xác định tần
suất vỡ nợ.
* Mô hình kinh tế lượng.
Trong mô hình này , XSVN được ước tính dựa trên tình trạng hiên
tại của nền kinh tế và các khác biệt do yếu tố nghành, địa lý tạo ra. XSVN
được tính toán theo các biến sô như mức tăng trưởng GDP, tỷ lệ thất
nghiệp, lãi suất dài hạn, tỷ giá hối đoái, chi tiêu của Chính phủ và mức
tiết kiệm.
* Mô hình dạng rút gọn.
Thay vì xác định XSVN trên cơ cấu vốn của doanh nghiệp, Tập
đoàn Credit Suisse Financial Products phân chia người vay theo các “khu
vực”, mỗi khu vực có một XSVN bình quân và một lỷ lệ biến thiên của
nó.Mô hình này cho rằng vỡ nợ là một quá trình ngẫu nhiên, hay thay đổi.
Nhược điểm của các mô hình trên gồm hai điểm lớn:
- Một số mô hình xếp hạng bên ngoài không bao hàm tất cả các loại
tài sản. Ví dụ như mô hình xếp hạng của Moody’s và Standard and
Poors cho các khoản tín dụng công nghiệp và thương mai là không
áp dụng được đối với các loại tín dụng khác.
- Các ngân hàng phải chứng mình được khả năng áp dụng được của
các mô hình xếp hạng. Các mô hình xếp hạng bên ngoài được xây
dựng dựa trên một tập hợp rất lớn các số liệu của các khách hàng

vay vốn nên chúng có lợi thế về độ tin cậy thống kê. Nhưng chúng
lại có một nhược điểm là tập hợp khách hàng này có thể khác với
tập hợp khách hàng của ngân hàng. Để chứng minh tính khả dụng
này, các ngân hàng thường tiến hành nghiên cứu các vụ vỡ nợ căn
cứ vào hoạt động tín dụng lịch sử của ngân hàng và so sánh kết quả
này với các kết quả từ mô hình xếp hạng ngân hàng định mua từ
bên ngoài.
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
12
Sinh viên: Vũ Thị Hồng Hà Lớp: Ngân hàng 44B
Tuy đa phần các NHTM đều dùng các mô hình thông kê như một
bộ phận của hệ thống XHTD của mình, nhưng họ vẫn đồng thời sử
dụng mô hình xếp hạng định tính( dựa vào sự đánh giá chủ quan)
trong quá trình xếp hạng , mà các mô hình này cho phép người xếp
hạng điều chỉnh các thứ hạng đó tới một mức độ nhất định dựa trên
những yếu tố định tính.
1.3.2/ Định thứ hạng rủi ro theo phần giá trị người vay có thể bị mất
nếu người vay vỡ nợ.
Đối với một khoản tín dụng nhất định, luụn cú:
GTBM = 1 - tỉ lệ thu hồi lại vốn cho vay.
GTBM có thể ở mức từ 0 đến 100%. Tuy nhiên, theo Uỷ ban Basel,
đối với các danh mục tài sản có cả các khoản tín dụng lớn và nhỏ thì các
NHTM nên giả định rằng GTBM là một số không đổi mặc dù điều này có
thể làm hạ thấp khả năng xảy ra tổn thất vốn lớn. Phương pháp xác định
GTBM đơn giản nhất là ước tính một tỉ lệ GTBM duy nhất , số này có thể
là một giá trị trung bình hoặc là một giới hạn trần của giá trị trung bình
này. Một phương pháp khác ước tính GTBM theo một hàm phân bố xác
suất , như hàm phân bố beta.
Bên cạnh các thứ hạng GTBM còn được xác định bởi một trong các
cách sau:

- Dựa vào các tỉ lệ đảm bảo của tài sản thế chấp- dây là phương pháp
chủ yếu mà các ngân hàng sử dụng đối với hầu hết các loại tíndụng.
Sự đảm bảo tín dụng thường dựa trên một tỉ lệ vốn tín dụng/giá trị
tài sản đảm bảo được chiết khấu, trong đó các giá trị ước tính của
tài sản đảm bảo được chiết khấu theo một tỉ lệ “cho vay an toàn”
chuẩn mực. ở nhiều ngân hàng được khảo sát, quyết định dành một
khoản vốn dự phòng cho tổn thất tín dụng cũng được xem như một
yếu tố để đưa ra các thứ hạng GTBM.
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
13
Sinh viên: Vũ Thị Hồng Hà Lớp: Ngân hàng 44B
- Trực tiếp ước tính một tỉ lệ phần trăm thu hồi lại giá trị của khoản
vay trong trường hợp người vay vỡ nợ ( dựa vào giá trị có thể thu
hồi của bất cứ tài sản thế chấ hoặc của bất cứ hình thức giảm thiểu
RRTD nào, ví dụ như bảo lãnh của bên thứ ba. Bên cạnh đó, các
yếu tố ngoại sinh, như chu kỳ kinh tế, cũng được tính đến).
- Phân loại các khoản tín dụng, như nợ thứ cấp, các khoản cho thuê
tài chính nhỏ, các khoản nợ được bảo đảm bằng bất động sản của
dân cư hoặc bất động sản thương mại thông thường. LGD phụ
thuộc rất lớn vào loại tín dụng, giá trị và tính lỏng của tài sản thế
chấp, quốc gia và hệ thống pháp lý của bên vỡ nợ.
Để chọn được mô hình phù hợp, nhà phõn tớch cần phải thực hiện:
- Nắm rõ chính sách, thủ tục cấp tín dụng của ngân hàng, nhất là khi
họ có cho vay những khoản vay nhỏ.
- Nắm được thị trường mục tiêu , cấu trúc các chi nhánh và giới hạn
cho vay tương ứng của ngân hàng đó.
- Bàn luận về quy trình tín dụng đối với cán bộ tín dụng các cấp để
hiểu vị trí , nhiệm vụ của họ trong hệ thống.
- Đưa ra mô hình bố trí nhân viên và trình bày bằng biểu đồ quá
trình cho vay đối với các doanh doanh nghiệp.

- Phân tích các mô hình áp dụng trước đây, các mẫu và đơn đăng ký
để tìm những điều chưa hợp lý từ đó có những cải tiến cho phù
hợp.
- Phân tích các khoản vay trước đây để xác định xem liệu chấm điểm
tín dụng có thể đảm bảo tính an toàn của các khoản vay tốt hơn các
phương pháp trước đây không.
- Đi thực tế tại các chi nhánh để tìm hiểu quy trình tín dụng được áp
dụng mỗi nơi có gì khác nhau, những điểm không thống nhất và
không hợp lý của chi nhánh trong cùng một hệ thống.
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
14
Sinh viên: Vũ Thị Hồng Hà Lớp: Ngân hàng 44B
Cuối cùng , nhà phân tích phải quyết định dữ liệu về các khoản nợ
được lưu trữ như thế nào tại ngân hàng. Các dữ liệu này đóng vai trò khá
quan trọng vì nó là một trong các nguyên liệu bổ trợ cho quá trình chấm
điểm tín dụng.
1.4/ Vị trí của chấm điểm tín dụng trong quy trình tín dụng đối với
khách hàng là doanh nghiệp.
Mỗi ngân hàng thương mại trong quá trình hoạt động đều xác định
riêng cho mình một quy trình tín dụng đối với khách hàng đặc biệt là
khách hàng doanh nghiệp. Quy trình cơ bản gồm:
- Xác định giới hạn tín dụng(GHTD): để xác định GHTD cần qua 4
bước sau
o Đề xuất GHTD: phòng ban liên quan thu thập thông tin và hồ
sơ tài liệu cần thiếtcủa khách hàng và chịu trách nhiệm lập
báo cáo đề xuất GHTD.
o Thẩm định rủi ro- Xác định GHTD: căn cứ vào các thông tin
nêu tại Báo cáo đè xuất GHTD và các thông tin tự thu thập
được, phòng tín dụng sẽ lập báo cáo thẩm định rủi ro và xác
định GHTD đối với doanh nghiệp theo quy định cụ thể của

từng ngân hàng.
o Phê duyệt GHTD: phòng tín dụng chịu trách nhiệm theo dõi
các thủ tục phê duyệt GHTD theo quy định. Sau đó lập thông
báo tác nghiệp đính kèm cùng toàn bộ hồ sơ xác định GHTD
gốc.
o Nhập dữ liệu vào hệ thống: Căn cứ vào các thông tin nêu tại
Thông báo tác nghiệp và bộ hồ sơ đính kèm, phòng QLN
chịu trách nhiệm nhập dự liệu theo đúng các yêu cầu của hệ
thống.
- Cho vay đối với vốn lưu động: gồm 10 bước
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
15
Sinh viên: Vũ Thị Hồng Hà Lớp: Ngân hàng 44B
o Đề xuất cho vay.
o Thẩm định rủi ro khoản vay.
o Phê duyệt khoản vay.
o Soạn thảo và ký kết hợp đồng.
o Nhập dữ liệu vào hệ thống
o Rút vốn vay.
o Quản lý và giám sát khoản vay và khách hàng vay.
o Điều chỉnh tín dụng.
o Thu hồi nợ vay.
o Xử lý đối với các khoản nợ quá hạn.
Các mức xếp hạng thường được đưa ra (hoặc xác nhận lại) tại thời
điểm khởi tạo hoặc phê chuẩn tín dụng. Sự phântích để hỗ trợ cho việc
xếp hạng và sự phân tích để hỗ trợ cho việc khởi tạo khoản vay hoặc cho
quyết định phê chuẩn tín dụng có quan hệ hữu cơ, tác động qua lại lẫn
nhau. Quy trình xếp hạng tín dụng ảnh hưởng đến quá trình phê chuẩn
tíndụng ở chỗ các giới hạn cho vay và các yêu cầu để được phê chuẩn phụ
thuộc vào mức xếp hạng.

Trong quy trình nêu trên thì cho điểm tín dụng , xếp hạng doanh
nghiệp nằm được thực hiện khi ngân hàng thẩm định rủi ro, đay là bước
đánh giá rủi ro toàn diện và chi tiết đối với khoản đề xuất tín dụng. Trước
khi chấm điểm, phòng tín dụng của ngân hàng cần :
- Xem xét tính hợp pháp của đối tượng xin vay và khoản vay ví dụ
như thực hiện (i) kiểm tra hồ sơ pháp lý của doanh nghiệp (ii) Sự
hợp pháp của nghành nghề/ mặt hàng sản xuất kinh doanh đang đề
cập (iii) Tỷ lệ vố tự có tối thiểu khách hàng phải tham gia theo quy
định .v.v.
- Kiểm tra sự đầy đủ về số lượng các loại giấy tờ cần phải xuất trình
theo quy định và tính phù hợp giữa các loại giấy tờ trong bộ hồ sơ.
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
16
Sinh viờn: V Th Hng H Lp: Ngõn hng 44B
- Nu khon ố xut tớn dng nm ngoi cỏc quy nh cú liờn quan
ca phỏp lut u b t chi.
- Cn c vo chớnh sỏch qun lý ri ro hin hnh ca ngõn hng v
ca chi nhỏnh kim tra (i) khon xut tớn dng cú thuc danh
mc ngnh ngh cm hoc hn ch tớn dng?(ii) Cú vt gii hn
cp tớn dng c phộp? .v.v.
T cỏc thụng tin nờu ti Bỏo cỏo xut tớn dng v cỏc thụng tin
khỏch m cỏn b tớn dng thu thp c, h s tin hnh cho im tớn
dng v phõn loi khỏch hng theo quy nh hin hnh ca ngõn hng.
õy l c s ht sc quan trng i n vic quyt nh cú th chp nh
khon xut tớn dng hay khụng da vo vic thm nh chi tit cỏc
loi ri ro liờn quan n tỡnh hỡnh ti chớnh, tỡnh hỡnh phi ti chớnh v ri
ro ngnh ngh kinh doanh chớnh ca doanh nghip.
hu ht cỏc ngõn hng cỏc nhõn viờn tớn dng l ngi thc hin
vic xp hng tớn dng. Sauk hi khon vay c phờ chun, ngi a ra
mc xp hng ban u thng chu trỏch nhim i vi vic giỏm sỏt

khon tớn dng ny v thay i mc xp hng ny mt cỏch nhanh chúng
khi iu kin kinh doanh ca ngi vay thay i. Tuy nhiờn mt s
ngõn hng, cỏc nhõn viờn phũng qun lý khỏch hng vay li l ngi thc
hin vic xp hng tớn dng, cũn nhõn viờn tớn dng chu trỏch nhim xột
duyt cỏc khon vay v cỏc mc xp hng ó c a ra, giỏm sỏt cht
lng ca danh mc cho vay v ụi khi cng thc hin vic kim tra nh
k cỏc khon vay v trc tip xp hng cho cỏc khon tớn dng riờng bit.
1.5/ Các tiêu chí chm im doanh nghip .
Các ngân hàng dựa trên bảng chấm điểm để đánh giá , phân tích tình
hình kinh doanh của doanh nghiệp từ đó dự đoán khả năng hoàn trả vốn vay
cũng nh hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp đó. Vì vậy, khi xây dựng
bảng điểm cần chọn những tiêu chí phù hợp , có tính đại diện cao để sự
đánh giá của ngân hàng đợc chính xác và khách quan hơn. Dới đây em xin
Chuyờn thc tp tt nghip
17
Sinh viờn: V Th Hng H Lp: Ngõn hng 44B
đa ra 5 nhóm tiêu chí hiện nay đợc các ngân hàng sử dụng để xây đựng hệ
thống chấm điểm tín dụng nội bộ ngân hàng.
1.5.1/ Hình thức sở hữu.
Hình thức sở hữu có ảnh hởng khá nhiều đến khả năng trả nợ của
doanh nghiệp. Có thể chia các doanh nghiệp đang hoạt động hiện nay ra
làm 4 nhóm :
- Doanhnghiệp thuộc sở hữu nhà nớc.
- Doanh nghiệp thuộc sở hữu t nhân.
- Doanh nghiệp thuộc sở hữu cá nhân, các tổ chức nớc ngoài.
- Doanh nghiệp thuộc sở hữu hỗn hợp.
Bất kỳ loại hình doanh nghiệp nào cũng sẽ có những đơn vị phát triển
mạnh và không mạnh, nhng xét mặt bằng chung, tuỳ vào đặc điểm từng nền
kinh tế mà các loại hình sẽ có các thế mạnh khác nhau. Có thể lấy Việt
Nam làm ví dụ. Nền kinh tế nớc ta chịu ảnh hởng nhiều từ chế độ tập trung

bao cấp cũ, các doanh nghiệp nhà nớc thờng đợc u tiên hơn , nhận đợc
nhiều sự hỗ trợ không nhỏ từ nhà nớc. Những u tiên này đợc thể hiện qua
các chính sách u đãi, các khoản hỗ trợ tài chính .v.v. Việc đợc nhà nớc sở
hữu là một bảo đảm to lớn đối với các doanh nghiệp có tham gia hoạt động
kinh doanh với các doanh nghiệp nhà nớc. Tuy nhiên không hẳn các doanh
nghiệp khác không có u thế. Cỏc cụng ty liên doanh hoc doanh nghip
100% vn nc ngoi khi u t vn vo th trng Vit Nam cú nhiu
thun li nh cú mỏy múc, cụng ngh hin i li c Chớnh ph to
iu kin thụng qua chớnh sỏch khuyn khớch m ca u t. Vi tỏc
phong kinh doanh chuyờn nghip cỏc doanh nghip ny thng lm n cú
hiu qu hn cỏc doanh nghip nh nc. Bờn cnh ú, cỏc doanh nghip
thuc s hu cỏ nhõn li cú s phỏt trin khụng ng u. Thc t ny
phỏt sinh t kh nng qun lý ca lónh o n s vn c u t vo
Chuyờn thc tp tt nghip
18
Sinh viên: Vũ Thị Hồng Hà Lớp: Ngân hàng 44B
doanh nghiệp, ngoài ra cũng vì họ ít nhận được sự hỗ trợ từ phía nhà nước
. Có thể thấy đây là loại hình ít thuận lợi nhất so với các thành phần khác.
Như vậy hình thức sở hữu doanh nghiệp có tác động không nhỏ đến
hiệu quả kinh doanh đồng nghĩa với việc nó cũng ảnh hưởng tới khả năng
trả các món nợ cho ngân hàng. Các tác động này không chỉ do các chính
sách ưu đãi của nhà nước mà còn do chủ thể đứng sau của doanh nghiệp.
Tầm quan trọng của chủ thể này càng cao thì mức độ đảm bảo của các
khoản vay doanh nghiệp do chủ thể sở hữu cũng sẽ càng lớn. Việc quan
tâm đến hình thức sở hữu doanh nghiệp sẽ giúp ngân hàng đánh giá được
trong từng thời kỳ khác nhau, doanh nghiệp nào có ưu thế hơn sẽ được
chấm số điểm cao hơn tương ứng. Đây là một chỉ tiêu cần thiết trong quá
trình chấm điểm doanh nghiệp.
1.5.2/ Nghành nghề kinh doanh.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, số lượng doanh nghiệp đang

hoạt động là không nhỏ, đi kèm với nó là sự đa dạng về nghành nghề, về
chủng loại hàng hoá, chu kỳ kinh doanh, mức độ rủi ro, khả năng sinh
lời.v.v.của các doanh nghiệp đó. Vì vậy để đánh giá đúng đối tượng xin
vay, ngân hàng cũng cần phải sắp xếp các doanh nghiệp có những nét
tương tự nhau vào cùng một nhóm nhất định. Việc sắp xếp này sẽ giúp
ngân hàng nhìn thấy đuợc tiềm năng của mỗi doanh nghiệp trong từng
giai đoạn cụ thể. Nhận định này xuất phát từ đặc điểm của mỗi nền kinh
tế. Mỗi quốc gia lựa chọn cho mình những hướng phát triển khác nhau
tuỳ vào thế mạnh của mình. Những nước phát triển thì thường chọn tập
trung vào thương mại dịch vụ và công nghiệp. Còn với những nước đang
phát triển, nông nghiệp luôn là ngành trọng điểm, là cơ sở chính cho cả
kinh tế. Việc lựa chọn này phụ thuộc nhiều vào đặc điểm kinh tế, xã hội,
địa lý từng nước, cũng như vào chiến lược phát triển mà Nhà nước đó lựa
chọn.
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
19
Sinh viên: Vũ Thị Hồng Hà Lớp: Ngân hàng 44B
Song song với việc xác định nghành trọng điểm của mỗi nước,
chúng ta cũng cần tìm hiểu xu hướng phát triển của quốc gia đó, đặc biệt
là những nước đang chuyển đổi. Trong quá trình chuyển đổi cơ cấu nền
kinh tế, tất yếu các doanh nghiệp kinh doanh nghành nghề mà Nhà nước
đặt mục tiêu phát triển sẽ có nhiều lợi thế hơn do họ được tạo điều kiện
nhiều hơn, ưu tiên phát triển. Có thể lấy Singapore làm ví dụ. Trước 2002,
thế mạnh của Singapore là du lịch và công nghệ thông tin, nhưng từ 2002
đến nay, Singapore dần chuyển hướng sang công nghệ sinh học, một lĩnh
vực rất mới, rất có tiểm năng hiện nay. Theo em đây là một hướng chuyển
đúng đắn. Với sự chuyển đổi này, các trung tâm nghiên cứu sinh học tại
Singapore được đầu tư với số vốn tăng vọt, cải thiện cơ sở hạ tầng, mua
sắm máy móc trang thiết bị.v.v. Trong một tương lai gần,công nghệ sinh
học chắc chắn sẽ trở thành thế mạnh của đất nước này. Vì vậy nếu ngân

hàng có những khách hàng xin vay thuộc lĩnh vực sinh học cũng sẽ yên
tâm hơn về khoản vay của họ. Tất nhiên ngân hàng sẽ cho điểm cao hơn
đối với các đơn vị này so với các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực
khác, kém nóng hơn.
Một câu hỏi đặt ra là phân chia nghành nghề trong chấm điểm tín
dụng có thật sự quan trọng? Câu trả lời là có. Những nghành nghề mũi
nhọn, hoặc cơ bản chắc chắn sẽ nhận được sự hẫu thuẫn to lớn từ Nhà
nước. Hơn nữa nếu Nhà nước đã lựa chọn đó là nghành trọng điểm nghĩa
là đang có những điều kiện rất thuận lợi để phát triển nghành. Nếu Chính
phủ không đầu tư vào nghành trọng điểm, để nghành kém phát triền sẽ có
tác động tiêu đến tổng thể cả nền kinh tế. Vì vậy khi thẩm định chấm
điểm để cấp tín dụng, việc phân chia nghành nghề là một chỉ tiêu không
thể thiếu. Ngân hàng sẽ xây dựng một khung điểm hợp lýcho các doanh
nghiệp. Nhưng khung điểm này chỉ có giá trị thời kỳ do các nghành cũng
được tập trung phát triển theo chu kỳ. Để lựa chọn mức điểm cho từng
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
20
Sinh viên: Vũ Thị Hồng Hà Lớp: Ngân hàng 44B
nghành nghề trong mỗi giai đoạn là công việc không đơn giản, nó cũng
quyết định một phần sự thành công của bảng chấm tín dụng.
1.5.3/ Quy mô vốn chủ sở hữu.
Quy mô doanh nghiệp là một chỉ tiêu tổng hợp bao gồm nhiều chỉ
tiêu đơn lẻ như tình hình thực hiện nghĩa vụ với nhà nước, tổng giá trị tài
sản, vốn chủ sở hữu, doanh thu .v.v. Trong các chỉ tiêu đó, quy mô vốn
chủ sở hữu là chỉ tiêu được quan tâm hàng đầu. Nó đựơc hiểu là toàn bộ
số vốn mà doanh nghiệp bỏ ra khi tiến hành sản xuất kinh doanh, nguồn
vốn này có thể được bổ sung hoặc giảm bớt trong quá trình hoạt động.
Khoản vốn này không chỉ nhận được sự quan tâm đặc biệt của chủ doanh
nghiệp mà còn được chủ nợ theo dõi sát sao. Trên bảng cân đối kế toán ,
tổng nguồn vốn là các khoản vay ngắn hạn,dài hạn từ các TCTD, các

khoản phải trả phải nộp, vốn thu được từ hoạt động phát hành trái phiếu,
vốn chủ sở hữu và các loại vốn khác. Dùng vốn nợ chi phí thấp hơn so
với dùng vốn chủ sở hữu (do quy trình hạch toán tài chính về thu nhập
chịu thuế và lợi tức trả cho cổ đông ). CÀng ngày các doanh nghiệp càng
nhận thức được thế mạnh của việc sử dụng nợ, không chỉ với chi phí thấp
mà còn vì mức độ rủi ro cũng ít hơn vốn chủ sở hữu, nên khi mở rộng sản
xuất thông thường doanh nghiệp hay chọn cách vay nợ để huy động vốn.
Tất nhiên các khoản vay này chỉ được thực hiện khi bên vay nợ đáp ứng
được yêu cầu của bên cho vay. Các yêu cầu này nhằm để đảmbảo khả
năng trảnợ của doanh nghiệp. Trong các yêu cầu đó, vốn chủ sở hữu là
một thành phần rất quan trọng. Các nhà đầu tư sẽ thấy yên tâm khi vốn
chủ sở hữu của doanh nghiệp chiếm tỷ trọng an toàn trong tổng số vốn mà
doanh nghiệp đó nắm giữ. Vì vậy quy mô vốn chủ sở hữu cũng cần được
đưa vào bảng chấm điểm của ngân hàng khi đánh giá khách hàng.
Tuy nhiên với những doanh nghiệp có cùng quy mô vốn chủ sở hữu
thì chưa chắc đã có số điểm giống nhau. Điểm này còn phụ thuộc các
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
21
Sinh viên: Vũ Thị Hồng Hà Lớp: Ngân hàng 44B
nghành nghề kinh doanh vì với mỗi lĩnh vực, số vốn yêu cầu trong hoạt
động cũng rất khác nhau, tuỳ vào đặc trưng của từng nghành. Nghành
thương mại dịch vụ là nghành kinh doanh có chu kỳ quay vòng vốn
nhanh, các doanh nghiệp cũng ít chịu tổn thất về hàng hoá ,họ có thể tận
dụng có hiệu quả vốn kinh doanh nên thường không cần nhiều vốn mà
vẫn có thể thu được tỷ suất lợi nhuận đáng kể và ổn định. Trong khi đó,
nghành xâydựng lại lànghành yêu cầu số vốn lớn do tính chất sản phẩm
của nghành: đơn chiếc, thời gian khấu hao, thu hồi vốn lâu lại chịu nhiều
ảnh hưởng bên ngoài; tỷ trọng vốn chủ sở hữu trong nghành này thường
nhỏ so với vốn vay nên đòi hỏi một mẫu chấm điểm khác so với các
nghành khác. Nghành nông lâm ngư nghiệp lại chịu nhiều rủi ro khách

quan như mùa vụ, giá cả nguyên nhiên liệu .v.v. Nói chung mỗi nghành
nghề có những đặc trưng riêng biệt nên không thể kết luận họ có cùng khả
năng đảm bảo an toàn vốn nếu chúng có cùng quy mô vốn chủ sở hữu,
hay nói cách khác , quy mô vốn lớn hay nhỏ của một nghành phải đặt
trong tương quan với các doanh nghiệp kinh doanh trong nghành thì mới
có thể đánh giá chính xác khả năng của doanh nghiệp đó.
Có thể nói tỷ trọng vốn chủ sở hữu trong doanh nghiệp làm yên
lòng các nhà đầu tư do nó là đảm bảo an toàn nhất đối với họ. Vì vậy đưa
chỉ tiêu này vào khung chấm điểm là hợp lý.
1.5.4/ Chỉ tiêu tài chính .
Đây là các chỉ tiêu phản ánh tổng quát nhất tiềm lực tài chính đồng
thời cũng phản ánh rõ nét nhất khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Các
ngân hàng với mục tiêu cao nhất và cũng là mục tiêu bắt buộc để duy trì
hoạt động của chính mình là phải thu được nợ từ khách hàng, nên việc thu
thập, phân tích và cho điểm các chỉ tiêu tài chính doanh nghiệp là hoạt
động không thể thiếu. Chỉ tiêu này gồm 5 nhóm chỉ tiêu nhỏ:
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
22
Sinh viên: Vũ Thị Hồng Hà Lớp: Ngân hàng 44B
- Nhóm chỉ tiêu phản ánh tốc độ tăng trưởng giúp nhà phân tích so
sánh tình hình hoạt động của doanh nghiệp thông qua doanh thu và
lơi nhuận hai năm. Nhóm gồm 2 chỉ tiêu:
o Tốc độ tăng doanh thu = (DT năm sau- DT năm trước)/ DT
năm trước.
o Tốc độ tăng lợi nhuận = (LN năm sau-LN năm trước)/ LN
năm trước.
- Nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng hoạt động gồm có:
o Vòng quay hàng tồn kho= Giá vốn hàng bán/ Hàng tồn kho
bình quân.
o Kỳ thu tiền bình quân = Các khoản phải thu/ Doanh thu bình

quân 1 ngày.
o Hiệu suất sử dụng tài sản = Doanh thu/ Tài sản.
- Nhớm chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán gồm:
o Khả năng thanh toán hiện hành = Tài sản lưu động/ Nợ ngắn
hạn.
o Khả năng thanh toán nhanh = (Tài sản lưu động - Dự trữ)/
Nợ ngắn hạn.
- Nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lãi gồm :
o Mức doanh lơị tài sản ( ROA) = (Lợi nhuận trước thuế/
Tổng tài sản)*100%.
o Doanh lợi vốn chủ sở hữu( ROE) = (Lợi nhuận trước
thuế/Vốn chủ sở hữu)*100%.
o Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm = (Lợi nhuận trước thuế/ Doanh
thu) * 100%.
- Nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng cân đối vốn gồm:
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
23
Sinh viên: Vũ Thị Hồng Hà Lớp: Ngân hàng 44B
o Hệ số nợ = (Tổng dư nợ của doanh nghiệp/ Tổng tài
sản)*100%
o Khả năng thanh toán lãi vay, khả năng thanh toán nợ gốc và
lãi vay.
o Tỷ số nợ quá hạn trên tổng dư nợ ngân hàng.
Hiển nhiên các doanh nghiệp hoạt động tốt, sử dụng vốn có hiệu
quả sẽ thu được số điểm cao hơn các doanh nghiệp đang gặp khó khăn về
tài chính. Tuy nhiên các chỉ tiêu trên dựa trên báo cáo tài chính của doanh
nghiệp nên có thể có những biến động không mong muốn. Ngân hàng cần
đánh giá mức độ quan trọng của mỗi chỉ tiêu trong đó chú trọng vào hai
chỉ tiêu phản ánh khả năng cân nợ và phản ánh khả năng sinh lời. Khi
giữa các yếu tố không có sự đồng nhất thì có thể căn cứ vào hai chỉ tiêu

này để đưa ra kết luận về doanh nghiệp.
1.5.5/ Chỉ tiêu phi tài chính.
Các chỉ tiêu trên là rất cần thiết nhưng chưa đầy đủ vì đó là các con
số dựa vào báo cáo của doanh nghiệp trong quá khứ, các ngân hàng dựa
vào đó để dự đoán khả năng tài chính của doanh nghiệp nhưng ngoài khả
năng tài chính còn một số yếu tố khác cũng quyết định đến thành công
hay thất bại của doanh nghiệp. Xem xét đến các yếu tố phi tài chính này
sẽ giúp ngân hàng đánh giá chính xác hơn doanh nghiệp yêu cầu vay vốn.
Em xin đưa ra một số chỉ tiêu mà ngân hàng quan tâm khi xây dựng hệ
thống chấm điểm:
- Uy tín trong quan hệ tín dụng bao gồm : số lần gia hạn nợ, số lần
trả chậm lãi vay, các khoản nợ quá hạn… Nếu doanh nghiệp không
thực hiện được nghĩa vụ trả nợ thì cóhai khả năng xảy ra: doanh
nghiệp gặp khó khăn về mặt tài chính hoặc doanh nghiệp không có
ýthức tốt trong việc trả nợ. Cần tìm hiểu xem doanh nghiệp khách
hàng của ngân hàng nằm trong trường hợp nào. Thường thì những
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
24
Sinh viên: Vũ Thị Hồng Hà Lớp: Ngân hàng 44B
khách hàng không có quá khứ tín dụng tốt sẽ không được chấm
điểm cao, khó có thể được cấp tín dụng hoặc nếu có thì không
nhiều.
- Sản phẩm, thị trường tiêu thụ và vị thế của doanh nghiệp:
o Thị trường tiêu thụ: Một doanh nghiệp trước khi đi vào hoạt
động phải xác định nhu cầu của thị trường , từ đó tìm ra cho
mình thị trường mục tiêu để hướng đến phục vụ. Thị trường
này đóng vai trò quyết định đối với sự tồn tại của doanh
nghiệp, vì vậy nó cũng rất được các TCTD quan tâm khi tiến
hành xếp hạng doanh nghiệp. TCTD khi tìm hiểu cần tìm ra
được xu thế phát triển thị trường, quy mô và khả năng tiêu

thụ trong tương lai.
o Sản phẩm: ngân hàng khi tìm hiểu về mặt hàng doanh
nghiệp kinh doanh cần xem xét đến một số mặt sau: chất
lượng của sản phẩm, giá cả, có khả năng cạnh tranh được với
các sản phẩm cùng loại trên thị trường không? đầu vào của
sản phẩm có ổn định không? sản phẩm đang ở giai đoạn nào
của chu kỳ sống .v.v. Từ đáp án của những câu trả lời trên ,
các nhà phân tích có thể đánh giá và đưa ra mức điểm phù
hợp khi xếp hạng doanh nghiệp.
o Về vị thế của doanh nghiệp trên thị trường: vị thế của doanh
nghiệp là một chỉ tiêu khó đánh giá chính xác, chỉ có thể đo
bằng dịnh tính. Nó dựa trên : mức độ nổi tiếng của doanh
nghiệp thông qua việc nó có được nhiều người biết đến
không? sự biến động của thị trường trước sự thay đổi của
doanh nghiệp; thái độ của các đối thủ cạnh tranh đối với
doanh nghiệp;
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
25

×